Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vấn đề sử dụng lao động hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.17 KB, 25 trang )

Mục Lục


Danh mục viết tắt:
DN : Doanh nghiệp
CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
LLLĐ : Lực lượng lao động
GTVL : Giới thiệu việc làm
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
CNH : Công nghiệp hóa
HĐH : Hiện đại hóa
CMCN : Cách mạng công nghiệp
CNTT : Công nghệ thông tin
KH – KT : Khoa Học – Kỹ Thuật


MỞ ĐẦU
Bất cứ một chương trình phát triển kinh tế xã hội nào của một đất nước, một
địaphương, hay một doanh nghiệp thì sự thành hay bại thường xuất phát từ một số yếu tố
như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và lao động. Trong các yếu tố cơ bản quan
trọng này thì việc quyết định sự phát triển kinh tế xã hội đó chính là nhân tố con người.
Đây cũng là yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi doanh nghiệp hiện nay. Nếu trình độ
nghề nghiệp của người lao động thấp thì tài nguyên, vốn và công nghệ cũng sẽ trở thành
lãng phí và tất yếu dẫn đến hậu quả kinh tế thấp. Do tính quan trọng này, để làm rõ vấn đề
“ Vấn đề sử dụng lao động hiện nay ở Việt Nam”.
Mục tiêu chung của đề tài là : Đánh giá được thực trạng sử dụng lao động hiện
nay ở Việt Nam .
Mục tiêu cụ thể : Tổng quát về tình hình lao động ở Việt Nam hiện nay ; Phân tích
thực trạng công tác sử dụng nguồn lao động.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi phải có đội ngũ


lao động ký thuật với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Ở nước ta lực lượng lao
động khá dồi dào, có trình độ học vấn căn bản làm cơ sở cho việc đào tạo nghề nghiệp và
nhanh chóng tiếp thu khoa học ký thuật mới, sẵn sang để được tham gia vào các chương
trình kinh tế xã hội của địa phương, kể cả tham gia xuất khẩu lao động và người lao động
hầu hết họ đều cần cù, chịu khó làm việc, có ý thức học hỏi và chấp hành nội quy, chấp
hành luật khá nghiêm túc. Đây chính là nguồn lực ban đầu cần thiết cho những quyết định
đầu tư trong nước cũng như kêu gọi hợp tác đầu tư của nước ngoài vào các dự án phát
triển kinh tế. Nhưng để nguồn nhân lực đó trở thành nội lực thực sự mạnh cho việc gọi
vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm năng thiên nhiên thì phải đẩy mạnh hơn nữa sự
nghiệp đào tạo nghề nghiệp cho người lao động. Vì hiện nay trình độ đào tạo lành nghề ở
nước ta còn thấp như vậy thì khó có thể tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn, công nghệ
Trang 3


và khai thác tiềm năng, càng khó khăn để cạnh tranh về chất lượng hàng hóa và càng khó
cho việc giải quyết việc làm.
Ở nước ta mỗi năm có khoảng 1,2 triệu người đến độ tuổi lao động và được bổ
sung vào lực lượng lao động của đất nước. Thế nhưng số lượng lao động thì được bổ sung
mà chất lượng thì lại hạn chế. Phần lớn lao động xuất thần từ nông thôn, chưa qua hoc
nghề bài bản, thiếu tác phong công nghiệp..v.v.v, nên nhiều doanh nghiệp có nhu cầu sử
dụng nhiều lao động lại không tuyển được hay tuyển dụng rồi mà chưa hài long về chất
lượng. Mặt khác, hiện nay Việt Nam chính thức đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới ( WTO ), và sẽ mở cửa thị trường trên nhiều lĩnh vực. Đối với lao động Việt Nam thì
hiện nay mới chỉ có 25% trong số 42 triệu lao động qua đào tạo; khoảng 80% thanh niên
(18-23 tuổi) bước vào thị trường lao động chưa qua đào tạo nghề; dư thừa lao động phổ
thông, thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán
bộ hành chính, cán bộ quản lý chất lượng cao, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ
cao. Chất lượng nguồn nhân lực vủa Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với 5,78/10 của Trung
Quốc và 4,01/10 của Thái Lan, đây là những thách thức đôi với nguồn nhân lực Việt Nam.
Bên cạnh đó gia nhập WTO đồng nghĩa việc Việt Nam gia nhập chuỗi phân công lao động

toàn cầu. Do đó nguồn nhân lực trẻ, dồi dào và giá nhân công rẻ, trong ngắn hạn, Việt
Nam có lợi thế so sánh về việc làm ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu
chỉ dừng ở yếu tố lao động rẻ chỉ có lợi thế đối với những ngành kinh tế sử dụng nhiều
lao động, không là lợi thế đối với những ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao hoặc ngành
sử dụng nhiều vốn.
Đối với doanh nghiệp, gia nhập WTO buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải
không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng suất, sử dụng
hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Sức ép sẽ ngày càng tăng,
nhất là đối với khu vực kinh tế quốc doanh.Việc phát triển nguồn nhân lực là một trong
những vấn đề quan tâm hàng đầu. Các chủ doanh nghiệp đều cảm nhận được rằng, nền
kinh tế ngày càng phát triển quá trình hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở thì việc thu hút
nhân lực có trình độ càng cạnh tranh gay gắt nhát trong tình hình hiện nay khi Việt Nam
Trang 4


gia nhập WTO những tập đoàn quốc gia với lợi thế cạnh tranh về chính sách đãi ngộ, sẽ
thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước vào chỗ khó khăn hơn, phải đương đầu với cuộc
chiến giành giật nhân tài.
Chúng ta đang ở thế kỷ XXI,với thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì trình độ
khoa học ký thuật thế giới phát triển như vũ bão và đất nước ta cũng đang trên đường tiến
mạnh lên để bắt kịp thời đại.Để đạt được mục tiêu đó, có lẽ một trong những việc phải ưu
tiên đầu tư đó là xây dựng nguồn nhân lực trong đó cần thiết phải trang bị và không
ngừng nâng cao trình độ nghề ngiệp cho những người lao động, xem đó là điểm tựa của
hệ thống đòn bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư cho phát triển,
một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho lâu dài về sau. Có thể nói,
trình độ lao động hay chất lượng của nguồn nhân lực là yếu tố quyết định nhất cho sự
phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng.

Trang 5



I. Tổng quan về lao động
1.1. Một số khái niện cơ bản

1.1.1. Lao động

-

Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật

-

thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người.
Sức lao động là năng lực lao động của con người, toàn bộ trí lực và thể lực của con
người. Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình lao động.

1.1.2. Nguồn lao động
-

Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp
luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người
ngoài độ tuổi lao động ( trên độ tuổi lao động ) đang làm việc trong các ngành kinh
tế quốc dân

1.1.3. Lực lượng lao động
-

Lực lượng lao động theo quan điểm của tổ chức Lao động Quốc tế ( ILOInternational Laour Organization ) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo


-

quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Ở nước ta thường sử dụng khái niệm : Lực lượng lao động là bộ phận dân số đủ 1

-

tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp.
Độ tuổi lao động ở Việt Nam hiện nay với nam là từ 15 đến 60 tuổi còn với nữ là
từ 15 đến 55 tuổi. Trường hợp người lao động nằm ở công tác quản lý và một số
trường hợp khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm.

1.2.Thị trường lao động
1.2.1. Cung lao động
Trang 6


-

Cung lao động phản ánh về số lượng và chất lượng lao động có khả năng cung cấp
cho nền kinh tế theo những mức tiền công xác định.

1.2.2. Cầu lao động
-

Cầu lao động phản ánh mạnh về số lượng và chất lượng mà nền kinh tế có nhu cầu
sử dụng theo mức tiền công xác định.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới số lượng lao động và chất lượng lao động
1.3.1. Số lượng lao động

-

Dân số là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: quy mô, cơ cấu dân số có ý

-

nghĩa quyết định đến quy mô và cơ cấu của nguồn lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhân tố ảnh

-

hưởng là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia lao động.
Thất nghiệp là bộ phận người trong độ tuổi lao động nhưng không tìm được việc
làm.

1.3.2. Chất lượng lao động
-

Yếu tố giáo dục là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng lao động.

1.4. Vai trò của lao động
- Lao động là yếu tố chủ động của quá trình sản xuất.
- Trước hết ,lao động là nguồn lực sản xuất chính vì nó là yếu tố đầu vào không thể
thiếu trong phát triển kinh tế. Mặt khác, lao động là một bộ phận của dân số, cũng là
người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Vì vậy phát triển kinh tế suy cho cùng là
tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
- Lao động là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

Trang 7



- Một mặt lao động là nguồn nhân lực sản xuất chính và không thể thiếu trong các
hoạt động kinh tế.
- Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của
quá trình phát triển.

II. Thực trạng sử dụng lao động hiện nay ở Việt Nam
2.1. Tổng quan về thực trạng sử dụng lao động
2.1.1. Quy mô và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LLLĐ)

Theo đó, quý 2/2017, dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 71,85 triệu người, tăng 1,4% so với
quý 2/2016, nữ tăng 1,14%, khu vực thành thị tăng 0,08%. Quy mô LLLĐ từ 15 tuổi trở
lên đạt 54,52 triệu người, tăng 0,3% so với quý 2/2016, nữ giảm 0,31%, khu vực thành thị
tăng 0,28%. Quý 2/2017, tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 76,45%,
giảm so với quý 1/2017 và so với cùng kỳ năm trước.
Trang 8


2.1.2. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)

LLLĐ từ 15 tuổi trở lên có bằng/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên quý 2/2017 là 11,78
triệu, tăng 564 nghìn người (5,03%) so với quý 2/2016. Trong đó, tăng mạnh nhất ở nhóm
sơ cấp nghề (8,44%), tiếp đến là nhóm trung cấp (5,01%), nhóm đại học và trên đại học
(4,64%) và nhóm cao đẳng (2,98%). Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên trong tổng
LLLĐ là 9,09%; cao đẳng là 3,17%; trung cấp là 5,43%; và sơ cấp nghề là 3,53%.

Quý 2/2017, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên là 21,6%
trong LLLĐ, tăng 0,98 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
2.1.3. Số lượng và cơ cấu việc làm
Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực hơn. Bằng chứng là, số người làm việc trong

lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ tăng lên, tỷ lệ người làm việc trong khu vực phi chính thức
giảm xuống; số lượng cũng như tỷ lệ người làm việc trong khu vực làm công ăn lương
tăng lên. Thời điểm Quý 4 chứng kiến số lượng lao động qua đào tạo thất nghiệp giảm
hẳn xuống 215 nghìn từ hơn 237 nghìn lao động có trình độ đại học thất nghiệp trong quý
3/2017. Tỷ lệ các nhóm lao động có trình độ cao đẳng, trung cấp thất nghiệp giảm. Tuy
Trang 9


nhiên, tỷ lệ lao động có trình độ sơ cấp đào tạo dưới ba tháng thất nghiệp tăng, cho thấy
nền kinh tế ngày càng “kén chọn” hơn, những lao động có trình độ cao dễ dàng tìm kiếm
việc làm hơn.

Quý 2/2017, số người có việc làm là 53,40 triệu, tăng 164,3 nghìn người (0,31%) so
với quý 2/2016 và 39,7 nghìn người (0,07%) so với quý 1/2017.

Quý 2/2017, có khoảng 9,12% người đang làm việc tự đánh giá công việc chính hiện
tại chưa phù hợp với ngành/nghề được đào tạo; 1,86% coi công việc đang làm là công
việc tạm thời trong thời gian chờ đợi/tìm kiếm công việc khác thay thế, trong đó có
khoảng 50% đang tìm kiếm việc làm, 80,6% sẵn sàng đảm nhận công việc mới ngay khi
có cơ hội.
2.1.4. Thu nhập

Trang 10


Quý 2/2017, thu nhập bình quân tháng từ việc làm chính của lao động làm công
hưởng lương là 5,2 triệu đồng, giảm 197 nghìn đồng (3,6%) so với quý 1/2017 và tăng
349 nghìn đồng (7,2%) so với cùng kỳ năm 2016.
Quý 2/2017, nhóm lao động có trình độ đại học và trên đại học có thu nhập cao nhất
(7,49 triệu đồng, có cùng xu hướng giảm thu nhập so với quý 1/2017 như các nhóm trình

độ khác nhưng có mức giảm cao nhất (736 nghìn đồng, 8,9%). Đáng lưu ý là thu nhập của
nhóm lao động có trình độ sơ cấp (6,04 triệu đồng) cao hơn nhóm có trình độ trung cấp và
cao đẳng.
Khảo sát của Bản tin thị trường cho thấy, mức thu nhập tăng cao nhất ở nhóm có trình
độ sơ cấp (351.000 đồng, tương ứng với 5,8%), tỷ lệ tăng thấp nhất là nhóm có trình độ
cao đẳng (5,75 triệu đồng, tương ứng với 1,7%). Về thu nhập, mức bình quân tháng của
lao động làm công hưởng lương tăng nhẹ so với Quý 3/2017. Tuy nhiên, mức tăng này
chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế cùng kỳ. Thu nhập nhìn chung có tăng so với
vùng kỳ năm trước và Quý 3/2017. Nhưng so với tốc độ tăng trưởng GDP và các yếu tố
khác thì tốc độ tăng còn thấp.
Trang 11


Trong Quý 4/2017, thu nhập bình quân tháng từ việc làm chính của lao động làm
công hưởng lương được thống kê đạt 5,41 triệu đồng, (chiếm 98,4% tổng thu nhập), tăng
45.000 đồng (0,8%) so với quý 3/2017 và tăng 329.000 đồng (6,5%) so với cùng kỳ năm
2016. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất (trình độ đại học trở lên) với
thấp nhất (trình độ trung cấp) tăng lên, từ 1,33 lần lên 1,36 lần so với quý /2017. Khảo sát
của Bản tin, thu nhập của người lao động trong hầu hết các ngành đều tăng nhẹ so với quý
3/2017 và cùng kỳ năm trước, trừ một số ngành dịch vụ như bán buôn, bán lẻ và dịch vụ
lưu trú và ăn uống giảm nhẹ.

2.1.5. Tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng thiếu việc làm
Về thất nghiệp và thiếu việc làm, trong quý 4/2015, cả nước có 1.051 600 người trong
độ tuổi lao động bị thất nghiệp, trong đó nữ có 461 200 người (chiếm 43,9%); khu vực
thành thị có 502 900 người (chiếm 47,8%); nhóm thanh niên (15-24 tuổi) có 559 400
người (chiếm 53,2%). So với quý 3/2015, số người thất nghiệp đã giảm 77 100 người,
trong đó nữ giảm 42 200 người, khu vực thành thị giảm 18 400 người, nhóm thanh niên
Trang 12



(15-24 tuổi) giảm 107 100 người. So với quý 4/2014, số người thất nghiệp tăng 76 400
người, trong đó khu vực thành thị tăng 25 900 người, nhóm thanh niên (15-24 tuổi) tăng
111 000 người, tuy nhiên nữ lại giảm 11,8 nghìn người.Trong số những người bị thất
nghiệp, có 417,3 nghìn người có CMKT (chiếm 39,7%), bao gồm: 155 500 đại học trở
lên; 115 000 đẳng chuyên nghiệp; 6 100 cao đẳng nghề; 63 800 trung cấp chuyên nghiệp;
15 000 trung cấp nghề; 26,9 nghìn sơ cấp nghề và 35 200 có chứng chỉ nghề dưới 3 tháng.
So với quý 3/2015, số người bị thất nghiệp có CMKT giảm 78 000 người. Trong đó, giảm
ở năm nhóm: trình độ đại học trở lên (-70 nghìn người); sơ cấp nghề (-18 320 người); cao
đẳng nghề (-9030 người); trung cấp nghề (-8 080 người) và cao đẳng chuyên (-2 330
người). Ngược lại, số người có CMKT bị thất nghiệp tăng ở hai nhóm: chứng chỉ nghề
dưới 3 tháng (26 230 người); trung cấp chuyên nghiệp (3 540 người).
Đáng chú ý, trong số những người bị thất nghiệp, trong quý IV/2015, tỷ lệ thất nghiệp
giảm nhẹ so với quý III song vẫn tăng so với cùng kỳ 2014. Nhóm có trình độ cao đẳng
chuyên nghiệp đứng ở vị trí cao nhất là 8,16%, tiếp theo là cao đẳng nghề 3,44%. Tỷ lệ
thất nghiệp trong nhóm tuổi thanh niên là 7,21%, gấp 3,3 lần tỷ lệ chung. Trong đó, thanh
niên thành thị là 12,21%. Đáng lưu ý, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên độ tuổi 20-24 có
trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức rất cao: cao đẳng chuyên nghiệp là 19,58% và đại
học trở lên 20,79%. Tình trạng thất nghiệp dài hạn đã được cải thiện: tỷ lệ người bị thất
nghiệp trên 12 tháng của quý 4/2015 giảm còn 23,1% (so với 25% của quý 3/2015).
Năm 2016, khi nền kinh tế tiếp tục đà phục hồi mạnh, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
lao động sẽ giữ ở mức thấp, còn 2,2% và lực lượng lao động có việc làm trong một số
ngành như công nghiệp chế biến, chế tạo; vận tải kho bãi; thông tin và truyền thông... sẽ
tăng. Một số ngành lao động sẽ giảm như nông lâm ngư nghiệp, khai khoáng...

Quý 2/2017, cả nước có 1.081 nghìn lao động trong độ tuổi thất nghiệp, giảm 20
nghìn người so với quý 1/2017 và 7,1 nghìn người so với quý 2/2016. Tỷ lệ thất nghiệp
của lao động trong độ tuổi giảm còn 2,26%, thấp nhất trong 5 quý gần đây.
Trang 13



Số người thất nghiệp có trình độ “đại học trở lên” là 183,1 nghìn người, tăng 44,2
nghìn người so với quý 1/2017; tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này là 3,63% (quý trước là
2,79%). Nhóm trình độ “cao đẳng” có 82,6 nghìn người thất nghiệp, giảm 21,6 nghìn
người so với quý 1/2017; tỷ lệ thất nghiệp nhóm này giảm còn 4,96% nhưng vẫn ở mức
cao nhất. Nhóm trình độ “trung cấp” có 92,7 nghìn người thất nghiệp, tăng 9,4 nghìn
người, tỷ lệ thất nghiệp là 3,5%.

Trang 14


Quý 4/2017 thất nghiệp giảm cả về số lượng và tỷ lệ; thất nghiệp ở nhóm thanh niên
và nhóm lao động có trình độ “đại học trở lên” giảm đáng kể so với quý 3/2017. Quý
4/2017 cả nước có 1.071,2 nghìn lao động trong độ tuổi thất nghiệp, giảm 3,6 nghìn người
so với Quý 3. Tuy nhiên, cả nước vẫn có 215,3 nghìn người có trình độ đại học trở lên bị
thất nghiệp, giảm 21,7 nghìn người so với quý 3. Nhóm trình độ cao đẳng có 78,8 nghìn
người thất nghiệp, giảm 6 nghìn người so với quý trước.

Về triển vọng của thị trường lao động năm 2018, môi trường kinh doanh được cải
thiện đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường lao động. Cùng với những nỗ lực
trong cải tạo môi trường - thể chế, thị trường lao động cũng có chuyển biến tích cực.
Quan hệ lao động dường như cũng ngày càng ổn định, tích cực hơn. Doanh nghiệp chú
trọng tới chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách phúc lợi xã hội. Điều này nhằm
tránh câu chuyện sau Tết người lao động không quay trở lại làm việc. Bởi thế, sau thời
gian nghỉ Tết Nguyên đán 2018, 95% lao động đã quay trở lại làm việc, cho thấy triển
vọng của thị trường lao động trong Quý 1 năm nay khá tốt đẹp.

2.1.6. Về nhu cầu tuyển dụng lao động

Trang 15



Quý 2/2017 có 254,4 nghìn chỗ làm việc được các DN đăng để tuyển dụng, giảm 16,2
nghìn người (7,2%) so với quý 1/2017. Nhu cầu tuyển dụng lao động nữ chiếm 56,4%
tổng số, giảm 0,8 điểm % so với quý 1/2017 (57,2%). Nhu cầu tuyển dụng của các công
ty “ngoài nhà nước” chiếm 82,4%, tăng 2,1 điểm % so với quý 1/2017.

Tóm lại: Việt Nam đang trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, từng
bước đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng cường sức cạnh tranh,
nên đòi hỏi chất lượng lao động phải cao với một cơ cấu hợp lý hơn. Hằng năm, mặc dù
với hơn một triệu lao động trẻ ra nhập thị trường lao động, nhưng công tác đào tạo vẫn
tồn tại nhiều yếu kém kéo dài, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực vẫn không được cải
thiện đáng kể, nhiều nghề xã hội có nhu cầu nhưng ít người học. Tỷ lệ thất nghiệp của lao
động qua đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục gia tăng.

Trang 16


2.2. Thực trạng về lao động ở nước ta
2.2.1. Phân bổ lực lượng lao động
Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị chiếm
24,6%, lao động ở khu vực nông thôn 75,5%. Phân bổ lao động hiện nay cho thấy sự
chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ trọng ngành nông nghiệp xấp xỉ 21,6% GDP nhưng lực
lượng lao động lớn, điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông thôn,
nông nghiệp thấp và càng tạo sức ép về giải quyết việc làm ở khu vực này.
Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chưa thu
hút lao động.
Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng của các

vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng hạn: 2 vùng
Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có thể phát triển và sản
xuất những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp, cây ăn quả…) nhưng
lao động ở 2 lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt lượng, về mặt chất lại còn là vấn đề
bức xúc hơn). Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp nhiều khó khăn trong
đó có khó khăn lớn thiếu nguồn nhân lực có trình độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
cơ sở lợi thế của vùng.
2.2.2. Chất lượng lao động
Nhìn vào số liệu về phân bổ lực lượng lao động giữa các khu vực cũng đã phần nào
nói lên chất lượng lao động ở nước ta. Phần lớn lao động ở khu vực nông thôn chưa qua
đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ văn hóa thấp. Vì trên thực tế hiện nay yêu
cầu lao động ở đây cũng chủ yếu là lao động phổ thông là chính, những ngành nghề đòi
hỏi trình độ cao ở khu vực này chưa phát triển.

Trang 17


Hiện nay lực lượng đã qua đào tạo (tính lao động được đào tạo từ 3 tháng trở lên)
trong cả nước chiếm 25%, lao động từ bậc tiểu học trở xuống chiếm 42,5%, lao động mù
chữ 5%. Trình độ đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng. Vì vậy, nhu cầu lao động
có chất lượng cao (tức lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong lao động công
nghiệp, có ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng. Mặt khác, từ yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước trong bối cảnh kinh tế thế giới thì vấn đề chất lượng lao động ở nước ta trở
thành một vấn đề bức xúc của nền kinh tế và là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lao
động thiếu việc làm hiện nay. Chúng ta vẫn thường nói: lao động ở nước ta còn dư thừa,
điều ấy là đúng nhưng chưa đủ, ta chỉ dư thừa lao động phổ thông (lao động không có tay
nghề) nhưng lại rất thiếu những lao động có trình độ chuyên nghiệp, tay nghề giỏi, thiếu
những lao động nghiên cứu khoa học để ứng dụng thành tựu đó là phát triển kinh tế - xã
hội cho đất nước.

2.3. Tác động của WTO đối với việc làm tại Việt Nam
Tác động của gia nhập WTO đối với việc tạo thêm việc làm thể hiện ở 3 khu vực: Thứ
nhất là khu vực đầu tư nước ngoài dưới tác động của các điều khoản về đầu tư; thứ hai là
các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là những ngành sử dụng
nhiều lao động, dưới tác động của các điều khoản về thương mại; thứ ba là tại các khu
vực tuy không – giao thương quốc tế trực tiếp nhưng do việc gia tăng giao thương quốc tế
có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hóa – dịch vụ mà có tác dụng tăng
nhu cầu lao động, tức là tạo thêm việc làm.
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, do hiện nay nước ta đã có Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam tạo điều kiện thông thoáng, môi trường đầu tư ngày càng được cải
thiện và nước ta đã ký được nhiều Hiệp định thương mại song phương, đặc biệt là với
Hoa Kỳ, nên đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tăng tương đối đều đặn trong những
năm qua.

Trang 18


Bởi vậy, dự báo sự thay đổi về đầu tư nước ngoài trước và sau khi Việt Nam gia nhập
WTO có thể không lớn nên việc làm mới được tạo ra trong khu vực này có thể tăng từ 2 –
8% nâng tổng số việc làm được tạo nên hàng năm lên khoảng 3 – 4%. Ngoài số việc làm
được tạo ra trực tiếp từ vốn FDI, phải kể đến cả số việc làm tăng lên gián tiếp từ đầu tư
nước ngoài, ví dụ như những cơ sở cung cấp, những nhà thầu phụ, những nhà cung cấp
dịch vụ….
Sự gia tăng việc làm mới có thể rõ hơn trong những ngành nghề làm hàng xuất khẩu;
trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như
ngành dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thủy sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các
loại cây nông nghiệp và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt điều cao su, cây ăn quả…
Ngoài hai khu vực nói trên, việc làm mới cũng sẽ được tạo ra ở những khu vực khác.
Việc gia tăng giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế sẽ làm thu nhập của người dân tăng,
giao lưu quốc tế tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước tăng.

Những yếu tố này sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng cả về lượng và về chất. Đây chính là
yêu tố kích cầu hàng hóa và dịch vụ tại thị trường trong nước.
Ngoài tác động tích cực, đối với tạo viẹc làm mới, việc gia nhập WTO cũng buộc các
doanh nghiẹp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang
thiết bị, nâng cao năng suất , sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn nhân lực, kể cả
nguồn lực lao động.
Việc gia nhập WTO cũng đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu
lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nèn kinh tế, việc gia nhập WTO sẽ giúp
Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đí hình thành một cơ cấu
kinh tế - xã hội có hiệu quả hơn, rút ngắn tiến trình hiện đại hóa.
Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân bố và sử
dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh té chuyển đôit và thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH.

Trang 19


2.4. Lao động trong thời kì Cách mạng công nghiệp 4.0
Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 lao động Việt Nam đang phải đối mặt với không ít
thách thức và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Theo dự báo chung, tình hình kinh tế năm 2018 tiếp tục thuận lợi, hứa hẹn sẽ có
những khởi sắc, dự báo tăng trưởng kinh tế từ 6,5-6,7%. Khả năng duy trì và tạo việc làm
sẽ tốt.
Trong năm tới, chỉ có các ngành như khai khoáng, lâm nghiệp có số việc làm giảm,
nhìn chung những ngành khác số việc làm tăng nhẹ.
Lao động hiện nay của chúng ta mới chỉ tập trung vào các phân khúc lao động phổ
thông, lao động bậc thấp và bậc trung. Do đó, ở từng nhóm ngành cụ thể vẫn thiếu hụt
lao động chất lượng cao, bản thân các doanh nghiệp cũng phải cạnh tranh gay gắt để thu
hút lao động. Đơn cử như những ngành liên quan đến công nghệ thông tin, công nghệ cao,
công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ tái tạo vẫn đang “khát’ nhân lực ở phân khúc

cao. Theo như dự báo, trong vòng 5 năm tới, nước ta sẽ thiếu hụt lượng lớn lao động về
CNTT, chuyên viên cấp cao khi nguồn nhân lực trong nước mới chỉ đáp ứng được từ 6070% nhu cầu của thị trường.
Trong 1 số lĩnh vực như tài chính ngân hàng, kiểm toán, nhà hàng khách sạn, chúng ta
cũng vẫn đang rất thiếu đội ngũ chuyên viên cấp cao, CEO, nhà quản lý, phải thuê lao
động nước ngoài. Một số ngành nghề hiện nay có nhu cầu lớn nhưng các trường trong
nước lại chưa thể đào tạo như tự động hóa về máy học, xử lý số lớn… Việt Nam cũng đã
đưa ra chính sách để thu hút nhà khoa học, chuyên gia cấp cao là Việt kiều về làm việc,
tuy nhiên số này chưa nhiều.
Hiện nay nhu cầu tuyển dụng vẫn rất lớn, song khả năng đáp ứng được những yêu cầu
đặt ra của doanh nghiệp vẫn còn rất khó khăn.
Xét về năng suất lao động hiện nay của ta trong khu vực Đông Nam Á vẫn còn khá
thấp. Chỉ ngang ngửa với Lào, Campuchia, nhưng vẫn kém xa Thái Lan…
Trang 20


Nếu nói lao động Việt Nam hiện nay đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường hay
chưa, thì quả thực số đông lao động đã đáp ứng được. Sở dĩ như vậy vì, đa số các doanh
nghiệp Việt Nam và nước ngoài hiện nay đang sử dụng các công nghệ chưa phải là cao.
Các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam cũng mới chỉ đưa công nghệ về lắp ráp, các
công đoạn sử dụng lao động trình độ thấp.
Nhưng chúng ta đang hy vọng lao động sẽ chuyển sang những phân khúc cao hơn, để
có mức lương tốt hơn nữa. Cái đó chúng ta vẫn rất khó khăn, hiện nay chỉ có khoảng hơn
23-25 % lao động có bằng cấp, còn lại hơn 75% là lao động chưa có bằng cấp chứng chỉ,
lao động có trình độ thấp.
Nhìn chung về mặt kỹ thuật, các lao động đã qua đào tạo của ta có thể đáp ứng được.
Song các kỹ năng mềm như làm việc theo nhóm, ngoại ngữ, tư duy phản biện, sáng tạo,
tuân thủ công nghệ… của lao động Việt Nam vẫn còn khá yếu. Lao động của ta nhiều khi
vẫn được đánh giá là nhanh, sáng tạo, nhưng lại không tuân thủ, hay phá vỡ những yêu
cầu, gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, có những kỹ năng quan trọng như về toán học, kỹ

thuật, công nghệ và nghiên cứu, nhưng những cái đó, các cơ sở giáo dục vẫn chưa thể cập
nhật, trang bị đầy đủ cho người học để sẵn sàng khi tham gia vào thị trường lao động.
Trước những thách thức không nhỏ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, mà một
biểu hiện dễ thấy là hiện tượng sa thải lao động trên 35 tuổi tại một số công ty, theo ông,
chúng ta cần làm những gì để tạo ra việc làm ổn định cho người lao động?
Ở đây cần nhìn một cách khách quan, các cơ sở sản xuất tập trung vào sản xuất, lợi
nhuận, họ trang bị máy móc, thiết bị để tối ưu hóa lợi nhuận.
Cũng có hiện tượng một số doanh nghiệp tìm cách thay thế lao động tương đối lớn tuổi
làm ở những công đoạn thấp như lắp ráp, may mặc… yêu cầu nhanh tay, nhanh mắt, sức
khỏe tốt. Để ứng phó với tình hình này, các cơ quan quản lý nhà nước phải có các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp. Chủ sử dụng lao động cũng cần có trách
nhiệm đảm bảo việc làm cho người lao động, hỗ trợ họ trong việc nâng cao tay nghề, đào
Trang 21


tạo lại. Hơn hết, bản thân người lao động cần phải chuẩn bị, có ý thức học tập để có thể
bắt kịp những thay đổi của thị trường.
Trong bối cảnh thị trường lao động đầy biến động như hiện nay, người lao động không
nhất thiết phải làm việc tại 1 chỗ cả đời, cái chính là làm sao để khi nghỉ việc chỗ này, có
thể làm tại chỗ khác. Muốn vậy, ta cần đẩy mạnh hoạt động và sự liên kết của các trung
tâm giới thiệu việc làm, thực hiện có hiệu quả công tác dự báo thị trường lao động để
người dân tiếp cận thông tin tuyển dụng dễ dàng.

III. Ưu điểm và nhược điểm trong công tác sử dụng lao động
của Việt Nam
3.1. Ưu điểm
-

Lao động trẻ là một ưu thế lớn
Nguồn lao động dồi dao tăng nhanh , trung bình mỗi năm có thêm 1 trlđ

Cần cù, thông minh, sáng tạo, có kinh nghiệm sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp
Chất lượng nguồn lao động ngày càng được tăng cao
Có khả năng tiếp thu KH-KT
Văn hóa thích ổn định khiến tỷ lệ chuyển việc ở Việt Nam thấp, chỉ từ 5%-7%
Có khả năng về toán học

3.2. Nhược điểm
-

Lực lượng lao động có trình độ còn ít trong tổng số lao động, thiếu lao động lành

-

nghề và lao động có trình độ cao
Phân bố lực lượng lao động chưa đều, nhất là lao động có trình độ
Mất cân đối về cơ cấu lao động
Thể lực lao động kém
Tác phong kỷ luật trong lao động thấp

Trang 22


IV. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động
- Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt
Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân
lực, hoặc tài nguyên con người. Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực
từ nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các
nguồn nhân lực cho đúng.
- Đào tạo nguồn nhân lực: Đây là bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng cho việc giải

quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào tạo, cơ cấu đào tạo
và gắn nó với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đào tạo phải hướng tới mục
tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp (lao động có kỹ
thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu đó là một quá trình lâu dài và có lộ trình thực
hiện cho từng giai đoạn nhất định, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn.

Trang 23


- Song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân
lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời đại
hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng
lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đây
cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được tiếp tục
phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
- Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người
dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội đã đề cập tới việc cụ thể
hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc
sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường
độ lao động cao.
- Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để đa dạng hóa mô
hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đảm
bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, phải phát triển
các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động có chất lượng để tăng thu nhập và
khuyến khích người lao động có ý thức nâng cao trình độ. Đây là một trong những yếu tố
tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối với lao động và việc làm.
- Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao động được xã hội
hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động trên thị trường theo quan
hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho người lao động, vừa tạo động lực

thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những năm tới hướng giải quyết khá tích cực
đối với lao động, việc làm ở nước ta mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động.
- Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực giữa nhà
nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết tháo gỡ các
khó khăn.

Trang 24


Trang 25


×