Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở việt nam giai đoạn 2010 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.96 KB, 13 trang )

Đề bài: Tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2017
MỤC LỤC
I.
II.
III.

IV.

1

Thực trạng tăng trưởng kinh tế………………………………………………..2
1. Thành tựu………………………………………………………………….2
2. Hạn chế……………………………………………………………………2
Thực trạng bất bình đẳng thu nhập………………………………………........5
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập……………5
1. Tăng trưởng kinh tế làm giảm bất bình đẳng thu nhập………………..…..5
2. Tăng trưởng kinh tế cao làm tang bất bình đẳng thu nhập………………..7
3. Nguyên nhân………………………………………………………….…..11
Giải pháp……………………………………………………………………..12


I.

Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2011-2017
1.Thành tựu

Kể từ khi Chính phủ triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp mạnh mẽ, kiên trì về ổn
định kinh tế vĩ mô (KTVM) và tái cơ cấu nền kinh tế, từ năm 2011 đến nay, tăng trưởng
kinh tế từng bước phục hồi. Năm 2017, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt mức 6,81%,
mức cao nhất trong vòng 6 năm trở lại đây. Theo Tổng cục Thống kê, GDP năm 2017 cao


hơn nhiều so với các năm từ 2011-2016. Trong đó, 3 năm 2012-2014, GDP đều dưới 6%
(5.25%; 5,42% và 5,9%) và 3 năm còn lại, 2011 (6,24%), 2015 (6,68%), 2016 (6,21%)
đều dưới 6,7%.
Kết quả đạt được trong năm 2107 đã khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải
pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, ngành, địa phương cùng nỗ
lực thực hiện. Đà phục hồi tăng trưởng kinh tế dường như không đi kèm với áp lực lạm
phát. Trên thực tế, lạm phát được kiểm soát ở mức tương đối ổn định: Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân tăng 2,66% trong năm 2016 và 3,53% trong năm 2017.

Hình 1: Tốc độ tăng GDP của Việt Nam, 1990-2017 (%)
2.Hạn chế
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2017 vẫn cho
thấy sự thiếu bền vững, tỷ lệ thấp hơn so với kết quả giai đoạn trước khủng hoảng tài
chính thế giới, cụ thể là mức 7,13% vào năm 2007 và bình quân 7,6%/năm trong thời kỳ
1990-2006 (hình 1). Mức tăng trưởng thực tế giai đoạn 2016-2017 vẫn thấp hơn so với
mục tiêu kế hoạch đề ra cho giai đoạn 2016-2020 (6,5-7%/năm).
Tiềm năng tăng trưởng hiện vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Chất lượng tăng trưởng cải
thiện còn chậm: Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế năm 2017 tăng 6%, tuy
cao hơn so với năm 2016 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của nền
kinh tế và cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước trong khu vực. Tốc độ
tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp 33,58% vào tăng trưởng kinh tế
trong thời kỳ 2011-2015. Năm 2016, tỷ lệ này đã tăng lên mức 40,68% và 45,19% vào
năm 2017. Như vậy, tăng trưởng kinh tế dường như đã tiệm cận giới hạn.
2


Các phân tích cho thấy, diễn biến xu thế tăng trưởng tiềm năng còn chậm được cải thiện
(hình 2). Quy mô nợ công vẫn ở mức cao. Tính chung giai đoạn năm 2011-2015, nợ công
tăng bình quân 22%/năm và nhanh gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cùng
kỳ (là 5,9%/năm). Đến năm 2016, tỷ lệ nợ công/GDP đã đạt 63,7%, sát với ngưỡng cho

phép 65% của Quốc hội. Với mức GDP tăng 6,81%, nợ công năm 2017 là 62,6% GDP,
mặc dù vẫn ở trong giới hạn cho phép, song bội chi ngân sách, đầu tư một số công trình
khó/không thể thu hồi vốn và đảo nợ đã ảnh hưởng đáng kể tới khả năng trả nợ. Ở chiều
ngược lại, tăng trưởng GDP chậm cải thiện, kéo theo khó khăn trong thu ngân sách nhà
nước (NSNN) và giảm dư địa vay nợ, gây trở ngại tới khả năng thực hiện các dự án đầu
tư công.

Hình 2: Diễn biến tăng trưởng so với tiềm năng
Việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng tín dụng mặc dù giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong ngắn hạn, song có thể làm tăng trở lại rủi ro đối với hệ thống các tổ chức tín dụng
và ổn định KTVM. Đặc biệt, khi hiệu quả và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chậm
được cải thiện, thì vấn đề tăng trưởng tín dụng cao sẽ dễ dẫn đến tác động tiêu cực tới
kiểm soát lạm phát, gia tăng nợ xấu, ảnh hưởng phát triển kinh tế trong trung và dài hạn.
Đóng góp của các ngành, lĩnh vực
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được thể hiện ở cả ba khu vực: Nông lâm - thủy sản, công nghiệp - xây dựng (CNXD) và dịch vụ. Khu vực CNXD có dấu hiệu
lấn át khu vực nông nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn 2014-2016, khi mà tỷ lệ tăng
trưởng khu vực CNXD có chiều hướng tăng, trái ngược với xu hướng giảm tỷ lệ tăng
trưởng trong khu vực nông - lâm - thủy sản. Từ giữa năm 2016, dịch vụ có xu hướng tăng
cao hơn CNXD và nông - lâm - thủy sản (hình 3). Nhìn chung, nông - lâm - thủy sản là
thế mạnh của nước ta nhưng vốn đầu tư vào lĩnh vực này chỉ chiếm 5,5% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Năm 2016, khu vực nông - lâm - thủy sản chỉ tăng 1,3%, mức thấp nhất kể từ
năm 2011. Năm 2017, mặc dù GDP nông - lâm - thủy sản đã tăng lên mức 2,9% song vẫn
tiếp tục đối mặt với cạnh tranh, giá giảm và thiếu thị trường tiêu thụ. Tăng trưởng của
ngành Nông nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Việc giảm tỷ
trọng GDP trong khu vực nông - lâm - thủy sản ít nhiều tác động tới vấn đề việc làm
3


nước ta, gây khó khăn cho người dân trong quá trình tìm việc làm mới khi phải chuyển từ
nghề nông sang những ngành công nghiệp đòi hỏi trình độ, tay nghề cao hơn.

Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đang có xu hướng chậm lại, từ trung bình
14,3%/năm của giai đoạn 2006 - 2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015,
7,57% năm 2016 và năm 2017 tăng 7,85% so với cùng kỳ năm 2016. Việt Nam đứng thứ
101 trong tổng số 143 nước về chỉ số giá trị gia tăng trong ngành công nghiệp chế biến
chế tạo theo bình quân đầu người. Đây là những vấn đề đáng lo ngại khi mà Việt Nam
mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Do khu vực CNXD chiếm tỷ
trọng khá lớn, chậm cải thiện tiềm năng tăng trưởng ở khu vực này cũng ảnh hưởng tới
triển vọng tăng trưởng nói chung của nền kinh tế. Tăng trưởng công nghiệp của Việt Nam
chậm và chưa thực sự bền vững, thể hiện ở một số lĩnh vực sau:
-

Thứ nhất, tăng trưởng công nghiệp phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài
nguyên, lao động trình độ thấp, chưa phát huy được yếu tố tri thức, khoa học và
công nghệ, lao động có kỹ năng.

-

Thứ hai, một số ngành công nghiệp chủ đạo chưa được tổ chức theo mô hình chuỗi
giá trị, đặc biệt là các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu. Việt Nam hiện
nay chỉ mới tham gia được ở các công đoạn có giá trị gia tăng thấp như gia công,
lắp ráp, không chủ động được nguồn cung cho sản xuất.

-

Thứ ba, công nghiệp phụ thuộc đáng kể vào đầu vào nhập khẩu nên thiếu chủ
động và dễ tổn thương trước các biến động của thị trường thế giới, đặc biệt là giá
nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.

Hình 3: Tăng trưởng GDP theo khu vực 2008-2017 (%)
Trong nhiều năm qua, sự phát triển của ngành dịch vụ đã đạt được kết quả đáng ghi nhận.

Cùng với đó, tỷ trọng GDP nhóm ngành dịch vụ trong tổng GDP cũng tăng theo các năm
(năm 2000 đạt 38,74%, năm 2005 tăng lên 42,57%, năm 2010 lên 42,88% và năm 2017
tăng đạt 41,32%). Tuy vậy, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Việt Nam còn thấp so với
nhiều nước và vùng lãnh thổ (đứng thứ 8/10 trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 29/34
4


ở châu Á, đứng thứ 94/104 thế giới). Sự phát triển ngành vẫn chưa xứng với tiềm năng và
yêu cầu của phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, yêu cầu phát triển dịch vụ có
ý nghĩa to lớn, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển mà còn tạo lập và củng cố sự
liên kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành công - nông nghiệp và tác động lan tỏa tới mọi
lĩnh vực trong nền kinh tế.
II.

Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam

Mặc dù kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện
nhưng cùng với nó là sự gia tăng bất bình đẳng.
1.Hệ số GINI
Xem xét sự thay đổi hệ số GINI của Việt Nam trong những năm gần đây

Cả nước

2002
0.420

2004
0.420

2006

0.424

2008
0.434

2010
0.433

2012
0.424

2014
0.430

2016
0.431

Có thể thấy hệ số GINI có xu hướng tăng (từ năm 2002 là 0.420 tăng lên 0.431 ở năm
2016). Hệ số GINI trung bình nằm ở khoảng từ 0.4 đến 0.5 là bất công bằng vừa.
2.Chênh lệch thu nhập giữa các nhóm giàu nghèo:
Xem xét mức độ gia tặng hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo
nhất ở Việt Nam
2010
9.2

2012
9.4

2014
9.7


2016
9.8

Nhận xét: Dựa vào những chỉ tiêu trên ta có thể thấy tình trạng bất bình đẳng phân phối
trong thu nhập nước ta ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng. Đây là một vấn đề vô
cũng bức xúc và cần có biệp pháp tháo gỡ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giảm
bất bình đẳng thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.

III.
Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập
1. Tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển của các ngành nghề đã giúp giải
quyết được một lượng lao động thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt từ năm 2010
5


( 2.88%) đến năm 2016 (2.30%). Đó là nhờ những chính sách tạo việc làm cho người
lao động như cho các doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất, chính sách xuất khẩu
lao động chính sách tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ kĩ thuật cho người
lao động, tăng cơ hội kiếm việc làm …
Năm
Tỷ lệ thất nghiệplực lượng lao
động (%)

-

2010
2.88


2014
2.1

2015
2.33

2016
2.30

Xoá đói giảm nghèo được coi là một trong những thành công lớn nhất của quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Ta thấy trong giai đoạn 2010-2016, tăng trưởng
kinh tế góp phần làm tỷ lệ hộ nghèo giảm đi và chi tiêu bình quân đầu người một
tháng tăng lên. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, hàng năm số tiền đóng góp hỗ trợ
người nghèo của các cá nhân xí nghiệp khá là lớn. Nhờ vậy tỷ lê người nghèo được hỗ
trợ vốn để phát triển sản xuất, thoát khỏi cảnh nghèo ngày càng tăng, người nghèo
được hỗ trợ, có thể tự lo liệu cho cuộc sống, đời sống cải thiện. Từ đó khoảng cách
giàu nghèo cũng được rút ngắn hơn, chênh lệch chi tiêu nhóm thu nhập cao nhất với
nhóm thu nhật thấp nhất cũng giảm đi.
Năm
Tỷ lệ
hộ
nghèo
(%)

2010
14.2

2012
11.1


2013
9.8

2014
8.4

2015
7.0

2016
5.8

- Tăng trưởng kinh tế cao, mức sống của hộ gia đình được cải thiện đáng kể. Chi tiêu hộ
gia đình tăng lên hàng năm đồng thời chênh lệch chi tiêu giữa nhóm cao nhất và thấp
nhất thì giảm xuống. Trong chi tiêu, phần chi cho ăn uống thì giảm xuống chuyển sang
chi cho các đồ dùng lâu bền và nhà cửa. Các điều kiện cơ sở hạ tầng, đời sống sinh hoạt
ngày càng được cải thiện, nhất là vùng thành thị thì có được sự cung cấp dịch vụ điện
nước tốt.

Năm
2010
Chi tiêu bình quân đầu người
1.211
một tháng (nghìn đồng)
Chênh lệch chi tiêu nhóm thu 4.6
nhập cao nhất so với nhóm thu
nhập thấp nhất ( lần)
6

2012

1.063

2014
1.888

2016
2.157

3.8

3.8

3.9


Tỷ lệ hộ gia đình có nhà phân theo loại nhà
Loại nhà/Năm
2014
Nhà kiên cố
50.5
Nhà bán kiên cố
40.3
Nhà thiếu kiên cố
5.7
Nhà đơn sơ
3.5

Tỷ lệ hộ có đồ
dùng lâu bền
Tỷ lệ hộ dùng

điện sinh hoạt
Tỷ lệ hộ có
nguồn nước
hợp vệ sinh

2016
49.7
42.5
5.2
2.6

2010
98.4

2012
99.4

2014
99.7

2016
99.7

97.2

97.6

98.3

98.8


90.5

91.0

93.0

93.4

Đầu tư cho giáo dục và y tế , cải thiện phúc lợi xã hội , cung cấp các dịch vụ đến
toàn bộ người dân. Nhất là các chính sách hỗ trợ được đưa về vùng sâu vùng xa miền núi
hải đảo…
2. Tăng trưởng kinh tế cao kéo theo tình trạng bất bình đẳng thu nhập gia tăng
Trong quá trình thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, thành tựu tăng trưởng kinh tế, và nỗ
lực cải thiện vấn đề bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam như ta đã thấy ở trên là
đáng ghi nhận. Tuy nhiên, những điều đã nói ở trên vẫn chưa phản ánh đúng, đủ về
thực trạng tác động của tăng trưởng kinh tế tới bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế thì tình trạng bất bình đẳng thu nhập lại có
chiều hướng gia tăng, khoảng cách thu nhập giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ngày
càng lớn, phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt.
-

7

Đầu tiên là hệ số GINI và chênh lệch thu nhập giữa các nhóm giàu nghèo đã nhắc ở
phần thực trạng bất bình đẳng thu nhập
Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước và từng vùng giảm đi rõ rệt nhưng tỷ lệ hộ
nghèo giữa các vùng vẫn có sự chênh lệch rõ rệt. Tuy nhiên Trung du miền núi phía
Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất trong cả nước, lớn hơn rất nhiều so với các vùng khác. Đông Nam Bộ luôn là

vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước.


Tỷ lệ hộ nghèo của thành thị và nông thôn giảm đáng kể nhưng tỷ lệ hộ nghèo của
thành thị luôn lớn hơn ở nông thôn rất nhiều, mặc dù kinh tế xã hội ở thành thị thì
phát triển hơn nông thôn.

8


-Chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng: Kinh tế nước ta phát
triển không đồng đều giữa các vùng từ đó gây nên tình trạng bất bình đẳng thu nhập bất
bình đẳng mức sống.

9


10


-

Bất bình đẳng trong việc hưởng phúc lợi xã hội và các dịch vụ công
Về an sinh xã hội: Các lợi ích của ASXH ở Việt Nam được phân phối không công
bằng giữa các nhóm người. Ngoài ra các vùng thành thị nhận được nhiều lợi ích
ASXH hơn vùng nông thôn, người Kinh thì hơn người người dân tộc thiểu số…

Nhóm giàu
nhất
Nhóm nghèo

nhất

Lợi ích an
sinh xã hội
40%

Lương hưu

Trợ giúp y tế

47%

45%

Trợ giúp giáo
dục
35%

7%

2%

7%

15%

Về giáo dục mặc dù nước ta có nhiều chính sách ưu đãi, mức học phí thấp hơn so với
nhiều nước trên thế giới nhưng cũng vẫn là rào cản đồi với những hộ gia đình nghèo,
với những hộ gia đình ở vùng sâu vùng xa dân tộc thiểu số.
3. Nguyên nhân vì sao?

Xem xét và đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở
Việt Nam ta có thể thấy các nguyên nhân chính sau
-

-

-

11

Do quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, quá trình này kéo theo những đòi
hỏi cao về ứng dụng công nghệ mới và cách thức tổ chức trong sản xuất, chỉ
những người được đào tào, có trình độ học vấn có tay nghề mới có thể đáp ứng
được nhu cầu này. Tuy nhiên tỷ lệ lao động có đào tạo chuyên nghiệp ở nước
ta đang còn chưa cao vì vậy thu nhập sẽ có sự chênh lệch giữa những người có
đào tạo và ko có đào tạo. Hơn nữa CNH HĐH cũng kéo theo quá trình đô thị
hoá những vùng phát triển được đầu tư phát triển công nghiệp, thu hút lao
động, có nhiều cơ hội việc làm, mức thu nhập cao hơn, điều này làm tăng sự
bất bình đẳng giữa thành thì và nông thôn
Do nước ta có nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, có đồng bằng có đồi núi, mỗi
nơi có một đặc điểm khác nhau có lợi thế kinh tế khác nhau, có văn hoá xã hội
khác nhau. Vùng nào ngành nào có thể phát triển mạnh làm đầu tàu để kéo
kinh tế cả nước lên như vùng đồng bằng song Hồng, vùng Đông Nam Bộ,
ngành công nghiệp dịch vụ,.. thì sẽ được đầu tư mạnh tay hơn, từ đó dẫn đến
sự bất bình đẳng giữa các vùng các ngành kinh tế, …
Do tiến trình hội nhập, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng đồng
thời tính cạnh tranh tăng cao, thách thức vô cùng lớn với phát triển kinh tế và


-


công bằng xã hội. Dưới áp lực đó doanh nghiệp nhỏ bị doanh nghiệp lớn chèn
ép, đòi hỏi cao của thị trường sẽ gặp nhiều khó khan
Cuối cùng là tình trạng tham nhũng ở Việt Nam đang ở mức báo động, tình
trạng ngân sách rót ra đầu tư cho các dự án cấp quốc gia dự án phát triển bền
vững bị bớt xén nhiều, bỏ vào túi lãnh đạo làm nhiều người làm ăn bất hợp
pháp giàu lên nhanh chóng.

IV. Giải pháp để kết hợp tăng trưởng và công bằng xã hội ở ViệtNam
Các chính sách và giải pháp kết hợp giữa tăng trưởng và công bằng xã hội không
những chỉ hướng tới mục tiêu công bằng trong thu nhập, mà xa hơn là mở rộng khả năng
tiếp cận cho người nghèo hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, để giải quyết tốt mối
quan hệ này, cần thực hiện có hiệu quả các giải pháp sau đây.
- Thứ nhất, xây dựng và thực hiện mô hình tăng trưởng công bằng, vì người
nghèo. Mô hình này phải đảm bảo thu nhập của người nghèo tăng nhiều hơn so
với thu nhập trung bình của xã hội và góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn quy định. Trong mô hình này cần phát huy vai trò của khu vực tư nhân
trong đầu tư tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm và mở
rộng sự tham gia của các đối tác xã hội vào công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, mô hình tăng trưởng phải vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng
cao, ổn định, vừa phải đạt được trên diện rộng có lợi cho người nghèo.
- Thứ hai, các chính sách của Nhà nước phải hướng vào việc khuyến khích, tạo
cơ hội để người nghèo và các nhóm yếu thế tham gia hưởng lợi từ tăng trưởng
kinh tế. Điều này có thế thực hiện được thông qua các chính sách trợ giúp về
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, vốn tín dụng, khuyến nông,
tiêu thụ sản phẩm. Người nghèo và các nhóm yếu thế cũng cần được tạo cơ hội
được tham gia, có tiếng nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát
triển kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương. Cải cách thị trường lao
động và chính sách tạo việc làm theo hướng linh động theo ngành, nhóm yếu
thế từ những tỉnh nghèo, vùng nghèo tham gia vào thị trường lao động. Mặt

khác, nguồn thu nhập chính của đại bộ phận người nghèo và người yếu thế là
từ nông nghiệp. Do vậy, cải thiện năng suất và tốc độ tăng trưởng nông nghiệp
là một giải pháp quan trọng để xóa đói, giảm nghèo. Nhà nước có thể thực hiện
điều này thông qua đầu tư công nghệ cho nông nghiệp, phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.
- Thứ ba, cần có những chính sách cho vấn đề di dân. Việc di dân từ nông thôn
ra thành thị để cải thiện thu nhập là vấn đề phổ biến không chỉ ở Việt Nam, mà
còn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận rằng vấn đề này
có cả mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, Chính phủ cần phải thực hiện những
chính sách có mục tiêu để hạn chế những mặt tiêu cực và bảo vệ những người
di cư từ những rủi ro.
- Thứ tư, thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với những khu vực kém phát
triển và đối với người nghèo. Điều này, có thể thực hiện thông qua nhiều kênh:
12


-

-

13

(i) các chương trình trợ giúp về phát triển cơ sở hạ tầng, các trợ giúp về tín
dụng, đất đai, dạy nghề, tạo việc làm, truyền đạt kinh nghiệm sản xuất; (ii) các
ưu đãi về y tế, giáo dục, văn hoá, nhà ở; (iii) cân đối các khoản giải ngân ODA
cũng cần hướng đến các tỉnh vùng sâu, xa, vùng khó khăn. Thực tế, khi mối
quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng càng gắn kết thì vai trò của chính
sách xã hội đối với quá trình tăng trưởng và giảm bất bình đẳng cần đặc biệt
chú trọng hơn. Do vậy, trong quá trình tăng trưởng kinh tế, cần kiểm soát
thường xuyên, chặt chẽ các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là xoá

đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và nhấn mạnh ngày càng nhiều hơn đến
yêu cầu giải quyết các nội dung này trong các chính sách và giải pháp tăng
trưởng.
Thứ năm, Việt Nam cần phải cải cách chính sách phân phối tài sản, thu nhập
trong nền kinh tế theo hướng phải đảm bảo công bằng, hướng đến người
nghèo. Hơn nữa, Nhà nước cần đưa ra và áp dụng các biện pháp để hạn chế
tình trạng bất bình đẳng tài sản từ những hoạt động không phải từ sản xuất
kinh doanh như: (i) thực hiện bắt buộc việc kê khai tài sản đối với cán bộ công
chức; (ii) nghiên cứu và áp dụng các loại thuế thừa kế tài sản, thuế tài sản, thuế
vốn… trong thời gian tới.
Cuối cùng, để thực hiện được tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của
Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước phải biết tận dụng mặt mạnh của cơ
chế thi trường để giải phóng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, Nhà nước phải kết hợp sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật,
quy hoạch, chính sách, sức mạnh của khu vực kinh tế nhà nước để khắc phục
những thất bại của cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền
vứng, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp
nhân dân.



×