Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

TƯƠNG QUAN GIỮA LỄ HỘI ĐỀN NHÀ BÀ Ở XÃ TIÊN DU, HUYỆN PHÙ NINH VỚI CÁC LỄ HỘI GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TẠI TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.05 KB, 78 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU THỊ THU HÀ

TƯƠNG QUAN GIỮA LỄ HỘI ĐỀN NHÀ BÀ
Ở XÃ TIÊN DU, HUYỆN PHÙ NINH VỚI
CÁC LỄ HỘI GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG
THỜ MẪU TẠI TỈNH PHÚ THỌ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Việt Nam Học

Phú Thọ, năm 2016
1


2

ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU THỊ THU HÀ

TƯƠNG QUAN GIỮA LỄ HỘI ĐỀN NHÀ BÀ
Ở XÃ TIÊN DU, HUYỆN PHÙ NINH VỚI
CÁC LỄ HỘI GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG
THỜ MẪU TẠI TỈNH PHÚ THỌ


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Việt Nam Học

Ngưởi hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Hà

Phú Thọ, năm 2016
2


3

MỤC LỤC

3


4

Với tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban
lãnh đạo trường đại học Hùng Vương, Ban chủ nhiệm khoa Khoa học xã hội
và Nhân văn, các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là các thầy cô trong bộ
môn Văn hóa – Du lịch đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sĩ
Nguyễn Thị Hà - Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong
suốt quá trình nghiên cứu tìm hiểu và hoàn thành khoá luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cơ quan hữu
quan: Sở Văn hóa, Thể thao, Du lịch tỉnh Phú Thọ, Tổng cục thống kê tỉnh
Phú Thọ, Phòng Văn hóa huyện Phù Ninh, UBND xã Tiên Du... đã giúp đỡ
em trong quá trình thu thập tư liệu, các thông tin có liên quan đến nội

dung nghiên cứu khoá luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
thực tập cũng như thực hiện khoá luận. Em xin chân thành cảm ơn.
Phú Thọ,ngày ,tháng ,năm 2016
Sinh viên thực hiện

Triệu Thị Thu Hà

4


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quốc gia nào, dân tộc nào cũng có những lễ hội truyền thống. Đó là di sản
chứa đựng giá trị tinh tuý luôn được gạn lọc những gì không còn phù hợp với
thời đại mới. Việt Nam là quốc gia đã có hàng ngàn năm lịch sử. Cũng như
nhiều quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam có một nền văn hóa mang đậm bản sắc
của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, chính những nét đó làm nên cốt cách
hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Xuyên suốt chiều dài của lịch sử dựng
và giữ nước, lễ hội luôn là yếu tố đặc trưng cho dân tộc vì nó góp phần làm cho
văn hóa đặc sắc, đậm đà hơn. Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam,
sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội là những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian hầu
như có mặt ở khắp mọi miền đất nước.
Phú Thọ là mảnh đất phát tích cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây
còn lưu giữ và bảo tồn nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc ta
như tín ngưỡng, lễ hội dân gian, dân ca, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực.
Cũng như các miền quê khác trong cả nước, cứ mỗi độ xuân về, Phú Thọ lại

tưng bừng mở lễ hội để tưởng nhớ, tri ân công đức của những vị tiền nhân có
công với dân, với nước.
Nếu như nói rằng, tín ngưỡng là một nghi lễ thờ cúng, một hình thức
sinh hoạt văn hoá dân gian thì biểu hiện của nó chủ yếu lại được thể hiện qua
các lễ hội truyền thống. Lễ hội ở Phú Thọ khá phong phú và đa dạng, song mỗi
một lễ hội lại mang một nét riêng, đặc sắc, độc đáo mà ít nơi có được. Mỗi một
lễ hội lại gắn với một thời kì lịch sử, một giai thoại, một sự tích, và một công
trạng của một người có công với dân, với nước. Nhiều lễ hội đã trở thành biểu
tượng văn hóa tâm linh, độc đáo và trong hệ thống lễ hội độc đáo ấy ta không
thể không nhắc tới “Lễ hội đền Nhà Bà” tại xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh
Phú Thọ.
Lễ hội đền Nhà Bà là một hoạt động văn hóa còn gìn giữ được nhiều nét
đẹp của tín ngưỡng dân gian, đó là tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ cúng
anh hùng. Hằng năm, cứ vào mỗi dịp xuân về, nhân dân Tiên Du lại náo nức tổ
chức lễ hội đền Nhà Bà với mong muốn tưởng nhớ tổ tiên, thể hiện lòng biết ơn
với tới hai nàng công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa cùng các vị danh tướng thời
Hùng Vương - những người có công với dân với nước, đồng thời cầu cho một


6

mùa màng tốt tươi, một năm mới thái bình, nhân khang vật thịnh. Tham dự lễ
hội tác giả thấy được vai trò, ý nghĩa to lớn của lễ hội đối với đời sống của
người dân địa phương cũng như tầm quan trọng của công tác bảo tồn phát huy
những giá trị văn hoá của dân tộc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng quan trọng đối với người dân Việt
Nam nói chung và người dân tỉnh Phú Thọ nói riêng, trong đó lễ hội đền Nhà
Bà, xã Tiên Du, huyện Phù Ninh là một lễ hội tiêu biểu thể hiện tín ngưỡng thờ
Mẫu của nhân dân ta. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về lễ hội, cũng như đặt nó trong hệ thống các lễ hội gắn với tín

ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh Phú Thọ, để có cái nhìn tổng quan, toàn diện về lễ hội
này.
Là một sinh viên năm thứ tư, việc nghiên cứu này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng nghiên cứu và tập dượt làm đề tài
nghiên cứu văn hóa phục vụ cho quá trình tác nghiệp sau này. Xuất phát từ
những lí do nêu trên tác giả mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tương quan
giữa lễ hội đền Nhà Bà ở xã Tiên Du, huyện Phù Ninh với các lễ hội gắn với
tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh Phú Thọ” cho công trình khoá luận của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về lễ hội không phải là một đề tài mới, từ trước tới nay đã có
nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này:
Công trình “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại” của tác
giả Lê Hữu Tầng (1993), Nxb Khoa học xã hội, đã khẳng định vai trò của lễ hội
truyền thống trong đời sống đương đại đồng thời chỉ ra và phân tích những tích
cực cũng như hạn chế trong việc tổ chức các lễ hội truyền thống hiện nay.
Những biến đổi kinh tế - xã hội sẽ tác động đến nhu cầu lễ hội của người dân.
Cuốn “Du lịch lễ hội Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Mai (Trường
Đại học Văn hoá Hà Nội, 2006) đã giới thiệu những địa điểm du lịch nổi tiếng
trên khắp đất nước và các lễ hội truyền thống tiêu biểu của Việt Nam.
Trong công trình “Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền”, tác giả Ngô Đức
Thịnh cũng đã chỉ ra một số nét tiêu biểu, những giá trị văn hoá đặc sắc của lễ
hội truyền thống ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu “Lễ hội trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, tác
giả Vũ Ngọc Khánh cũng đã đóng góp nhiều ý kiến về vai trò của lễ hội truyền


7

thống trong xã hội đương đại. Tác giả nhấn mạnh lễ hội không phải là một hiện
tượng văn hoá bất biến mà nó có sự thay đổi qua thời gian, sự biến đổi và tiếp

tục của các lễ hội chính là sự hài hoà của nó đối với không gian và thời gian
nhất định.
Trong giáo trình “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch”,tác giả
Dương Văn Sáu cũng đã chỉ ra khái niệm về lễ hội, đồng thời ông cũng đưa ra
quan điểm về cách phân loại lễ hội.
Trên tạp chí Dân tộc học, số 2, bài viết “Nghiên cứu hội làng ở Việt Nam,
các loại hình hội làng trước cách mạng”, tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết đã đưa ra
những khái quát chung về một số lễ hội dân gian Việt Nam thời Pháp thuộc.
Trên tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 11, tác giả Ngô Đức Thịnh với bài viết
“Mấy nhận thức về lễ hội truyền thống”, đã đánh giá về vai trò, giá trị của lễ hội
truyền thống đối với sự phát triển của xã hội hiện đại.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của các tác giả Nguyễn Thu Linh,
Phan Văn Tú “Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp”, là một trong
những công trình đánh giá tương đối đầy đủ về thực trạng lễ hội truyền thống
Việt Nam. Các tác giả nhấn mạnh rằng lễ hội đang trở thành một sản phẩm quan
trọng của ngành du lịch, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế ở
nhiều địa phương.
Về lễ hội đền Nhà Bà:
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Phú Thọ, Hội Văn nghệ dân gian có tác
phẩm “Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam”do Phạm Bá Khiêm chủ biên,
đã thống kê khá đầy đủ chi tiết các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, trong đó có
lễ hội đền Nhà Bà và một số lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu. Tuy nhiên,
trong công trình này, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc miêu thuật và giải nghĩa
các lễ hội.
Ngoài ra, trên trang thông tin điện tử của huyện Phù Ninh cũng có bài
viết: “Lễ hội Đền Nhà Bà xã Tiên Du, huyện Phù Ninh” của tác giả Bùi Thị
Hồng Hạnh đã đề cập trực tiếp tới lễ hội này tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở mức
độ giới thiệu khái quát trong khuôn khổ một bài báo.
Như vậy, cho đến nay đã có các công trình nghiên cứu có liên quan đến lễ
hội đền Nhà Bà, nhưng cho đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở

mức độ giới thiệu về các lễ hội, chứ chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về


8

lễ hội đền Nhà Bà. Cũng như chưa có nghiên cứu nào đặt lễ hội đền Nhà Bà trong
tương quan so sánh với các lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh Phú Thọ.
Chính vì vậy, tác giả thực hiện đề tài này với mong muốn khám phá
những nét đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân xã Tiên Du, huyện Phù
Ninh thể hiện trong lễ hội đền Nhà Bà, góp phần đưa lễ hội này đến gần hơn với
nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung, đồng thời góp
phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của lễ hội này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu diễn trình của lễ hội Đền Nhà Bà, đồng thời chỉ ra mối tương
quan giữa lễ hội đền Nhà Bà ở xã Tiên Du, huyện Phù Ninh với các lễ hội gắn
với tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh Phú Thọ. Trong đề tài tác giả cũng lý giải một
số quan niệm, triết lý nhằm làm nổi bật nét đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ
hội đền Nhà Bà, từ đó làm sáng tỏ những giá trị văn hoá đặc sắc của lễ hội cũng
như đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
của lễ hội này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần thực hiện được những
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về tín ngưỡng và lễ hội, khái quát chung về đời
sống kinh tế - văn hoá của người dân xã Tiên Du.
Nghiên cứu, so sánh tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của lễ
hội đền Nhà Bà, xã Tiên Du với các lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh
Phú Thọ.
Nêu ra một số thực trạng của lễ hội để từ đó đề xuất một số giải pháp,

kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của lễ hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lễ hội đền Nhà Bà và một số lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh
Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.


9

Phạm vi thời gian: Nghiên cứu lễ hội đền Nhà Bà trong hệ thống các lễ
hội gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu tại tỉnh Phú Thọ, trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khoá luận, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử
Lễ hội đền Nhà Bà xã Tiên Du là một trong những lễ hội cổ truyền của
người dân ở xã Tiên Du, từ nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của lễ
hội ta thấy rõ được vai trò lịch sử trong đó. Chúng ta tìm hiểu về lễ hội nhưng
cũng chính là tìm hiểu về lịch sử, tái hiện về cuộc sống vật chất tinh thần của
cha ông ta. Phương pháp lịch sử sẽ cho ta đánh giá về lễ hội có căn cứ, xác thực
và thuyết phục bạn đọc.
Phương pháp văn hoá học
Đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu văn hoá, trọng tâm là tìm hiểu và đưa ra
những nhận định, đánh giá các giá trị văn hoá của lễ hội. Vì vậy việc ứng dụng
các thành tựu nghiên cứu khoa học của ngành văn hoá học sẽ giúp chúng ta có
được cái nhìn đánh giá theo đúng chuyên ngành, để qua đó có sự phân tích, tổng
hợp vấn đề trong mối tương quan lôgic biện chứng khách quan, từ đó lý giải
đúng các vấn đề hoặc phán đoán dưới góc độ nhân học, văn hoá, địa – văn hoá,
khu vực học...

Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
Lễ hội vốn là hình thức sinh hoạt văn hoá có tính phổ quát trong đời sống
nhân dân. Giá trị di sản văn hoá trong các lễ hội khác nhau thể hiện trên những
bình diện về hệ giá trị khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào tính “nội sinh”, bản địa
và sự chiếm lĩnh, đồng hoá những nét văn hoá ngoại nhập. Gắn với mỗi địa vực
cư trú nhất định, người dân sẽ có cách ứng xử tương ứng với các điều kiện tự
nhiên, xã hội. Những điều đó thể hiện rõ dấu ấn trong lễ hội, đình đám, phong
tục tập quán, đời sống tâm linh, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ,... Thậm chí ở một
địa bàn cư trú nhưng mỗi thời đoạn lịch sử cụ thể lại có những “biến tướng”
không thể nhận ra. Vì vậy một cái nhìn dưới góc độ tương đồng và dị biệt, so
sánh đồng đại và lịch đại là cần thiết.
Phương pháp điền dã văn hoá
Lễ hội ở Phú Thọ đã sớm được những nhà nghiên cứu như Dương Huy
Thiện, Nguyễn Khắc Xương, Trần Văn Thục, Nguyễn Phi Nga... nghiên cứu kĩ


10

lưỡng. Thậm chí các tác giả còn xem xét các vấn đề dưới nhiều bình diện. Đó là
điểm tựa cần thiết cho những người muốn nghiên cứu sâu hơn, chuyên biệt hơn
về vấn đề này. Tuy nhiên gắn với một vấn đề nghiên cứu khá đặc thù mà giá trị
của nó có khi rất rõ ràng, có khi lại ẩn tàng trong chính quan niệm, tâm thức
người dân thì không thể thiếu điền dã văn hoá và thâm nhập thực tế. Bởi vậy,
chúng tôi xác định việc cần làm trước hết là sưu tầm để bao quát tài liệu nghiên
cứu, điền dã – thâm nhập thực tế rồi tiến hành thống kê, phân loại trang bị một
cái nhìn toàn diện, có hệ thống về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Chọn đối tượng nghiên cứu là hệ thống lễ hội, chúng tôi nhận thức rằng
đây là một đối tượng thâu nạp trong nó rất nhiều giá trị văn hoá lịch sử, tín
ngưỡng, tôn giáo... Lễ hội bao chứa trong nó vừa là các loại hình nghệ thuật diễn

xướng (biểu diễn) vừa là nghệ thuật tạo hình, bên cạnh đó còn là loại hình nghệ
thuật ngôn từ . Trước một đối tượng như vậy, vận dụng phương pháp liên ngành
giúp chúng tôi có thể kết hợp những cách nhìn dưới góc độ văn hoá, sử học, tín
ngưỡng phong tục, dân tộc học, nhân học văn hoá... nhằm chỉ ra các biểu hiện,
các khía cạnh cụ thể của vấn đề nghiên cứu.


11

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI TẠI XÃ TIÊN DU, HUYỆN
PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Khái luận về tín ngưỡng
1.1.1. Khái niệm
Trong cuộc sống xa xưa, trình độ tư duy của con người còn thấp kém,
cuộc sống của con người hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Con người không
giải thích được những hiện tượng tự nhiên, không biết được quy luật vận động
và biến đổi của tự nhiên nên họ cho rằng tất cả những hiện tượng ấy đều là do
thần thánh tạo ra. Chính vì lẽ đó mà con người đã thờ cúng thần linh, cầu mong
sự che chở của thần linh. Hơn nữa, sự bất công, bất bình đẳng trong đời sống xã
hội đã khiến nhiều người phải chịu cảnh khốn cùng, khổ đau, lo âu và sợ sệt.
Trước tình cảnh ấy, họ không còn cách nào khác là tìm đến những lực lượng siêu
nhiên như thần thánh để cầu xin sự ban ơn, che chở và cứu giúp chính vì thế mà
tín ngưỡng ra đời.
Tín ngưỡng cũng như các hiện tượng khác đều được xem như là một yếu
tố nội sinh của văn hoá và là sản phẩm của xã hội, phản ánh nhận thức của một
xã hội. Mang trong mình những đặc thù riêng có. Tín ngưỡng không chỉ là một
bộ phận của đời sống văn hoá tinh thần mà còn là một bộ phận hữu cơ gắn bó
mật thiết với sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Tín ngưỡng là vấn đề đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và

lí giải, song tín ngưỡng là một khái niệm trừu tượng, xung quanh nó có rất nhiều
quan điểm khác nhau. Ở Việt Nam, có những hiện tượng nếu xét theo tiêu chí
tôn giáo thì chúng không đáp ứng đầy đủ mà được xem là các tôn giáo nguyên
thuỷ hay các tôn giáo sơ khai. Nói đến tín ngưỡng là nói tới quá trình thiêng hoá
một nhân vật, hiện tượng được con người gửi gắm niềm tin hay ta gọi đó là niềm
tin tôn giáo.
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng được hiểu theo hai nghĩa, khi nói
tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do về tín ngưỡng
tôn giáo. Nếu tín ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao trùm lên tôn giáo, là một bộ
phận chủ yếu nhất cấu thành nên tôn giáo. Không có tín ngưỡng sẽ không có tôn
giáo.Trong chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo ở nước ta, cụm từ “tín
ngưỡng, tôn giáo” không phân biệt hai phạm trù tín ngưỡng và tôn giáo.


12

“Từ điển tiếng Việt” định nghĩa tín ngưỡng là: “Lòng tin và sự tôn thờ một
tôn giáo” [9;1464], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo.
Theo giải thích của Đào Duy Anh trong tác phẩm “Việt Nam văn hoá sử
cương”, tín ngưỡng là: “Lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một
chủ nghĩa” [1;283].
Trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam” Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín
ngưỡng được đặt trong văn hoá tổ chức đời sống cá nhân: “Khi đời sống và trình
độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ
tưởng tượng ra. Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất
quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hoá thành giáo lý,
có giáo chủ có thánh đường… Tín ngưỡng trở thành tôn giáo” [22;262].
Ở phương Tây, phổ biến là thuật ngữ tôn giáo bình dân (popular religion).
Thuật ngữ đó có thể hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo
dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ

yếu xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lí, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng
có thể hiểu là các hình thức tôn giáo dân tộc được lưu truyền từ xa xưa, gần gũi
với cộng đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương, các ngày lễ với các điệu
múa, thậm chí là các hình thức bói toán, tướng số… Ở đó có cả tầng lớp trí thức,
mặc dù ít tin theo nhưng vẫn tham gia nhưng đa số là tầng lớp bình dân ở nông
thôn hưởng ứng, theo một truyền thống đã có từ rất lâu trong dân tộc. Niềm tin tôn
giáo hay tín ngưỡng biểu hiện ở những nền văn hoá rất khác nhau và rất đa dạng.
Trong công trình nổi tiếng “Văn hoá nguyên thuỷ”, Tylor E.B cho rằng:
“Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có
những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thuỷ, như thể chúng
đã mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm
của sự ngu dốt hơn là của triết học và tồn tại như những tàn tích của cái cũ
hơn là những sản phẩm của đời sau khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang trạng
thái tàn tích” [33;939].
Trong công trình “Cành vàng” của George James Frazer cho rằng: “Tôn
giáo là việc cầu phúc hay là việc hoà giải những thế lực cao cấp hơn con
người, những thế lực này, như người ta nghĩ chỉ huy và điều hành dòng chảy
của tự nhiên và đời sống con người. Tôn giáo được định nghĩa như vậy bao
gồm hai thành tố, một mang tính lý thuyết một mang tính thực hành” [34;94].


13

S.A Tokarev, nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của Nga cho biết: Mặc dù
bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi không bao giờ
phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc giữa các tín ngưỡng.
“Chúng ta đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo thủ tới mức nào.Bất kì
một tín ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều tốn tại trong nhân dân rất lâu
bền, thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều sinh sản ra nó đã thay đổi”
[35;55]. Theo ông các hình thức tôn giáo sơ khai là: Tô tem giáo, bùa mã, lễ ám

hại, chữa bệnh bằng bùa phép, sự thờ cúng tổ tiên, sự thờ cúng của thị tộc mẫu
hệ…
Như vậy ở Phương Tây các nhà nghiên cứu thường dùng khái niệm tôn
giáo bao hàm các tôn giáo có hệ thống, tôn giáo dân gian và tôn giáo nguyên
thuỷ. Do vậy theo họ tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của tôn giáo, là cơ sở
hình thành tôn giáo. Tuy nhiên niềm tin vào cái tin đó còn tuỳ thuộc vào hoàn
cảnh và trình độ phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, mà thể hiện ra dưới các
hình thức tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau.
Ở Việt Nam, trong công trình “Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền”GS.TS
Ngô Đức Thịnh đã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn, ông cho rằng: “Cơ sở của mỗi
tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin của con người vào thực tế, lực lượng siêu nhiên
hay nói một cách khác đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào “cái thiêng” đối lập
với cái “trần tục” hiện hữu mà có thể sờ mó quan sát được” [27;35]. Do vậy,
niềm tin vào “cái thiêng” thuộc về bản chất của con người, nó ra đời và tồn tại
cùng với bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm
linhcủa con người, tồn tại bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư
tưởng tình cảm.
Tuỳ vào hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi dân tộc, địa
phương, quốc gia mà niềm tin vào cái thiêng đó được cụ thể hoá thành những tín
ngưỡng và những tôn giáo khác nhau. Các hình thức tôn giáo tín ngưỡng này dù
rộng hẹp khác nhau, phổ quát hay đặc thù cho mỗi quốc gia dân tộc, địa phương
thì cũng là một thực thể biểu hiện niềm tin chung vào cái thiêng của con người.
Do vậy, các hình thức tôn giáo tín ngưỡng hiện hữu này chỉ là một thực thể
mang tính lịch sử hay nói cách khác là một phạm trù lịch sử.
Từ niềm tin vào lực lượng siêu nhiên mà những cái đó được biểu trưng
bằng các thần linh dưới nhiều dạng vẻ khác nhau, con người “tìm cách thông


14


quan” với thần linh đó bằng vô vàn những cách thức khác nhau như thông qua
lời khấn, phép thuật, bằng các vật dâng cúng, bằng âm thanh, vũ đạo thông qua
những con người có năng lực siêu phàm … để cầu mong cho thần linh phù trợ,
độ trì. Đó chính là các hành vi thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Các hành vi
nhằm thông quan với thần linh cũng được biểu hiện bằng vô vàn cách thức, mà
những cái đó phụ thuộc vào các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng, vào truyền thống
văn hoá của mỗi dân tộc, địa phương, phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc.
Cũng từ niềm tin và hành vi thực hành tín ngưỡng ấy dần hình thành nên
ở con người những những tình cảm tôn giáo tín ngưỡng. Trong xã hội hiện đại
có thể có niềm tin vào cái siêu nhiên, tức vào thần linh có thể thay đổi, nhưng
các hành vi tình cảm tín ngưỡng vẫn tồn tại lâu bền, như một thói quen một quán
tính của con người.
Như vậy, tôn giáo, tín ngưỡng với tư cách là các hình thái cụ thể như Kitô
giáo, Đạo giáo, Phật giáo, đạo thờ tổ tiên, thờ Thành hoàng … có thể thay đổi đi,
song niềm tin vào cái siêu nhiên, niềm tin vào tín ngưỡng thì không bị mất đi,
vẫn là một trong những nhân tố mang bản chất con người.
Từ đây quan niệm về tôn giáo và tín ngưỡng có thể được hiểu rằng: “Đó
là một bộ phận của đời sống văn hoá tinh thần con người mà ở đó con người
cảm nhận được sự tồn tại của các vật thể, các lực lượng siêu nhiên mà những
cái đó chi phối, khống chế con người, nó nằm ngoài hiểu biết của con người
hiện tại, sự tồn tại của các phương tiện biểu trưng giúp con người thông quan
với các thực thể, các sức mạnh siêu nhiên, đó là chất kết dính tập hợp con người
thành một cộng đồng nhất định phân biệt với cộng đồng khác”. Tất cả những
niềm tin, thực hành và tình cảm tôn giáo tín ngưỡng trên đều là sản sinh và tồn
tại trong một môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá mà con người đang sống,
theo cách suy nghĩ và cảm nhận nền văn hoá đang chi phối họ.
Ở trên khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng được hiểu với ý nghĩa là niềm tin
vào một thế lực hay sức mạnh siêu nhiên. Tuy nhiên, khái niệm tôn giáo, tín
ngưỡng cũng được hiểu theo nghĩa là các hình thức tôn giáo - tín ngưỡng cụ thể.

Hiện tại, có nhiều ý kiến khác nhau khi sử dụng hai khái niệm “tôn giáo” và “tín
ngưỡng”.Theo quan điểm truyền thống người ta có ý thức phân biệt tôn giáo và
tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng là sản phẩm của xã hội phát triển thấp hơn so


15

với tôn giáo. Có loại quan điểm khác lại đồng nhất tôn giáo và tín ngưỡng đều
gọi chung là tôn giáo, tuy có phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thuỷ,
tôn giáo địa phương, tôn giáo thế giới.
Ngoài ra, trong nghiên cứu của mình PGS. TS Ngô Đức Thịnh còn chỉ ra
rất rõ về sự khác nhau căn bản giữa tôn giáo và tín ngưỡng:“Tín ngưỡng chưa
có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín
ngưỡng chưa hình thành hệ thống thần điện còn mang tính chất đa thần, tản
mạn, còn có sự hoà nhập nhất định giữa thế giới thần linh và con người, chưa
mang tính cứu thế. Ngoài ra tín ngưỡng gắn với cá nhân là cộng đồng, làng xã
chưa hình thành giáo hội, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán chưa thành quy
ước chặt chẽ; tín ngưỡng mang tính chất dân gian, sinh hoạt dân gian gắn với
đời sống nông dân” [30; 35].
Trong khi đó tôn giáo đã có hệ thống giáo lý kinh điển thể hiện quan niệm
vũ trụ và nhân sinh, truyền thụ qua học tập ở tu viện và thánh đường.Thần điện
của tôn giáo đã thành hệ thống dưới dạng đa thần hay nhất thần giáo; tách biệt
thế giới thần linh và con người, xuất hiện hình thức cứu thế.Tôn giáo có tổ chức
giáo hội, hội đoàn khá chặt chẽ, hình thành hệ thống giáo chức, nơi thờ cúng
riêng, nghi lễ thờ cúng chặt chẽ (chùa, nhà thờ, thánh đường). Trong quá trình
tồn tại và phát triển tôn giáo không mang tính dân gian có chăng chỉ là sự biến
dạng theo kiểu dân gian hoá như Phật giáo dân gian. Khác biệt giữa tôn giáo và
tín ngưỡng còn ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn
giáo, tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín
ngưỡng người ta nói ngay tới tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có

đặc điểm chung còn tôn giáo thường là không mang tính dân gian.
Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá được hình thành do mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, xã hội. Tín ngưỡng là niềm tin về những điều linh
thiêng, sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người chỉ cảm nhận được mà khó có
thể nhận thức được. Các hình thức tín ngưỡng mang đặc trưng riêng theo từng
vùng văn hoá, chủ thể văn hoá khác nhau nhưng vẫn là biểu hiện niềm tin vào
cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái con người.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người và
cách thể hiện sự tin tưởng nhằm cầu mong giúp đỡ, chở che từ đối tượng mà họ


16

suy tôn, thờ phụng (một nhân vật lịch sử, người có công lập làng hoặc những
hiện tượng tự nhiên liên quan đến đời sống của họ)”.
1.1.2. Phân loại
Tín ngưỡng ra đời từ rất lâu, ăn sâu bám rễ trong tâm thức của mỗi người.
Ở nước ta, tín ngưỡng được phân ra thành nhiều hình thức khác nhau.Cũng như
nhiều lĩnh vực khoa học khác, việc phân loại tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề
cơ bản của khoa tôn giáo học và cũng chính ở đó tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau. Người ta đã từng đưa ra các cách phân loại khác nhau như phân loại tôn
giáo, tín ngưỡng theo các hình thức phát triển nối tiếp nhau của tiến trình lịch
sử. Một số khác lại từ bỏ nguyên tắc lịch sử mà lại theo đặc trưng địa lý và
chủng tộc, theo các khu vực văn hoá, theo nội dung tín ngưỡng… Mỗi cách
phân loại như vậy đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên cũng không
tránh khỏi sự phiến diện và nhiều lúc khá cực đoan.
S.A Tokarew, nhà dân tộc học, tôn giáo học nổi tiếng người Nga đã phê
cách phân loại tôn giáo từ trước tới nay và từ đó đưa ra cách phân loại của mình
dựa trên cơ sở hình thái học của tôn giáo. Đó là cách phân loại dựa trên cơ sở:
Một là đặc trưng và thực chất của tôn giáo.Hai là coi tôn giáo là một hiện

tượng xã hội.Ba là tôn giáo mang tính lịch sử và tính kế tục lịch sử.Bốn là tính
tương quan giữa các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến cách phân loại tín
ngưỡng, song tác giả đồng tình với quan điểm của GS.TS Ngô Đức Thịnh về
cách phân loại tín ngưỡng ở nước ta như sau:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dòng họ, quốc gia) Tôtem giáo.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng.
Tín ngưỡng vòng đời người (Nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ cưới xin, thờ thần
mệnh, tang ma và thờ cúng người chết).
Tín ngưỡng nghề nghiệp (tín ngưỡng nông nghiệp, thờ Thánh sư, thờ Tam
tài, các tín ngưỡng ngư dân).
Tín ngưỡng thờ Thần (Đạo Mẫu, Đức Thánh Trần, Tứ Bất Tử, thờ các anh
hùngdân tộc).
1.1.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân tồn
tại trong lịch sử và cả trong thời đại ngày nay.“Mẫu” là một hình tượng, một sự


17

biểu trưng và là sự kết tinh sống động của đời sống văn hoá tinh thần của con
người Việt Nam. “Mẫu” có sức hấp dẫn đặc biệt, nhưng cũng đặt ra không ít các
vấn đề cho nhiều nhà khoa học, nhiều người nghiên cứu quan tâm theo nhiều
hướng khác nhau và trong toàn xã hội.
Đến với “Mẫu” không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời
sống tâm linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn là hiện tượng sinh hoạt văn hoá dân gian
phong phú hấp dẫn, có sức lôi cuốn con người. Người ta đến với Mẫu còn có cả
sự đồng cảm về giá trị văn hoá và góp phần củng cố ý thức cộng đồng của dân
tộc Việt Nam.
Ở Việt Nam, đa phần các nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng tín ngưỡng thờ

Mẫu là một tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ
Mẫu được dùng để biểu thị sự tôn vinh một nhân vật nào đó hay có thể đồng
nhất với việc thờ các nữ thần hiển linh, được phong là Mẫu như: Quốc Mẫu,
Thánh Mẫu, Vương Mẫu…
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là
dạng hình thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, hình thức thờ
những vị Mẫu cai quản trong vũ trụ.
Vấn đề thờ Mẫu là loại hình gì? Đã có rất nhiều câu trả lời khác nhau cho
câu hỏi này. Hiện nay, chưa có cách đánh giá thống nhất về thờ Mẫu nhưng cơ
bản có bốn quan điểm về thờ Mẫu:
Quan điểm thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo
sơ khai.
Quan điểm thứ hai: Xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian.
Quan điểm thứ ba: Xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng dân gian, vừa là tập
tục truyền thống.
Quan điểm thứ tư: Xem thờ Mẫu là một “Đạo” nhưng “Đạo” là con đường
cách thức.
Sau đây, tác giả xin nêu ra một số quan niệm của các nhà khoa học và các
học giả trong nước về những quan điểm thờ Mẫu đã nêu ở trên:
Quan điểm thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.


18

Tác giả Đặng Văn Lung cho rằng: “Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh,
vận động và biến đổi đã và đang chuyển hoá từ tín ngưỡng nguyên thuỷ để trở
thành một tôn giáo sơ khai” [17;88].
Và ông cũng khẳng định: “Đã là một tôn giáo chứ không còn là một tín
ngưỡng, kiểu như thờ cúng tổ tiên trong gia đình hay thờ cúng anh hùng dân tộc

tại một số đền riêng lẻ. Đạo Mẫu đã có những hoạt động mang tính đặc trưng
tôn giáo” [17;102].
Nếu nhìn tục thờ Mẫu trong cội nguồn và trong quá trình phát triển tác giả
Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Về phương diện điện thần của Đạo Mẫu ta thấy
bước đầu đã được hệ thống hoá tiến từ đa thần của tín ngưỡng nguyên thuỷ đến
thần điện của tôn giáo, mà Mẫu giữ vị trí trung tâm như Đức Phật hay chúa
Jesu” [25;22].
Có lý do để có quan điểm như vậy, bởi vì thờ Mẫu đã từng hình thành một
cộng đồng tín đồ với các thứ bậc khác nhau. Từ trước những năm 1975 ở miền
Nam đã từng hình thành một cộng đồng mang tính giáo hội, mang tên Tiên
Thiên Thánh Mẫu Giáo, tập hợp các tín đồ toàn miền Nam (sau 1975 tổ chức
này không còn nữa). Còn ở miền Bắc, tuy hình thức thờ Mẫu đã có từ rất sớm
nhưng cũng chỉ hạn chế trong phạm vi các đền, phủ dù những nơi đó đã trở
thành trung tâm thờ Mẫu.
Quan điểm thứ hai: Xem thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian.
Tác giả Hoàng Quốc Hải cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta là một
tín ngưỡng và tác giả này viết: “Về mặt tâm linh, cũng như quy mô tín đồ nó đầy
đủ yếu tố của một tôn giáo, nhưng nó lại thiếu hẳn một triết thuyết để đủ sức trở
thành một tôn giáo hoàn chỉnh” [8;27].
Quan điểm thứ ba: Xem thờ Mẫu là tín ngưỡng tập tục truyền thống.
Theo tác giả Đinh Gia Khánh: “Trường hợp tục thờ Mẫu ở Việt Nam
biểu hiện rất rõ, phát triển đến mức gần như một tôn giáo của người Kinh ”
[16;78].
Tác giả Mai Thanh Hải với quan niệm thờ Mẫu là một tục lệ. Tác giả cho
rằng: “Tục thờ Mẫu có sức lan truyền mạnh tới mức nhiều nơi đã lan toả mạnh
mẽ” [7;151].
Quan điểm thứ tư: Coi thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường
cách thức chứ không theo nghĩa tôn giáo.



19

Một số nhà nghiên cứu gọi việc thờ Mẫu là đạo Mẫu, “Đạo” ở đây không
có nghĩa là một tôn giáo như đạo Kito, đạo Phật…, mà phải hiểu như là đạo làm
con, làm người, đạo hiểu…
Theo quan điểm của chúng tôi và quan niệm truyền thống, khá phổ biến
thì thờ Mẫu vẫn được coi là một tín ngưỡng dân gian với những lí do cơ bản sau:
Một là,thờ Mẫu được hình thành trong chế độ mẫu hệ, nó bắt nguồn từ thờ
Nữ thần.
Hai là, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo như
sáng thế luận, giáo luật, giáo hội, hệ thống tổ chức… theo nghĩa đầy đủ của nó.
Ba là, trong thờ Mẫu yếu tố niềm tin còn dựa vào sự cảm nhận của chủ
thể, chưa mang tính hệ thống.
Bốn là, trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chỉ thừa nhận 6 tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: Phật giáo, Công
giáo, Hồi giáo, đạo Tin Lành, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo.
Với những quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ 2 vì vậy
trong khoá luận của mình tác giả xin sử dụng thuật ngữ: “Tín ngưỡng thờ Mẫu”.
“Mẫu” là từ ngữ xuất phát từ Hán Việt, còn thuần Việt là mẹ, mụ, mạ, mế
dùng để chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó. Nghĩa ban đầu
Mẫu đều chỉ người phụ nữ sinh ra con. Mẫu còn có ý nghĩa tôn vinh, xưng như
Mẫu nghi thiên hạ, Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Hai Bà
Trưng…Các Mẫu mẹ đó mang trong mình những truyền thuyết, huyền thoại
khác nhau, song đều phản ánh được vai trò và vị thế hết sức to lớn của người
phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng và giữ nước. Ta cần phân biệt rõ giữa Mẫu
và Nữ thần bởi không phải tất cả các Nữ thần đều là Mẫu. Chỉ những Nữ thần
nào là chủ thể của sự sinh sôi nảy nở, gắn với chức năng sinh đẻ, giáo dục con
cái, có những công trạng đặc biệt mới được nhân dân tôn thờ là Mẫu.
Vậy có thể hiểu: “Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt
nguồn từ tín ngưỡng thờ Nữ thần (nhưng không phải tất cả các Nữ thần đều là

Mẫu), là một bộ phận của ý thức xã hội, được hình thành từ chế độ thị tộc Mẫu
hệ, để tôn vinh những người phụ nữ có công với nước, với cộng đồng tiêu biểu
cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức, xã hội như Thánh Mẫu,
Vương Mẫu… và qua đó người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ của
các lực lượng siêu nhiên thuộc Nữ thần”.


20

1.2. Khái luận về lễ hội
1.2.1. Khái niệm
“Từ điển Tiếng Việt” định nghĩa rằng: “Lễ hội là một cuộc vui tổ chức
chung, có hoạt động lễ nghi mang tính chất văn hóa truyền thống của dân tộc”
[13; 678].
Trong đó lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm
một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó”.Lễ mang hai nghĩa cơ bản là tế lễ và lễ
giáo. Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định
mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỉ niệm một sự kiện, một nhân vật nào đó
nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh ước nguyện về sự kiện nhân vật đó với mong
muốn nhận được sự may mắn, tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối
tượng mà người ta thờ cúng. Như vậy “lễ” trong lễ hội là một hệ thống các hành
vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với thần linh, lực
lượng siêu nhiên nói chung, với Thành hoàng nói riêng. Đồng thời, lễ cũng phản
ánh những nguyện vọng ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống đầy
khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng cải tạo.
Lễ có thể được hiểu là những nghi thức được thực hiện trong lễ hội gắn
liền với hoạt động của cá nhân hoặc một tập thể người, phù hợp với một tín
ngưỡng nào đó mà họ và cộng đồng thừa nhận, tin theo và tôn kính. Hội là
những cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục hoặc nhân
dịp đặc biệt. Với ý nghĩa này chúng ta có thể hiểu đến với hội là vui chơi, giải

trí, để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của đông đảo quần chúng, là đến với một
sinh hoạt văn hóa dân gian dân dã, phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân
làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt các trò, tục hấp dẫn do mình chủ
động tham gia.
Trong công trình “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại” tác
giả Lê Hữu Tầng cho rằng: “Lễ hội là một pho tàng lịch sử khổng lồ, ở đó tích
tụ vô số những lớp phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện
xã hội - lịch sử quan trọng của dân tộc. Lễ hội là một bộ sách bách khoa đồ sộ,
là một bảo tàng sống về đời sống tinh thần của người Việt” [25;72].
Trong cuốn “Văn hóa, văn học dân gian Phú Thọ” Thạc sĩ Trần Văn Thục
đã cho rằng: “Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng của cộng đồng, một


21

sản phẩm đặc biệt của làng quê. Nhìn ở góc độ văn hóa tinh thần lễ hội có hai
tính chất, đặc điểm cở bản: chất thiêng liêng và chất thế tục” [34;32].
Trong bài viết “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền” tác giả Ngô Đức
Thịnh quan niệm: “Lễ hội cổ truyền là một hiện tượng văn hoá dân gian tổng
thể, lễ hội là một hình thức diễn xướng tâm linh” [26;15].
Nghiên cứu “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” tác giả Dương
Văn Sáu cho rằng:“Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra
trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại
một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện
cách ứng xử văn hoá của con người với thiên nhiên – thần thánh và con người
trong xã hội” [24; 35]. Đây cũng là khái niệm về lễ hội mà tác giả đồng tình
nhất.
Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng, bởi vì đây là hoạt động
văn hoá của tập thể, do tập thể tổ chức và tiến hành. Dù ở bất cứ nơi đâu, vào bất
cứ thời gian nào, lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành.

Chính họ là những người sáng tạo ra giá trị chân chính, những giá trị bắt nguồn
từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người
đánh giá thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không
bao giờ lễ hội chỉ thuộc vào một nhóm người nào đấy trong xã hội, không có
đông người tham dự sẽ không thể thành hội.
Về cơ bản, những lễ hội truyền thống của Việt Nam là những “lễ hội làng”
cũng có nhiều lễ hội do nội dung và tính chất của nó nên được diễn ra trong
không gian rộng lớn hơn, có tính liên làng, liên vùng. Những hoạt động lễ hội này
không diễn ra thường xuyên mà chỉ ở một vài thời điểm nhất định mùa Xuân hay
mùa Thu trong năm. Đây là thời điểm chuyển giao thời tiết, cũng là thời điểm
chuyển giao mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Người ta tổ chức lễ hội nhằm
các mục đích khác nhau.Trước hết là những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm
nhắc lại các nhân vật lịch sử, các sự kiện hay huyền thoại đã diễn ra trong quá
khứ. Đây chính là biểu hiện của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc thể
hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, thần thánh, con người thông qua các
hoạt động trong lễ hội. Nó phản ánh mối quan hệ giao thoa giữa siêu và thực, giữa
con người với con người trong những hoàn cảnh tác động cụ thể.


22

Như vậy, lễ hội là hình thức văn hóa cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân
cư trong thời gian, không gian xác định nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch
sử hay huyền thoại…đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con
người với thiên nhiên, thần linh và con người trong xã hội.
Lễ hội thực sự là một kho tàng tri thức khổng lồ, càng lễ hội cổ thì càng có
nhiều giá trị truyền thống và nhiều mật mã chưa được giải đáp.Vậy khi nghiên
cứu về lễ hội thì chúng ta phải nắm rõ các đặc điểm lễ hội của dân tộc ta để chúng
ta có cái nhìn khách quan nhất và khái quát hơn trong quá trình nghiên cứu.
1.2.2. Phân loại

Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có lễ
hội mới (lễ hội hiện đại, lễ hội gắn với các sự kiện lịch sử…) lễ hội sự kiện (gắn
với du lịch, quảng bá du lịch, lễ hội nhân kỉ niệm những năm chẵn thành lập
thành phố, tỉnh, huyện…) trong đó lễ hội cổ truyền có số lượng nhiều nhất
(khoảng trên 7000 lễ hội truyền thống trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi
phân bố rộng ở cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc, có lịch sử lâu đời nhất.
Người ta có thể phân loại lễ hội theo thời gian các mùa trong năm, trong
đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ); phân chia theo
phạm vi lớn nhỏ: lễ hội làng, vùng, quốc gia; phân loại theo tính chất của lễ hội:
lễ hội nghề nghiệp (nông, lâm, ngư…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người
có công với quê hương đất nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng cụ thể
như lễ hội của phật, Kitô, tín ngưỡng dân gian.
Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình trong đời sống sản xuất
và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ
nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ
bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Ví dụ người Việt và
người Tày chưa thực hiện nghi lễ “hạ điền”, “lồng tồng” thì việc gieo hạt đầu mùa
sẽ không thể thực hiện; đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi tai”,
đặt tên thì nó chưa thể trở thành con người; một chàng trai đến tuổi trưởng thành
mà chưa trải qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa trở thành một thành viên
thực sự của cộng đồng; một đôi nam nữ thanh niên chưa làm lễ tơ hồng, lễ trình
gia tiên thì không trở thành vợ chồng… Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng
mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định.


23

Trong số hơn 7000 lễ hội truyền thống ở nước ta, xét về nguồn cội đều là
lễ hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên trong tiến trình lịch
sử các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi làm phong phú hơn bằng những nội

dung lịch sử, (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung lễ hội (nhất là quan hệ
cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng
như ngày nay.
1.2.2.1. Phân loại lễ hội theo không gian, lãnh thổ
Đây là hình thức phân loại theo quy mô, mức độ và phạm vi ảnh hưởng,
chi phối tác động của các lễ hội.
Không gian lễ hội không chỉ là phạm vi về mặt hành chính mà còn nằm
trong không gian chịu tác động và ảnh hưởng của sự kiện văn hoá đó. Không
gian lễ hội được quyết định bởi nội dung và những hình thức biểu hiện, thể hiện
nội dung hoạt động thực tiễn của nó. Không gian sinh tồn của cộng đồng cư dân
đồng thời là không gian lịch sử và không gian văn hoá, lễ hội cộng đồng phản
ánh lịch sử, lưu giữ tưởng niệm lịch sử và là biểu trưng văn hoá của tộc người
sống trong không gian đó. Căn cứ và không gian có thể chia lễ hội theo các hình
thức sau đây:
Những lễ hội mang tính chất quốc tế: là những lễ hội thường được du
nhập từ bên ngoài vào, trong đời sống văn hoá, chính trị của người Việt Nam,
được cả người Việt và thế giới tổ chức. Những lễ hội này trước hết là lễ hội của
các tôn giáo như Kito giáo, Phật giáo, Hồi giáo… Bên cạnh đó là những ngày lễ
kỉ niệm của các giai cấp, tầng lớp như giai cấp công nhân có ngày Quốc tế lao
động, tầng lớp phụ nữ có Quốc tế phụ nữ…
Những lễ hội mang tính chất quốc gia như: Những lễ hội mà nhân vật hay
sự kiện được thờ cúng có liên quan ảnh hưởng sâu sắc tới cả dân tộc và đất
nước. Những lễ hội đó thường được gọi là “quốc hội”, “quốc lễ”, “quốc tự” ví
dụ như lễ hội Đền Hùng ngày 10/3 âm lịch. Hoặc những lễ hội mà ảnh hưởng
của nó lan toả sâu rộng, có sức hút lớn trong các tầng lớp nhân dân của mọi
miền đất nước như lễ hội chùa Hương. Hoặc các lễ hội hiện đại phản ánh các sự
kiện lịch sử có vai trò to lớn. Tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc như các lễ hội chào mừng Quốc khánh 2/9, lễ hội mừng
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh…



24

Lễ hội mang tính vùng miền: Là những lễ hội mà nhân vật hoặc sự kiện
được thờ tự khá nổi tiếng. Khi tổ chức lễ hội được sự tham gia có mặt của nhân
dân trên một địa bàn của nhiều địa phương ở gần nhau trên một vùng rộng lớn.
Ví dụ như lễ hội Trường Yên – Hoa Lư cờ lau tập trận ngày 10/3 âm lịch, lễ hội
Côn Sơn 15 tháng Giêng, lễ hội Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng vào các ngày
mồng 5, mồng 6 tháng hai âm lịch. Lễ hội dạng này mang hai hình thức: Hình
thức thứ nhất là việc tổ chức lễ hội tại một tuyến điểm trong một địa phương
nhưng có sức hút với cư dân của vùng đến tham dự như lễ hội Phủ Giầy mồng
3/3, lễ hội Kiếp Bạc 20/8. Hình thức thứ hai là cùng một thời điểm, hay trong
một khoảng thời gian gần nhau, tất cả các địa phương lân cận cùng đồng loạt mở
hội cùng kỉ niệm về một nhân vật hay sự kiện lịch sử nào đó.Ví dụ tháng 2 âm
lịch xứ Kinh Bắc cùng mở hội thờ Thánh Tam Giang (trong tổng số 307 làng thờ
thánh Tam Giang ở vùng sông Cầu).
Lễ hội làng: Với người Việt, làng là một đơn vị cư dân sống tụ cư, mang
tính cộng đồng cao trên một lãnh thổ xác định, có mỗi liên hệ huyết tộc và láng
giềng chặt chẽ. Làng là một đơn vị hành chính, một cộng đồng kinh tế chung,
một cộng đồng được tổ chức mang tính đẳng cấp và là một cộng đồng văn hoá
hoàn chỉnh. Làng là gốc của nước, bản sắc văn hoá làng góp phần quy tụ và lan
toả tạo ra văn hoá của quốc gia và dân tộc. “Làng là một quốc gia thu nhỏ” và
“Nước là một làng lớn”, chúng luôn tồn tại và vận hành cùng lịch sử dân tộc, Lễ
hội ở làng là hình thức phổ biến, rộng rãi với số lượng nhiều có nội dung phong
phú, đa dạng và sinh động nhất.
1.2.2.2. Phân loại lễ hội theo thời gian, mùa vụ sản xuất
Giống như nhiều quốc gia Á đông khác, cư dân Việt Nam chủ yếu là cư
dân nông nghiệp, đến nay 70% dân số vẫn lầ nông dân. Trong lịch sử đại đa số
cư dân sinh sống ở làng, vì vậy những lễ hội này chủ yếu phản ánh cuộc sống
nông nghiệp. Điều đó thể hiện qua việc thời gian mở hội thường gắn với mùa vụ

sản xuất, các lễ hội là một phần của cuộc sống nó gắn bó mật thiết, chặt chẽ với
sinh hoạt, lao động, sản xuất của người nông dân. Tiến trình phát triển ở một
cộng đồng cư dân nông nghiệp chính là quá trình gắn với khai hoang, canh tác
đất đai đi từ quảng canh – thâm canh – chuyên canh – độc canh. Khi bắt đầu
khai phá đất đai hay vào mùa vụ mới, người ta tổ chức lễ hội cầu xin cho gặp


25

được đất tốt, khai phá an toàn. Bước vào mùa gieo cấy thì làm lễ khai canh động
thổ, tổ chức “lễ xuống đồng” cầu cho mùa màng bội thu.
Trong quá trình chăm sóc, bón lúa, hoa màu lại cầu mưa thuận gió hoà
cho cây cối đâm hoa kết trái. Đến khi thu hoạch lại tổ chức cúng cơm mới, cũng
phần hoa quả đầu tiên. Mùa vụ của người Việt thường bắt đầu và kết thúc vào
dịp Xuân Thu, do vậy lễ hội cũng thường diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu gọi
là Xuân – Thu nhị kỳ. Mùa xuân mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa thu là
mùa của trăng thanh gió mát thư thái an nhàn, cả hai dịp ấy người ta cùng mở
hội để vui chơi, thưởng ngoạn.
Tuy nhiên, vẫn có một số lễ hội không tuân theo thời gian xuân thu như
thông lệ mà mở vào thời gian bất kì trong năm. Những ngày lễ hội như vậy
thường gắn với ngày sinh, ngày hoá của các nhân vật có công với dân với nước
như các vị Thần, các anh hùng dân tộc, thuỷ tổ, thành Hoàng làng… Chẳng hạn
lễ hội đình Chèm thờ Lý Ông Trọng được tổ chức vào ngày 15/5 âm lịch chính
giữa mùa hè.
1.2.2.3. Phân loại lễ hội theo tôn giáo
Lễ hội của các tôn giáo không giới hạn về thời gian, không gian mà chỉ
giới hạn về thời gian tổ chức lễ hội. Thời gian lễ hội diễn ra vào các dịp kỉ niệm,
gắn với mốc thời gian có liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đấng Giáo chủ,
lễ hội của các tôn giáo thường diễn ra ở Thánh đường, những nơi thờ tự tôn giáo
và phạm vi ảnh hưởng của nó. Không gian lễ hội tôn giáo thường diễn ra rất

rộng ví dụ như ngày lễ Giáng sinh của Kito giáo chỉ diễn ra vào ngày 24, 25
tháng 12 nhưng khắp mọi nơi trên trái đất.
Lễ hội tôn giáo thường nặng về nghi thức hành lễ, phần hội diễn ra sau đó
thường đơn giản. Dù với quy mô và hình thức như thế nào thì lễ hội tôn giáo đều
có được lòng tin tuyệt đối của đội ngũ giáo dân, tín đồ đến tham dự.
Lễ hội của Kito giáo:
Với Kito giáo, những hình thức nghi lễ tôn giáo mang tính toàn cầu và
được thực hiện nghiêm túc, thống nhất. Khi hành lễ, Linh mục là người thay mặt
Chúa giảng kinh Phúc âm và làm các phép bí tích như rửa tội, giải tội, các tín đồ
biểu hiện đức tin bằng cách cầu nguyện, xưng tội… Kito giáo lấy việc thờ phụng
và kính trọng Đức Chúa trời trên hết mọi sự, do vật nhưng lễ nghi tôn giáo dề có
liên quan đến Đức Kito và các tông đồ của Ngài. Kito giáo tổ chức những ngày


×