Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

lợi thế cạnh tranh quốc gia và mô hình kim cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................................... 3
CHƢƠNG I :LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA VÀ MÔ HÌNH VIÊN KIM CƢƠNG CỦA
MICHAEL PORTER..................................................................................................................................................... 4
1.1Một số khái niệm cơ bản ...................................................................................................................................... 4
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh: .................................................................................................................................. 4
1.1.2.Cạnh tranh quốc gia ..................................................................................................................................... 4
1.2Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter ............................................................................... 5
1.2.1 Tư tưởng chung: ........................................................................................................................................... 5
1.2.2 Điều kiện về các yếu tố sản xuất thâm dụng: ............................................................................................... 8
1.2.3. Các điều kiện về nhu cầu :......................................................................................................................... 10
1.2.4. Các ngành hỗ trợ và có liên quan ............................................................................................................. 10
1.2.5. Chiến lược, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty ..................................................................................... 12
CHƢƠNG II : CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ THÚC ĐẨY LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA QUỐC GIA 15
2.Các chính sách của chính phủ để thúc đẩy năng lực cạnh tranh của quốc gia: ........................................................ 17
2.1Về chính sách vĩ mô: .............................................................................................................................................. 18
2.2Chính sách vi mô: ................................................................................................................................................... 18
-Điều kiện về các yếu tố sản xuất: ............................................................................................................................... 18
-Điều kiện về cầu:........................................................................................................................................................ 19
-Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan: .............................................................................................................. 19
-Chíến lƣợc và cơ cấu cạnh tranh trong nội bộ ngành:................................................................................................ 19
CHƢƠNG III : ỨNG DỤNG MÔ HÌNH VIÊN KIM CƢƠNG ĐỂ GIẢI THÍCH CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CÁC
CHÍNH SÁCH ĐẾN LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM .................................... 20
2.Các tác động của các chính sách đến lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam .......................................... 20
2.1.Về các nhân tố sản xuất: ........................................................................................................................................ 21
2.2.Về các điều kiện cầu : ........................................................................................................................................ 22
2.3.Về các ngành hỗ trợ và có liên quan: ................................................................................................................ 23
2.4.Chiến lƣợc, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty .............................................................................................. 24
KẾT LUẬN ................................................................................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................................... 26



LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, sự toàn cầu hóa đã ảnh hƣởng rất nhiều đến nền kinh tế thế
giới. Nó khiến sự cạnh tranh ngày càng trở nên mãnh liệt hơn, tác động đến mọi quốc
gia, mọi doanh nghiệp một khi đã hội nhập vào một sân chơi lớn của toàn cầu. Một
quốc gia muốn đứng vững và phát triển thì trƣớc hết phải “biết mình, biết ta”, biết
mình đang ở đâu trên sân chơi đó, biết mình có đƣợc những lợi thế nhƣ thế nào và
làm sao để phát huy liên tục những lợi thế ấy để có đƣợc sức mạnh cạnh tranh trên
thị trƣờng thế giới.
Thực tiễn cho thấy, những quốc gia phát triển luôn có những yếu tố tạo nên sức
mạnh cạnh tranh của quốc gia họ. Và họ luôn quan tâm duy trì, nâng cao, thậm chí
tạo ra những yếu tố cạnh tranh mà mô hình viên kim cƣơng của Michael Porter đã
trình bày trong cuốn: “ Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”. Trong đó, Michael
Porter đã trình bày quan điểm của mình và cho rằng: “sự thịnh vƣợng của một quốc
gia đƣợc tạo ra chứ không phải là kế thừa”. Và đây cũng là đề tôi quyết định thực
hiện nhằm mục đích phân tích các tác động của các chính sách của chính phủ tạo
nên lợi thế cạnh tranh cho ngành thủy hải sản Việt Nam dựa trên mô hình viên kim
cƣơng của Michael Porter. Qua đó giúp hiểu rõ hơn về lợi thế cạnh tranh của một
quốc gia khi bƣớc chân vào sân chơi quốc tế với sự toàn cầu hóa càng ngày càng sâu
sắc.


CHƢƠNG I :LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA VÀ MÔ
HÌNH VIÊN KIM CƢƠNG CỦA MICHAEL PORTER
1.1 . Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm khá rộng và
có nhiêu cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thông thƣờng nhất, cạnh tranh thƣờng gắn
với khái niệm mang tính ganh đua, hơn thua.
K.Marx đã định nghĩa cạnh tranh là “sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tƣ bản

nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
lợi nhuận siêu ngạch”. Marx cho rằng cạnh tranh là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị
trƣờng và một trong những nhân tố để tăng khả năng cạnh tranh là tăng năng suất lao
động, trong xí nghiệp và trong phạm vi toàn xã hội
Ở phạm vi cạnh tranh quốc gia, M.Porter nhấn mạnh tính cạnh tranh phụ thuộc vào năng
suất của quốc gia trong việc sử dụng ngƣờn lực con ngƣời, tài nguyên và vốn. Cùng
chung quan điểm về cạnh tranh với Marx, M.Porter chú trọng tới tính sáng tạo và đổi
mới trong cạnh tranh, trong đó nhân tố công nghệ, nhân lực và phƣơng thức sản xuất
đóng vai trò thiết yếu.
Trong nền kinh tế hiện nay, cạnh tranh không chỉ dừng lại ở những nỗ lực của các chủ
thể nhằm tiêu diệt đối thủ mà còn phải tạo ra những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ
hơn cho khách hàng để khách hàng có thể lựa chọn mình mà không đến với đối thủ. Nói
theo M.Porter cạnh tranh khôn đơn thuần là vƣơn lên vị trí tốt nhất theo cách hiểu của
nhiều doanh nghiệp mà chính là xây dựng sự độc đáo cho sản phẩm và thƣơng hiệu của
mình.
Nhìn chung, cạnh tranh trong kinh doanh là một quá trình ganh đua giữa ít nhất hai đối
thủ nhằm có đƣợc những nguồn lực hoặc ƣu thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía
mình, đạt đƣợc lợi ích tối đa.
1.1.2. Cạnh tranh quốc gia
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, cạnh tranh đƣợc biết đến phổ biến hơn ở


phạm vi toàn cầu, tức là cạnh trnah giữa các quốc gia. Nếu ở cấp độ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, cạnh tranh có thể đẩy một doanh nghiệp ra khỏi hoạt động kinh doanh
nếu họ không thành công trong cạnh tranh thì ở cấp độ quốc gia, điều đó là không thể.
Chính vì lý do này nên một số các nhà kinh tế (P.Krugman, 1994) cho rằng không tồn tại
khái niệm cạnh tranh quốc gia. Một số các nhà kinh tế khác (M.Porter, 1990) tìm cách
phân biệt giữa cạnh trnah doanh nghiệp và cạnh tranh quốc gia. Cạnh tranh doanh
nghiệp chủ yếu tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế.
Trong khi đó, đối với quốc gia, cạnh tranh đƣợc thể hiện là nâng cao mức sống dân cƣ

bằng cách tạo ra môi trƣờng kinh doanh hiệu quả nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
nâng cao năng suất trong môi trƣờng đó.
1.2 . Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter
1.2.1 Tư tưởng chung:

Khái niệm lợi thế cạnh tranh quốc gia mới chỉ xuất hiện từ thập niên 80 của
thế kỷ 20 nhƣng những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc là lợi ích của thƣơng
mại quốc tế đã xuất hiện từ thế kỷ 15 với những học thuyết ra đời sau đó có
thể kể tới nhƣ Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Adam Smith, thế kỷ 18), Lý thuyết
về lợi thế so sánh (David Ricardor, thế kỷ 18). Cuộc thảo luận về thuật ngữ
cạnh tranh quốc gia có thể bắt đầu bằng lý thuyết về lợi thế so sánh của một
quốc gia cũng nhƣ sự khác biệt về công nghệ giữa các ngành. Lý thuyết này
cho rằng, một số quốc gia sẽ có lợi thế so sánh trong những ngành sử dụng
nhiều yếu tố sản xuất mà quốc gia đó dồi dào. Và chỉ cần có lợi thế so sánh thì
quốc gia đó có thể thu đƣợc lợi ích từ ngoại thƣơng cho dù năng suất của quốc
gia đó thấp trên tất cả các ngành. Tuy nhiên những giả thiết về công nghệ đồng
nhất giữa các quốc gia, không có lợi thế kinh tế theo quy mô, các yếu tố sản
xuất không dịch chuyển giữa các quốc gia
Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh quốc gia, Michael Porter đã khẳng định:
“Sự thịnh vƣợng của một quốc gia đƣợc tạo ra chứ không phải kế thừa. Nó
không phát triển từ sự sẵn có tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, lãi suất
hay giá trị tiền tệ …”. Theo lý thuyết này, khả năng cạnh tranh quốc gia phụ


thuộc vào năng lực của các ngành trong việc đổi mới và nâng cấp của quốc gia
đó.
Lợi thế cạnh tranh đƣợc hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia
mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thƣơng trƣờng quốc tế tạo
ra một số ƣu thế vƣợt trội hơn, ƣu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực
tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có đƣợc “Quyền lực thị

trƣờng” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh
quốc gia thƣờng bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh chỉ là những
điều kiện đặc thù tạo ra ƣu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc
ngành kinh doanh của quốc gia đó, nhƣ những điều kiện tự nhiên, tài nguyên
hay con ngƣời. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thƣờng đƣợc coi là lợi
thế so sánh của các nƣớc đang phát triển.
Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chƣa đủ là
một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trƣờng quốc tế. Lợi
thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tƣợng có
liên quan nhƣ: khách hàng, nhà đầu tƣ hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị
gia tăng cao cho doanh nghiệp.
Cũng theo Micheal Porter, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay sẽ
phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó.
Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ
chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho
sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia đƣợc tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh
lâu dài của các doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng quốc tế.
Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới
thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia đƣợc tạo ra
và thông qua quá trình địa phƣơng hóa cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia,
văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên ƣu thế quyết định sự
thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị
trƣờng toàn cầu vì môi trƣờng trong nƣớc của họ năng động, đi tiên phong và
nhiều sức ép nhất. Các Công ty của họ thu đƣợc lợi thế so với các đối thủ quốc


tế nhờ việc có các đối thủ mạnh trong nƣớc, nhờ có các nhà cung cấp có khả
năng trong nƣớc, nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nƣớc và sự liên
kết chặt chẽ của các ngành phụ trợ.
Khả năng này đƣợc thể hiện ở sự liên kết của bốn nhóm yếu tố chính. Mối liên

kết của bốn nhóm này tạo thành mô hình có tên gọi là mô hình kim cƣơng
Porter. Các nhóm yếu tố điều kiện bao gồm:
(1) Điều kiện thâm dụng: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà họ

có thể sử dụng tốt nhất các yếu tố thâm dụng nhƣ: vốn, lao động và tài nguyên
(2) Điều kiện về cầu: Một quốc gia sẽ cạnh tranh mạnh hơn nếu có sự gia

tăng nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ
(3) Các ngành công nghiệp có liên quan và các ngành công nghiệp hỗ trợ:

Sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ với chi phí thấp và kiến thức
tốt về thị trƣờng sẽ gia tăng khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp sử
dụng các sản phẩm phụ trợ đó
(4) Chiến lƣợc, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành: Chiến luợc của

công ty có ảnh hƣởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh của nó trong tƣơng lai
bởi vì các mục tiêu, chiến lƣợc và cách thức tổ chức các công ty trong các
ngành công nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia.
Mô hình viên kim cƣơng đƣợc thể hiện nhƣ sau:


Chiến lƣợc, cơ cấu và
môi trƣờng cạnh tranh

Điều kiện về các yếu
tố sản xuất thâm dụng

Điều kiện về nhu cầu

Các ngành CN hỗ trợ và

có liên quan

Hình 1.1 Mô hình kim cƣơng

1.2.2 Điều kiện về các yếu tố sản xuất thâm dụng:
Theo lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn, các nhân tố sản xuất – lao động , đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở hạ tầng – sẽ quyết định đến dòng thƣơng mại. Một
quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều nhất các nhân tố mà
quốc gia đó tƣơng đối dƣ thừa. Học thuyết này có nguồn gốc từ thời Adam Smith
và David Ricardo và đƣợc gắn chặt với kinh tế học cổ điển, trong điều kiện tốt
nhất là không đầy đủ và trong hoàn cảnh xấu nhất là không chính xác.
Trong các ngành kinh tế mà tạo ra xƣơng sống cho bất kỳ nền kinh tế tiên tiến nào,
một quốc gia không kế thừa mà thay vào đó tạo ra các nhân tố sản xuất quan trọng
nhất- ví dụ nhƣ nguồn nhân lực có kỹ năng hay một cơ sở khoa học. Hơn nữa
nguồn dự trữ nhân tố mà một quốc gia có đƣợc tại một thời điểm cụ thể là ít quan


trọng hơn so với tốc độ và tính hiệu quả mà quốc gia đó tạo ra, nâng cấp và sử
dụng các nhấn tố này trong những ngành cụ thể.
Các nhân tố sản xuất quan trọng nhất là những nhân tố mà liên quan đến khoản
đầu tƣ lâu dài và khổng lố đƣợc chuyên môn hóa. Các nhân tố cơ bản, ví dụ nhƣ
lực lƣợng lao động hay một nguồn nhiên liệu tại địa phƣơng, không tạo ra một lợi
thế trong các ngành thâm dụng tri thức. Các công ty có thể tiếp cận các nhân tố này
một cách dễ dàng thông qua toàn cầu hóa hay bỏ qua nhân tố này thông qua công
nghệ. Trái với sự hiểu biết thông thƣờng, việc đơn giản có đƣợc một lực lƣợng lao
động nói chung là những ngƣời có trình độ trung học hay thậm chí đại học không
tƣợng trƣng cho một lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong sự cạnh tranh quốc
tế hiện đại. Để hỗ trợ cho lợi thế cạnh tranh, một nhân tố phải đƣợc chuyên môn
hóa cao độ cho các nhu cầu cụ thể của một ngành- một định chế khoa học chuyên
môn hóa về quang học, một nguồn vốn mạo hiểm nhằm tài trợ cho các cộng ty

phần mềm. Những nhân tố này là khan hiếm hơn, khó khăn hơn cho các đối thủ
cạnh tranh nƣớc ngoài có thể mô phỏng – và chúng đòi hỏi một khoản đầu tƣ bền
vững để tạo ra.
Các quốc gia thành công trong những ngành mà họ đặc biệt giỏi trong việc tạo ra
nhân tố. Lợi thế cạnh tranh tạo ra từ sự hiện diện của các định chế có đẳng cấp thế
giới mà trƣớc tiên tạo ra các nhân tố chuyên môn hóa và sau đó không ngừng hoạt
động nhằm cải tiến các nhân tố này.
Những bất lợi cũng có thể trở thành lợi thế trong các điều kiện sau. Thứ nhất,
chúng phải gởi đến công ty các tín hiệu chính xác về những tình huống mà sẽ lan
sang các quốc gia khác, qua đó trang bị cho các công ty này khả năng đổi mới
trƣớc các đối thủ nƣớc ngoài. Thứ hai là các hoàn cảnh thuận lợi ở nơi khác trong
hình viên kim cƣơng, một điều phải tính đến và áp dụng cho toàn bộ các nhân tố.
Một điều kiện tiên quyết khác là những mục tiêu của công ty mà dẫn đến sự cam
kết lâu dài đối với ngành. Không có một sự cam kết nhƣ vậy và sự hiện diện của
sự cạnh tranh tích cực thì một công ty có thể đi theo một con đƣờng tƣơng đối dễ
dàng xung quanh một bất lợi thay vì sử dụng bất lợi đó nhƣ là sự kích thích cho


việc đổi mới.
1.2.3. Các điều kiện về nhu cầu :
Các điều kiện nhu cầu trong nƣớc giúp cho việc xây dựng lợi thế cạnh tranh khi
một phân khúc ngành cụ thể là lớn hơn hay dễ nhận biết hơn tại thị trƣờng nội địa
so với các thị trƣờng nƣớc ngoài. Các phân khúc thị trƣờng lớn hơn tại một quốc
gia nhận đƣợc sự chú ý nhiều nhất từ các công ty tại quốc gia đó; các công ty chấp
nhận các phân khúc nhỏ hơn và kém hấp dẫn hơn nhƣ là một ƣu tiên thấp hơn.
Quan trọng hơn là sự phối hợp của bản thân các phân khúc, là bản chất của ngƣời
mua nội địa. Các công ty của một quốc gia giành đƣợc lợi thế cạnh tranh

nếu


những ngƣời mua trong nƣớc là những ngƣời mua có yêu cầu cao nhất và tinh tế,
phức tạp nhất thế giới cho sản phẩm hay dịch vụ đó. Những ngƣời mua tinh tế và
đòi hỏi cao cung cấp một sự hiểu biết về nhu cầu của khách hàng cao cấp; họ gây
áp lực buộc các công ty phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao; họ thúc đẩy các

công ty

phải cải thiện, đổi mới và nâng cấp thành các phân khúc cao cấp hơn.Cũng nhƣ
các điều kiện nhân tố, các điều kiện nhu cầu tạo ra các lợi thế qua việc buộc các
công ty phải phản ứng với những thách thức khắc nghiệt.
Tổng quát hơn, các công ty của một quốc gia có thể tiên liệu trƣớc các xu hƣớng
toàn cầu nếu các giá trị của quốc gia đó đang lan tỏa – nghĩa là, nếu quốc gia này
cũng đang xuất khẩu các giá trị và sở thích của mình giống nhƣ sản phẩm.
Ví dụ, sự thành công quốc tế của các công ty Hoa Kỳ trong thực phẩm ăn nhanh
và thẻ tín dụng phản ánh không chỉ mong muốn của ngƣời Mỹ đối với sự tiện lợi
mà còn là sự lan tỏa những sở thích đó đến phần còn lại của thế giới. Các quốc gia
xuất khẩu giá trị và sở thích của mình thông qua phƣơng tiện truyền thông, thông
qua việc đào tạo ngƣời nƣớc ngoài, thông qua sự ảnh hƣởng chính trị, và thông
qua các hoạt động tại nƣớc ngoài, thông qua sự ảnh hƣởng chính trị, và thông qua
các hoạt động tại nƣớc ngoài của những công dân và công ty của họ.
1.2.4. Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Định tố lớn thứ ba của lợi thế quốc gia là sự hiện diện tại quốc gia đó các ngành


hỗ trợ và có liên quan mà có khả năng cạnh tranh quốc tế. Các nhà cung ứng có
khả năng cạnh tranh quốc tế tại nƣớc chủ nhà tạo ra những lợi thế cạnh tranh trong
những ngành hạ nguồn theo nhiều cách thức khác nhau. Thứ nhất, họ cung cấp các
yếu tố đầu vào giá rẻ nhất theo một cách thức hữu hiệu, nhanh chóng và đôi khi ƣu
tiên.
Tuy nhiên, có tầm quan trọng hơn nhiều so với khả năng tiếp cận đơn thuần đến

các họp phần và máy móc là lợi thế mà các ngành hỗ trợ và có liên quan tại nƣớc
chủ nhà tạo ra trong việc đổi mới việc đổi mới và nâng cấp- một lợi thế dựa vào
các mối quan hệ công việc chặt chẽ và gần gũi. Những nhà cung ứng và ngƣời sử
dụng cuối cùng nằm gần nhau có thể tận dụng các tuyến liên lạc ngắn, dòng thông
tin nhanh chóng và thƣờng xuyên, và sự trao đổi các ý tƣởng và sự đổi mới đang
diễn ra. Các công ty có cơ hội gây ảnh hƣởng đến các nỗ lực kỹ thuật của

các

nhà cung ứng của mình và có thể phục vụ nhƣ là các điểm thử nghiệm cho các
công việc nghiên cứu và phát triển, qua đó đẩy nhanh nhịp độ đổi mới.
Các công ty của một quốc gia hƣởng lợi nhều nhất khi bản thân các nhà cung ứng
là các công ty cạnh tranh toàn cầu. Việc một công ty hay quốc gia tạo ra các nhà
cung ứng „bị nắm giữ‟ mà hoàn toàn phụ thuộc vào một ngành trong nƣớc và bị
ngăn không cho phục vụ các đối thủ cạnh tranh nƣớc ngoài rốt cuộc là tự làm hại
mình. Vì lẽ đó, một quốc gia không cần phải có khả năng cạnh tranh trong tất cả
các ngành cung ứng đối với các công ty của mình nhằm tạo đƣợc lợi thế cạnh
tranh.
Các công ty có thể sẵn sàng sử dụng nguyên liệu, hợp phần công nghệ từ nƣớc
ngoài mà không có ảnh hƣởng đáng kể đến sự đổi mới hay hiệu quả hoạt động của
các sản phẩm trong ngành đó. Điều tƣơng tự là đúng với các công nghệ đƣợc phổ
biến khác- ví dụ nhƣ hàng điện tử hay phần mềm- nơi mà ngành này đại diện cho
một khu vực ứng dụng hẹp.
Khả năng cạnh tranh tại nƣớc chủ nhà trong các ngành có liên quan tạo ra những
lợi ích tƣơng tự: dòng thông tin và sự trao đổi kỹ thuật đẩy nhanh tốc độ đổi mới
và nâng cấp. Một ngành có liên quan tại nƣớc chủ nhà cũng làm gia tăng khả năng


mà các công ty sẽ nắm bắt các kỹ năng mới, và nó cũng cung cấp một nguồn
những ngƣời mới tham gia mà sẽ mang lại một cách tiếp cận mới trong cạnh

tranh.
1.2.5. Chiến lược, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty
Các tình huống và bối cảnh quốc gia tạo ra những xu thế mạnh mẽ trong cách thức
mà các công ty đƣợc tạo ra, tổ chức và quản lý, cũng nhƣ bản chất của sự cạnh
tranh trong nƣớc sẽ nhƣ thế nào. Ví dụ, tại Ý, các công ty cạnh tranh quốc tế thành
công thƣờng là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa mà thuộc sở hữu tƣ nhân
hay hoạt động giống nhƣ các gia đình mở rộng; trái lại, ở Đức, các công ty có xu
hƣớng tuân theo thứ bậc chặt chẽ trong các thông lệ tổ chức và quản lý, và những
nhà quản lý cao cấp nhất thƣờng có nền tảng kiến thức về kỹ thuật.
Không có hệ thống quản lý nào là phù hợp trên toàn cầu – bất kể sự quyến rũ hiện
tại với cách quản lý của ngƣời Nhật. Khả năng cạnh tranh trong một ngành

cụ

thể tạo ra từ sự hội tụ các thông lệ quản lý và phƣơng thức tổ chức đƣợc ƣa thích
tại quốc gia đó và các nguồn của lợi thế cạnh tranh trong ngành đó.
Các quốc gia cũng khác biệt đáng kể trong những mục tiêu mà các công ty và cá
nhân tìm kiếm nhằm đạt đƣợc. Mục tiêu của công ty phản ánh các đặc trƣng của
thị trƣờng vốn của nƣớc đó và các thông lệ trả lƣơng thƣởng cho các nhà quản lý.
Các công ty hoạt động tốt trong các ngành đã trƣởng thành, nơi mà khoản đầu tƣ
liên tục vào hoạt động nghiên cứu và phát triển và các cơ sở vật chất mới là vô
cùng quan trọng nhƣng lợi tức mang lại có thể rất khiêm tốn.
Động cơ cá nhân đối với việc thực hiện và mở rộng các kỹ năng cũng quan trọng
đối với lợi thế cạnh tranh. Tài năng xuất chúng là một nguồn lực khan hiếm tại bất
cứ quốc gia nào. Thành công của một quốc gia phần lớn phụ thuộc vào các loại
hình giáo dục mà những con ngƣời tài năng của quốc gia đó lựa chọn, nơi mà họ
làm việc, cam kết và nỗ lực của họ. Mục tiêu mà các định chế và giá trị của

một


quốc gia đặt ra cho các cá nhân và công ty của mình, và uy tín mà quốc gia đó
gắn với một số ngành nhất định, hƣớng dẫn dòng vốn và nguồn nhân lực- mà, đến
lƣợt mình, ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động có khả năng cạnh

tranh


của một số ngành nhất định. Các quốc gia có xu hƣớng cạnh tranh trong những
hoạt động mà dân chúng say mê và tùy thuộc vào các hoạt động mà từ đó những
ngƣời hùng của quốc gia đó nổi lên.
Sự hiện diện của các đối thủ cạnh tranh trong nƣớc hùng mạnh là tác nhân kích
thích cuối cùng và mạnh mẽ cho sự tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh. Điều này là
đúng với các quốc gia nhỏ, ví dụ nhƣ Thụy Sỹ, nơi mà sự cạnh tranh giữ các công
ty dƣợc phẩm của quốc gia này, Hoffman- La Roche, Ciba – Geigy và Sandoz đã
góp phần tạo ra vị thế đứng đầu trên toàn thế giới. Trong tất cả các điểm trên hình
thoi, thì sự cạnh tranh trong nƣớc chắc hẳn là yếu tố quan trọng nhất do tác động
kích thích mạnh mẽ của nó đối với tất cả các yếu tố khác.
Sự hiểu biết thông thƣờng lập luận rằng sự cạnh tranh trong nƣớc là lãng phí: nó
dẫn đến sự lặp lại các nỗ lực và ngăn ngừa các công ty đạt đƣợc tính hiệu quả tăng
theo quy mô. “Giải pháp đúng đắn” là phải o bế một hay hai công ty “vô địch”
của quốc gia, các công ty có quy mô và sức mạnh để đối phó với các đối thủ cạnh
tranh ở nƣớc ngoài, và đảm bảo cho các công ty này những nguồn lực cần thiết,
với sự ban ơn của chính phủ. Tuy nhiên phần lớn các nhà vô địch của quốc gia là
không có khả năng cạnh tranh, cho dù đƣợc trợ cấp và hỗ trợ rất mạnh từ phía
chính phủ của họ. Trong nhiều ngành nổi bật mà trong đó chỉ có một công ty cạnh
tranh của một nƣớc, ví dụ nhƣ hàng không và viễn thông, chính phủ đã đóng vai
trò to lớn trong việc bóp méo sự cạnh tranh.
Tính hiệu quả tĩnh là kém quan trọng hơn nhiều so với sự cải thiện mang tính
động, mà chỉ có sự cạnh tranh trong nƣớc thúc đẩy. Sự cạnh tranh trong nƣớc
giống nhƣ bất kỳ sự ganh đua nào, tạo ra áp lực lên các công ty buộc họ phải đổi

mới và cải thiện. Các đối thủ cạnh tranh địa phƣơng thúc đẩy lẫn nhau nhằm giảm
chi phí, cải thiện chất lƣợng và dịch vụ, và tạo ra các sản phẩm và quy trình mới.
Nhƣng không giống nhƣ sự ganh đua với các đối thủ cạnh tranh nƣớc ngoài, mà
có xu hƣớng thuộc về phân tích và cách xa, sự tranh đua trong nƣớc thƣờng đi xa
hơn sự cạnh tranh kinh tế và kinh doanh thuần túy để trở nên mang tính cá nhân
một cách mãnh liệt.


Sự tập trung về địa lý đẩy mạnh quyền năng của sự cạnh tranh trong nƣớc. Kiểu
hình này là phổ biến đáng ngạc nhiên trên toàn thế giới.: các công ty làm đồ trang
sức của Ý đƣợc đặt xung quanh hai thị trấn, Arezzo và Valenza Po; các công ty
làm dao kéo tại Solingen, Tây Đức và Seki, Nhật Bản… Sự ganh đua có mức

độ

địa phƣơng hóa cao thì càng mãnh liệt hơn. Và sự ganh đua này càng mãnh liệt
hơn thì càng tốt hơn.
Ngoài ra, còn có hai nhân tố có thể ảnh hƣởng đến hệ thống quốc gia và lợi thế
cạnh tranh đó là cơ hội và nhà nƣớc.
Cơ hội là những sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp và cũng
thƣờng là nằm bên ngoài sự quản lý của của nhà nƣớc, của quốc gia đang xét, ví
dụ nhƣ những phát minh thuần túy, những đột phá về kỹ thuật căn bản, chiến
tranh, những biến chuyển chính trị bên ngoài và thay đổi về nhu cầu thị trƣờng
nƣớc ngoài. Yếu tố cơ hội có thể tạo ra sự gián đoạn, làm thức tỉnh hoặc tái cấu
trúc ngành nghề và cung cấp cơ hội cho các doanh nghiệp của một quốc gia nào
đó loại bỏ các doanh nghiệp của một quốc gia khác. Cơ hội đã từng đóng vai trò
quan trọng trong việc thay đổi lợi thế cạnh tranh ở nhiều ngành nghề.
Nhân tố cuối cùng là nhà nƣớc. Chính quyền các cấp có thể cải tiến hay giảm thiểu
lợi thế quốc gia. Có thể thấy vai trò này rõ nhất bằng cách kiểm tra xem các chính
sách ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến mỗi nhân tố quyết định. Chính sách chống độc

quyền (antitrust) sẽ ảnh hƣởng đến sự cạnh tranh trong nƣớc. Các quy định có thể
thay đổi điều kiện nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc. Đầu tƣ vào giáo dục có thể thay
đổi điều kiện về nhân tố sản xuất. Chi ngân sách có thể kích thích những ngành
nghề bổ trợ và có liên quan. Nếu thực hiện chính sách mà không cân nhắc liệu
chúng có ảnh hƣởng đến toàn bộ hệ thống các nhân tố quyết định ra sao thì dẫn
đến khả năng làm giảm lợi thế quốc gia thay vì gia tăng lợi thế cạnh tranh.
Các nhân tố trên đây sẽ tác động qua lại với nhau nhƣ một hệ thống tƣơng quan,
có thể tạo ra lợi thế hay bất lợi về sức mạnh cạnh tranh của một quốc gia. Và để
thấy rõ hơn điều này, chúng ta sẽ đi qua phần tiếp theo, đó là tìm hiểu các tác động
của các chính sách của chính phủ đối với các nhân tố này nhƣ thế nào.


CHƢƠNG II : CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ THÚC ĐẨY LỢI THẾ
CẠNH TRANH CỦA QUỐC GIA
1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới - Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2009. Thứ
hạng Việt Nam xếp theo chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp là 75 trên 133 quốc
gia, giảm 5 bậc so với 2008. Thứ hạng năm 2008, 2007 lần lƣợt là 70/134 và
68/131. Bảng thứ hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam một số năm
gần đây:
NĂM

2005

2006

2007

2008


2009

GIC

74/11

77/12

68/13

70/13

75/13

1

2

1

4

3

Bảng 1.1. Thứ hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp Việt Nam

Bảng thống kê cho thấy thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh
tranh tổng hợp năm 2009 tiếp tục đà suy giảm từ 2007 và đã tụt bậc so với năm
2008. Trên bản xếp hạng, Thụy Sĩ chiếm vị trí đầu trong số 133 nền kinh tế trong

báo cáo. Do khủng hoảng tài chính, Mỹ từ vị trí số 1 toàn cầu đã rớt xuống thứ 2,
các nƣớc tiếp theo trong top 10 là Singapore, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan,
Đức, Nhật Bản, Canada và Hà Lan.
Trong nhóm các nƣớc đang phát triển, Trung Quốc khẳng định thế vị trí đầu trong
top 30, các nền kinh tế nổi khác nhƣ Braxin và Ấn Độ tăng 1 bậc lên thứ 49, còn
Braxin tăng 8 bậc lên hạng 56, riêng Nga đã tụt 12 hạng xuống vị trí thứ 63.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2009, Việt Nam có cải

thiện ở

nhiều tiêu chí, đặc biệt là quy mô thị trƣờng (hạng 38), hiệu quả thị trƣờng lao
động (hạng 38), trong đó nhiều tiêu chí cụ thể có thứ hạng rất cao. Tuy nhiên, chỉ
số năng lực cạnh tranh tổng hợp 2009 của Việt Nam chƣa đƣợc cải thiện và giảm 5
bậc so với 2008, chủ yếu do chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô bị đánh tụt từ hạng 70
xuống 112 làm tác động mạnh tới nền kinh tế và khả năng cạnh tranh.
Vấn đề thiếu ổn định kinh tế vĩ mô là thâm hụt thƣơng mại tăng, nền kinh tế phát


triển quá nóng là một biểu hiện rõ nét nhất; rồi đến việc đồng tiền mất giá làm
giảm niềm tin của giới đầu tƣ. Điều đáng suy nghĩ ở đây là trong khi nhiều quốc
gia đang phát triển, có mức tăng trƣởng dƣơng (Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin…)
đều cải thiện năng lực cạnh tranh của mình thì Việt Nam lại tụt hạng 5 bậc.
Điều này có nghĩa là Việt Nam đang tự đánh mất cơ hội làn sóng tăng trƣởng hậu
khủng hoảng. Bên cạnh đó còn những yếu kém chậm khắc phục nhƣ cơ sở hạ tầng
(hạng 94), trình độ thị truờng tài chính (hạng 82), giáo dục bậc cao (hạng 92), sẵn
sàng công nghệ (hạng 73). So sánh thứ hạng một số chỉ tiêu năng lực cạnh tranh
của Việt Nam năm 2008 với 2009.
Chỉ tiêu

2008


2009

Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp

70/134

75/133

Thể chế

71

63

Cơ sở hạ tầng

93

94

Ổn định kinh tế vĩ mô

70

112

Y tế và giáo dục cơ bản

84


76

Giáo dục bậc cao

98

92

Hiệu quả thị trƣờng hàng hóa

70

67

Hiệu quả thị trƣờng lao động

47

38

Trình độ thị trƣờng tài chính

80

82

Sẵn sàng công nghệ

79


73

Quy mô thị trƣờng

40

38

Trình độ kinh doanh

84

70

Đổi mới

57

44

Bảng 1.2. So sánh thứ hạng một số chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2008-2009

Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam có tiến bộ lớn về viễn thông (hạng 37), nhƣng

yếu

kém về chất lƣợng hạ tầng điện, đƣờng bộ, cảng biển (đề xếp hạng trên 100). Về



giáo dục, Việt Nam còn yếu hầu hết chỉ số cơ bản nhƣ chất lƣợng giáo dục (hạng
120), số lƣợng sinh viên (hạng 106) và chi phí giáo dục (hạng 100). Đáng lƣu ý,
Diễn đàn Kinh tế đánh giá khá cao về chỉ số đổi mới của Việt Nam, trong đó có
nhiều chỉ tiêu đƣợc xếp hạng tƣơng đối cao nhƣ năng lực đổi mới (hạng 41), chỉ
tiêu của Chính phủ cho khoa học công nghệ (hạng 21)… Mặc dù chỉ số cạnh tranh
tổng hợp toàn cầu năm 2009 của Việt Nam chƣa có cải thiện nhƣng Diễn

đàn

Kinh tế thế giới vẫn đánh giá Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc cải thiện
năng lực cạnh tranh kể từ 2001 (năm đầu tiên Việt Nam đƣợc Diễn đàn Kinh tế
xếp hạng), thậm chí về trung và dài hạn, Việt Nam có nhiều điểm mạnh và có tiềm
năng tăng trƣởng cao “rất giống với Trung Quốc”. Qua báo cáo năng lực

cạnh

tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, có thể rút ra một số nhận xét về năng
lực cạnh tranh của Việt Nam:
- Mặc dù các chỉ số đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới có thể chƣa phản

ánh hết đƣợc năng lực cạnh tranh của Việt Nam, nhất là tiềm năng phát triển trung
và dài hạn, song phần nào phản ánh đƣợc thực tế chất lƣợng tăng trƣởng của kinh
tế Việt Nam còn hạn chế. Việt Nam tuy có cải thiện một số yếu tố tác động tới
tăng trƣởng kinh tế (nhƣ đổi mới, lao động, quy mô thị trƣờng…) nhƣng chƣa có
nhiều cải thiện các yếu tố tác động năng suất và khả năng cạnh tranh quốc gia
nhƣ:cơ sở hạ tầng, chất lƣợng nhân lực và thể chế.
- Tiến trình cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã đi đúng

hƣớng, tuy vậy vẫn còn khá chậm so với nhu cầu phát triển của bản thân nền kinh
tế cũng nhƣ so với tốc độ cải cách của các quốc gia đang phát triển khác.

Nhìn lại các quốc gia ASEAN đã đƣợc xếp hạng, chỉ số cạnh tranh tổng hợp của
Việt Nam chỉ xếp trên Philippin (hạng 87), Campuchia (hạng 110) và có khoảng
cách khá xa với nhiều nƣớc nhƣ Singapore (3), Malayxia (24), Bruney (32), Thái
Lan (36), Inđônêxia (54)
2. Các chính sách của chính phủ để thúc đẩy năng lực cạnh tranh của

quốc gia:
Theo mô hình viên kim cƣơng về lợi thế cạnh tranh của Micheal Porter thì chính


sách mà chính phủ có thể áp dụng để tạo lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó là:
2.1 Về chính sách vĩ mô:

- Tăng cƣờng hợp tác với các nƣớc về lĩnh vực kinh tế, chú trọng vào việc thu
hút vốn đầu tƣ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam thông qua nguồn vốn FDI, tận dụng
nguồn tài nguyên dồi dào với trữ lƣợng lớn.
- Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng trong nƣớc nhằm tạo ra sự hấp dẫn cho

các nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam.
- Tận dụng lực lƣợng lao động dồi dào, tậo trung đào tạo tầng lớp lao động có

tay nghề nhằm tặng lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Tuy nhiên điều này chƣa chắc
đã là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, vì còn phụ thuọc vào chất lƣợng lao động.
- Tăng cƣờng xuất khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế thí dụ những

sản phẩm may mặc, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ, nông sản.
- Ổn định kinh tế trong nƣớc, kìm chế lạm phát, giảm tỉ lệ thất nghiệp, chuyển

dịch những ngành nghề có lao động thủ công là chủ yếu sang những ngành có lao
động kỹ thuật cao hơn.

- Ổn định cơ chế tỉ giá hối đoái nhằm tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra sự ràng buộc chắc chắn cũng nhƣ

vị thế của quốc gia trên trƣờng quốc tế.
2.2 Chính sách vi mô:

Theo mô hình lợi thế cạnh tranh của Micheal Porter thì chính sách nhà nƣớc cần
trực tiếp hỗ trợ cho các vấn đề sau:
- Điều kiện về các yếu tố sản xuất:

 Nhà nƣớc cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lƣợng, có tri
thức và trình độ kỹ thuật cao thì mới tạo ra đƣợc lợi thế cạnh tranh giữa
nguồn lực giữa các quốc gia với nhau. Vì chính những nguồn lực có chất
lƣợng cao này mới tạo ra những sản phẩm mang lại nhiều giá trị thặng dự
và tạo lợi thế cho quốc gia lâu dài và bền vững.


 Tập trung nguồn tài chính trong nƣớc vận hành hiệu qủa, tránh sự lãng phí
mất kiểm soát, đặc biệt sử dụng nguồn tài chính đảm bảo đúng việc, đúng
mục đích.
 Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tốt nhất để thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,
cũng nhƣ làm nền cho một ngành công nghiệp hiện đại trong tƣơng lai.
- Điều kiện về cầu:

 Với dân số trên 85 triệu ngƣời, Thị trƣờng Việt Nam có một lƣợng cầu rất
lớn về mọi chủng loại hàng hoá, Nhà nƣớc cũng cần giúp các doanh nghiệp
về thông tin, cũng nhƣ định hƣóng về sản xuất nhằm phục vụ vho những
nhu cầu này thật tốt nhằm tiết kiệm tài nguyên bị lãng phí.

 Nhà nƣớc cần khuyến khích các ngành cạnh tranh nhau để tạo động cơ phát
triển, tuy nhiên phải tránh việc cạnh tranh không lành mạnh và định hƣớng
sai lệch sẽ gây hậu quả khôn lƣờng.
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan:



Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn đầu vào.



Hỗ trợ các doanh nghiệp về kỹ thuật, các phƣơng pháp khoa học trong sản

xuất kinh doanh để tạo ra năng suất cao hơn, tạo nhiều giá trị tăng thêm.


Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trƣờng tiêu thụ, và cá thông

tin phản hồi cần thiềt để việc kinh doanh các doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn.
- Chíến lƣợc và cơ cấu cạnh tranh trong nội bộ ngành:


Xây dựng chiến lƣợc phát triển ngành, cơ cầu lại ngành cho hợp lý tạo sự

cạnh tranh lành mạnh trong ngành.


Tạo áp lực cạnh tranh trong nộ bộ ngành tạo động cơ cho các doanh

nghiệp vƣơn lên.



Ƣu tiên chiến lƣợc phát triển của ngành, nhằm tạo ra sự chuyên môn cũng

nhƣ đào tạo nguồn nhân lực có chất luợng phục vụ riêng cho ngành.


CHƢƠNG III : ỨNG DỤNG MÔ HÌNH VIÊN KIM CƢƠNG ĐỂ GIẢI
THÍCH CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH ĐẾN LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Sơ lƣợc ngành thủy sản Việt Nam

Thủy sản là một trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao cho
Việt Nam, với tốc độ tăng trƣởng bình quân 18%/năm. Năm 2008, xuất khẩu thủy
sản đạt 4,5 tỉ USD với sản lƣợng trên 4,5 triệu tấn. Hiện nay, trong cả nƣớc có
khoảng 120.000 tàu thuyền nghề cá. Tổng diện tích sử dụng cho mục đích nuôi
trồng thủy sản toàn quốc khoảng 1,1 triệu ha, với sản lƣợng (năm 2008) đạt 2,3
triệu tấn, trong đó cá tra, ba sa chiếm 1,3 triệu tấn, 450.000 tấn là tôm nƣớc ngọt
và lợ, còn lại là các mặt hàng thủy, hải sản khác. Trong các nƣớc xuất khẩu thủy
sản trên thế giới, Việt Nam đƣợc coi là một trong những nƣớc có tốc độ tăng
trƣởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trƣởng trung bình trong giai
đoạn1998-2008 đạt 18%/năm. Kể từ năm 2001, Việt Nam đã có tên trong nhóm
10 nƣớc có xuất khẩu thủy sản mạnh nhất trên thế giới.
Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam chiếm 3,7% thị phần trên thế giới và 0,3% tổng
kim ngạch của toàn thế giới. Theo qui ƣớc, nhóm sản phẩm nào có thị phần cao
hơn chỉ số này đƣợc coi là “vƣợt mức” tức là có đủ năng lực cạnh tranh. Ba khối
thị trƣờng chính của xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là Nhật Bản, Mỹ và EU
với khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, hàng thủy sản Việt Nam
cũng đang bắt đầu thâm nhập vào thị trƣờng mới phát triển nhƣ: Đông Âu, Trung
Đông, châu Mỹ...

2. Các tác động của các chính sách đến lợi thế cạnh tranh của ngành thủy

sản Việt Nam
Ngành thủy sản Việt Nam là ngành kinh tế quan trọng và đã chứng tỏ đƣợc nó là
ngành có sức mạnh cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế trong suốt thời gian qua.
Theo Michael Porter, lợi thế cạnh tranh của một ngành hay của một quốc gia là do
tạo ra dựa trên 4 yếu tố cơ bản của mô hình viên kim cƣơng và 2 yếu tố phụ nhƣ đã


trình bày ở phần 1. Việt Nam cũng không ngoại lệ, để phát triển ngành thủy

sản

và tạo lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản trên thị trƣờng quốc tế, chính phủ đã
phân tích, xây dựng những chính sách, chiến lƣợc để hỗ trợ và tác động vào 4 yếu
tố cơ bản đó. Các tác động này có thể thấy qua từng yếu tố sau :
2.1. Về các nhân tố sản xuất:
- Về nhân tố cơ bản, Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, với 112 cửa sông, trên

3000 đảo lớn nhỏ, nhiều eo biển, hồ, đầm lầy, phá, trên 1 triệu km2 diện tích vùng
đặc quyền kinh tế. Hơn nữa, do Việt Nam nằm trong khu vực sinh thái nhiệt đới,
ít bị ô nhiễm, nên nguồn lợi thuỷ sản rất đa dạng, phong phú, và có khả năng tự
hồi sinh cao. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật thuỷ sản, Việt
Nam có trên 6000 loài động vật đáy, 2038 loài cá, mực... đƣợc phân bố ở hầu hết
các vùng, với trữ lƣợng cao. Khả năng khai thác cá ở vùng biển đặc quyền kinh tế
của Việt Nam có thể đạt trên 4 triệu tấn/năm; tôm có thể đạt trên 44 ngàn tấn/năm;
mực nang có thể đạt trên 64 ngàn tấn/năm; mực ống có thể đạt gần 60 ngàn
tấn/năm...
Để phát huy các tiềm năng của yếu tố cơ bản trên, chính phủ đã thực hiện các
chính sách sau :

Đầu tƣ 1,340 tỷ đồng đƣa cá tra thành mũi nhọn xuất khẩu thủy sản. Chính phủ đã
phê duyệt đề án phát triển sản xuất cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020. Trong đó có nhiều nội dung nhƣ quy hoạch lại vùng sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, cách thức xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sản xuất, xây dựng hệ
thống thống kê phục vụ công việc dự báo tình hình sản xuất, tiêu thụ. Với sự hỗ
trợ của chính phủ, mặt hàng cá tra sẽ gặp nhiều thuận lợi để trở thành mũi nhọn
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong ngành
tiếp tục tăng trƣởng.
Tiếp nhận và khai thác có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ và đầu tƣ của ngân sách Nhà
nƣớc, trái phiếu chính phủ, các chƣơng trình dự án hỗ trợ từ nƣớc ngoài…
- Về nhân tố tiên tiến, Việt Nam tuy có một đội ngũ lao động rẻ, dồi dào nhƣng

trình độ lại thấp so với mặt bằng chung, thiếu nghiêm trọng các chuyên gia giỏi và


các lao động lành nghề. Các chuyên gia đầu ngành có chuyên môn yếu so với khu
vực, đồng thời không có sự phối hợp tốt giữa ngƣời làm chuyên môn và chính
phủ. Do đó, các chính sách của chính phủ tác động vào yếu tố này nhƣ sau :
-

Đầu tƣ vào giáo dục, thành lập các viện nghiên cứu, trƣờng đại học thủy
sản ở các tỉnh thành nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, am
hiểu các quy trình và tiêu chuẩn của thế giới.

-

Xây dựng các mô hình nuôi, đối tƣợng nuôi mới hiệu quả kinh tế cao
hơn, tập huấn chuyển giao kỹ thuật, sản xuất cung ứng con giống chất
lƣợng cao, kỹ thuật chăm sóc, bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ chi phí xét
nghiệm, phòng trừ dịch tôm, vốn để doanh nghiệp thu mua nguyên liệu,

hỗ trợ dầu và bảo hiểm phƣơng tiện, lao động cho ngƣ dân.

2.2.

Về các điều kiện cầu :

Trong thời kỳ suy thoái, nhiều quốc gia đã sử dụng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ
thị trƣờng trong nƣớc. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Cá tra Việt Nam chịu nhiều ảnh hƣởng hơn so với
các mặt hàng khác nhƣ tôm, mực, nghêu,… Đáng chú ý nhất là Nga, thị trƣờng
chiếm tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam, ngƣng
nhập khẩu trong 5 tháng đầu năm 2009. Sự gián đoạn này khiến nhiều doanh
nghiệp có thế mạnh ở thị trƣờng Nga rơi vào tình trạng khó khăn. Tại Italia và Tây
Ban Nha, báo chí đƣa tin không tốt về cá tra, basa Việt Nam đã làm cho thị phần
sản phẩm cá tra của Việt Nam bị ảnh hƣởng đáng kể.
Từ Q3/2009, nhu cầu tiêu dùng trên thế giới bắt đầu tăng trƣởng cùng với đà phục
hồi kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thị trƣờng Nga cũng chính thức nhập khẩu cá tra,
basa Việt Nam trở lại từ tháng 6/2009. Chính sách hỗ trợ lãi suất trong gói kích
cầu của chính phủ cũng đã giúp các doanh nghiệp thủy sản giảm bớt khó

khăn

trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế.
Các doanh nghiệp thủy sản trong năm 2010 tiếp tục nhận đƣợc nhiều ƣu đãi về
vốn vay, thuế thu nhập doanh nghiệp... Ngoài ra, VND đang trong xu hƣớng giảm
giá so với USD là lợi thế lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt


Nam.
Ngoài ra, chính phủ còn có những chính sách thúc đẩy thị trƣờng nội địa phát triển

qua các Festival về Thủy sản Việt Nam. Đó là ngày hội của nông dân, ngƣ dân, các
nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp thủy sản và các lĩnh vực hoạt động có
liên quan, tạo nền tảng, tiến tới xây dựng thƣơng hiệu thủy sản Việt Nam. Bên
cạnh đó, chính phủ còn xúc tiến những hiệp định nhƣ Hiệp định Đối tác Kinh tế
Việt – Nhật (VJEPA) vào đầu năm 2010 và sẽ đƣợc triển khai đồng bộ. Do đó sẽ
có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật

Bản với

thuế suất 0%. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản, đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất khẩu tôm, vì mặt hàng này chiếm tỷ trọng tƣơng đối lớn
trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trƣờng Nhật Bản.
2.3.

Về các ngành hỗ trợ và có liên quan:

Nhân tố này đối với Việt Nam là không có nhiều lợi điểm, mà các yếu điểm thì
rất lớn nhƣ :
-

Hiện nay các nhập liệu đầu vào cho ngành nuôi trồng thuỷ sản hầu nhƣ
phải nhập khẩu.

-

Các kỹ thuật công nghệ mới cho việc nuôi trồng cũng phải cần các chuyên
gia nƣớc ngoài hỗ trợ và các tập đoàn lớn của ta phải thuê mƣớn.

-


Các nhu cầu về trang thiết bị ngày càng cần thiết nhằm đạt các tiêu chuẩn
cao cho sản phẩm, nhƣng năng lực của nƣớc ta không thể cung cấp. Do vậy
việc nhập khẩu là cần thiết và chi phí phải trả cao.

-

Việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong các ngành hỗ trợ, nhƣ điện, hoá, sinh
học, vận tải, quản trị chuỗi cung ứng còn rất hạn chế và yếu kém. Làm tăng
thêm sự khó khăn cho các doanh nghiệp.

Qua đó, các chính sách của chính phủ hiện nay để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của
ngành thủy sản về yếu tố này nhƣ sau:
-

Hỗ trợ dầu và bảo hiểm phƣơng tiện, lao động cho ngƣ dân.

-

Đầu tƣ nâng cấp cơ sở hạ tầng nhƣ: hoàn thiện cảng cá Bình Đại, nâng cấp
cảng cá Ba Tri, đầu tƣ mới cảng cá An Nhơn, dự án dẫn nƣớc ngọt từ hồ


chứa Ba Lai phục vụ nuôi tôm, nƣớc sinh hoạt cho ngƣ dân.
-

Kêu gọi các doanh nghiệp xây dựng nhà máy chế biến thức ăn thủy sản,
chế biến đông lạnh thủy sản ở các khu công nghiệp.

-


Xây dựng các trại sản xuất và cung ứng giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng,
tôm càng xanh, cá tra, bống tƣợng, cá chẽm, cá mú, rô phi, sặt rằn.

2.4.

Chiến lƣợc, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty

Thực tế cho thấy các doanh nghiệp nhà nƣớc trong ngành thủy sản đang thực hiện
tiến trình cổ phần hóa mạnh mẽ, nhằm nâng cao tính cạnh tranh trên thị trƣờng.
Hơn thế nữa, trong năm 2010, có thể chúng ta sẽ bắt đầu chứng kiến xu hƣớng
mua bán – sáp nhập diễn ra nhiều hơn trong ngành thủy sản. Với số lƣợng khá
nhiều, phần lớn các doanh nghiệp trong ngành thủy sản có quy mô vừa và nhỏ,
hoạt động sản xuất dàn trải…
Trong khi áp lực cạnh tranh ngày càng cao, việc sáp nhập, liên kết sẽ giảm thiểu
những tác động của việc cạnh tranh không lành mạnh về thị trƣờng, nguyên liệu,
giá cả… Việc sáp nhập cũng sẽ giúp nâng cao khả năng tiết kiệm theo quy mô, cải
thiện hiệu quả hoạt động.
Trong phần này, các chính sách của chính phủ là hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật theo hƣớng hội nhập với quốc tế nhƣ ban hành Luật đầu tƣ số
59/2005/QH11 và luật doanh nghiệp số 60/2005/ QH11. Bên cạnh đó, chính phủ
đã quyết tâm thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc nhằm tạo ra sức
mạnh cạnh tranh trên thị trƣờng và thúc đẩy các doanh nghiệp tự tìm kiếm những
giải pháp tồn tại và phát triển. Điều này sẽ giúp cho thị trƣờng của ngành thủy sản
càng trở nên sôi động hơn và hiệu quả hơn.


KẾT LUẬN
Trong phạm vi rất hẹp của đề tài này, tôi chỉ trình bày về lợi thế cạnh tranh của
một quốc gia dựa vào sự tác động của các chính sách của chính phủ lên các yếu tố
trong mô hình viên kim cƣơng. Và việc áp dụng mô hình này vào ngành thủy sản

của Việt Nam vẫn chỉ cho thấy một góc độ nào đó của vấn đề rộng lớn hơn.
Để tóm lại về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quốc gia Việt Nam, tôi dựa
vào một số vấn đề của nhà chiến lƣợc xuất sắc nhất thế giới hiện nay, Michael
Porter, ngƣời đã đến Việt Nam vào ngày 1/12/ 2008 để nói về những yếu tố cấu
thành sức mạnh cạnh tranh của Việt Nam nhƣ sau:
“ Thứ nhất , là cần phải vƣợt lên trên sự dựa dẫm vào sự tăng trƣởng xuất
khẩu. Những tín hiệu ban đầu cho thấy tham vọng có thể xây dựng Việt Nam trở
thành một địa điểm năng suất cao và nâng cấp các khu vực nội địa.
Thứ hai, là Việt Nam đang phát triển một khu vực cá nhân trong nƣớc mạnh
mẽ và độc lập. Đó cũng đồng nghĩa với việc phát triển quá trình tƣ hữu hoá và sự
quản lý của Chính phủ, phát triển thị trƣờng tài chính.
Thứ ba, một điều tối quan trọng là cần phải giải quyết những điểm yếu chủ
chốt của môi trƣờng kinh doanh, nhƣ tính quan liêu và tệ tham nhũng, cùng với sự
yếu kém của cơ sở hạ tầng.
Thứ tƣ, là cần phải tập trung vào những ngành kinh tế chủ chốt và có ƣu thế,
nhƣ du lịch, dệt may, giày dép, thuỷ hải sản và dầu khí.
Và một điều cuối cùng, là cần phải thúc đẩy sự phát triển theo những mức
khác nhau: các tỉnh trong nƣớc Việt Nam, khu vực Đông Dƣơng sau đó phải lấn
dần sang khu vực Đông Nam Á. Đó là con đƣờng quan trọng cần theo.”


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Thị Nhƣ Liêm (2018) – Tài liệu giảng dạy môn Quản trị kinh
doanh Quốc tế.

2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia - Michael E. Porter, 2008
3. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối - Adam Smith
4. Diễn đàn Kinh tế thế giới - Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2009



×