Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Hãy trình bày vai trò của Công nghiệp với phát triển kinh tế? Đánh giá vai thực trạng vai trò của Công nghiệp với phát triển kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.24 KB, 16 trang )

Đề tài: Hãy trình bày vai trò của Công nghiệp với phát triển kinh
tế? Đánh giá vai thực trạng vai trò của Công nghiệp với phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Để ngành Công nghiệp phát huy được vai trò
của mình trong việc tạo động lực phát triển kinh tế thì Việt Nam cần
quan tâm những vấn đề gì?


I.Vai trò của Công nghiệp với phát triển kinh tế?
1. Khái niệm
 Công nghiệp:
Theo Liên Hợp Quốc: Công nghiệp là một tập hợp các hoạt động sản xuất
với những đặc điểm nhất định thông qua các quá trình công nghệ để tạo ra sản
phẩm. Hoạt động công nghiệp bao gồm cả 3 loại hình:
- Công nghiệp khai thác tài nguyên.
- Công nghiệp chế biến.
- Các dịch vụ sản xuất theo sau nó.
 Phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế là sự gia tăng về mọi mặt của nền kinh tế, là quá trình biến
đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ, hoàn thiện của hai vấn đề kinh
tế và xã hội của mỗi quốc gia.

2. Đặc điểm và ảnh hưởng của công nghiệp
2.1 Đặc điểm:

a. Sản xuất công nghiệp bao gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Tác động vào đối tượng lao động nguyên liệu.
- Giai đoạn 2: Chế biến nguyên liệu tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng.
Cả hai giai đoạn đều sử dụng máy móc.
b. Sản xuất công nghiệp có tính chất tập trung cao độ:
Đòi hỏi nhiều kĩ thuật và lao động trên một diện tích nhất định để tạo ra khối
lượng sản phẩm.


c. Sản xuất công nghiệp bao gồm nhiều ngành phức tạp, được phân công tỉ mỉ và có
sự phối hợp giữa nhiều ngành để tạo ra sản phẩm cuối cùng.
- Công nghiệp nặng (nhóm A) sản phẩm phục vụ cho sản xuất
- Công nghiệp nhẹ (nhóm B) sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và đời sống
của con người.
* Điểm khác nhau giữa nông nghiệp và công nghiệp:
Nông nghiệp

Công nghiệp


- Đối tượng - Cây trồng, vật nuôi
- Khoáng sản, tư liệu sản
lao động
- Phân tán theo khôngxuất.
- Đặc điểm gian; chịu ảnh hưởng sâu- Tập trung cao độ; ít chịu
sắc của điều kiện tựảnh hưởng của điều kiện
sản xuất
nhiên; các giai đoạn phảitự nhiên; các giai đoạn có
theo trình tự bắt buộc.
thể tiến hành đồng thời, có
thể tách xa nhau về mặt
không gian.

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố công nghiệp.
a.
Vị
trí
địa
lí:

Tự nhiên, kinh tế, chính trị: gần biển,sông, đầu mối giao thông vận tải, đô thị,... lựa
chọn các nhà máy, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ cấu ngành công nghiệp.
b.
Nhân
tố
tự
nhiên:
Đây là nhân tố quan trọng, tạo điều kiện hay trở ngại.
- Khoáng sản: Trữ lượng, chất lượng, chủng loại, phân bố chi phối quy mô, cơ cấu,
tổ chức các xí nghiệp công nghiệp:các nhà máy xi măng tập trung nơi có nguồn đá
vôi
phong
phú
(Bỉm
Sơn-Thanh
Hóa).
- Khí hậu, nước: Phân bố, phát triển công nghiệp: luyện kim màu, dệt, nhuộm, thực
phẩm,...
- Đất, rừng, biển: Xây dựng xí nghiệp công nghiệp.
c
.
Nhân
tố
kinh
tế

hội:
- Dân cư, lao động: ngành cần nhiều lao động (dệt may) phân bố ở khu vực đông
dân, các ngành kĩ thuật cao (điện tử) nơi có đội ngũ lành nghề.
- Tiến bộ khoa học kĩ thuật: thay đổi quy luật phân bố xí nghiệp, việc khai thác và

sử
dụng
tài
nguyên.
- Thị trường (trong nước và ngoài nước): Lựa chọn vị trí các xí nghiệp, hướng
chuyên
môn
hóa.
- Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật: Đường giao thông, thông tin, điện nước.
- Đường lối, chính sách: ảnh hưởng quá trình công nghiệp hóa phân bố công nghiệp
hợp lí, thúc đẩy công nghiệp phát triển.

3. Vai trò của Công nghiệp đối với phát triển kinh tế:
Công nghiệp được thừa nhận là ngành chủ đạo của nền kinh tế; có vị trí, vai trò
to lớn đối với sự phát triển kinh tế, thể hiện qua:


2.1 Công nghiệp tăng trưởng nhanh và làm gia tăng nhanh thu nhập quốc gia
- Công nghiệp là ngành có năng suất lao động cao, cao hơn hẳn các ngành
kinh tế khác.
- Công nghiệp là ngành có giá trị gia tăng lớn, năng suất lao động là yếu tố
quyết định nâng cao thu nhập, thúc đẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp và đóng góp
ngày càng lớn vào thu nhập quốc gia. Công nghiệp có vai trò quan trọng này là do
thường xuyên đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hơn nữa, giá cả sản phẩm
công nghiệp thường ổn định và cao hơn so với các sản phẩm khác ở cả thị trường
trong và ngoài nước.
- Công nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội mà không ngành
nào có thể thay thế được (máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất, công cụ, đồ dùng sinh
hoạt…)
- Công nghiệp là ngành chiếm tỉ trọng cao trong GDP

2.2 Công nghiệp cung cấp tư liệu sản xuất và trang bị kĩ thuật cho các ngành
kinh tế:
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm công nghiệp, một bộ phận sản phẩm
công nghiệp sản xuất có chức năng là tư liệu sản xuất. Do đó, nó còn là ngành tạo ra
tác động hiệu quả dây chuyền đến các ngành kinh tế khác và tạo ra cơ sở vật chất kĩ
thuật của nền kinh tế.
2.3 Công nghiệp cung cấp đại bộ phận hàng tiêu dùng cho dân cư:
Nông nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đáp ứng nhu cầu
cơ bản của con người. Công nghiệp khác hơn, cung cấp những sản phẩm tiêu dùng
ngày càng phong phú và đa dạng (ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi, giải trí...). khi thu
nhập dân cư tăng gắn với quá trình phát triển kinh tế thì nhu cầu con người lại cao
hơn và mới hơn. Chính sự phát triển của công nghiệp mới đáp ứng những nhu cầu
thay đổi này và đồng thời nó lại hướng dẫn tiêu dùng của con người.
2.4 Công nghiệp góp phần đắc lực vào việc thay đổi phương pháp tổ chức,
phương pháp quản lý sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội:
- Phương pháp tổ chức sản xuất theo chiều dọc và theo chiều ngang:
+ Theo chiều dọc: tạo dựng các mối liên hệ từ nơi khai thác hoặc nơi sản xuất
nguyên liệu đến nơi chế biến và phân phối sản phẩm
+ Theo chiều ngang: tạo mối liên hệ trong một xí nghiệp chuyên môn hóa mở
mang sang nhiều xí nghiệp có liên hệ về sản phẩm và thị trường, mở rộng
không gian sản xuất và dịch vụ


- Phương pháp sản xuất dây chuyền và sản xuất hàng loạt nâng cao chất lượng
và hạ giá thành sản xuất
- Rèn luyện tác phong công nghiệp (từ nề nếp sản xuất đến lề lối làm việc, từ
cách suy nghĩ đến tác phong của người lao động). Do đó Công nghiệp góp phần cải
tạo xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội
2.5 Công nghiệp cung cấp nhiều việc làm cho xã hội:
Dưới tác động của công nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp được nâng

cao tạo điều kiện dịch chuyển lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, nhưng không
ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp làm mở rộng
nhiều ngành sản xuất mới, khu công nghiệp mới và cả các ngành dịch vụ đầu vào và
đầu ra sản phẩm công nghiệp, và như vậy thu hút lao động nông nghiệp và giải
quyết việc làm cho xã hội.
2.6 Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Đối với nông nghiệp: Công nghiệp có vai trò to lớn để thực hiện công
nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn:
+ Công nghiệp vừa tạo ra thị trường, vừa tạo ra những điều kiện cần thiết
cho nông nghiệp phát triển
+ Công nghiệp chế biến làm tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường
+ Công nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp, nâng cao
năng suất lao động
+ Phát triển công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho 1 bộ phận lao
động trong nông nghiệp
Vì công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp những yếu tố đầu vào quan trọng
như phân bón hóa học, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu bệnh, máy móc, phương tiện
vận chuyển làm tăng năng suất. Hơn nữa, công nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị
sản phẩm nông nghiệp, bằng cách cho phép vận chuyển nông sản nhanh chóng tới
thị trường tránh hư hỏng, tăng gia sản xuất nhiều hơn; bảo quản, dự trữ lâu hơn để
chờ cơ hội tăng giá... Mặt khác, công nghiệp còn có vai trò rất lớn trong việc tạo ra
cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
- Đối với dịch vụ: công nghiệp tác động đến các ngành như giao thông vận
tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, đầu tư tài chính… Công nghiệp là tác
nhân quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế - xã hội.


2.7 Công nghiệp tạo điều kiện khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên, làm thay

đổi sự phân công lao động, làm giảm mức độ chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các vùng:
- Công nghiệp phát triển góp phần khai thác triệt để tài nguyên: dưới lòng
đất, trên mặt đất và dưới đại dương
- Công nghiệp làm cho không gian kinh tế biến đổi sâu sắc, tạo dựng các
trung tâm kinh tế mới, chuyển hóa chức năng của nhiều đô thị
- Làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông
thôn, thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn
2.8 Công nghiệp có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm mới mà không ngành sản
xuất vật chất nào sánh được, góp phần vào việc mở rộng sản xuất, thị trường lao
động và giải quyết việc làm:
- Danh mục sản phẩm mà ngành công nghiệp tạo ra ngày càng nhiều
- Góp phần giải quyết việc làm (cả trực tiếp và gián tiếp)
2.9 Công nghiệp đóng góp vào tích lũy của nền kinh tế và nâng cao đời sống
nhân dân:
- Tích lũy cho nền kinh tế bao gồm nguồn tài chính, nhân lực và trình độ
khoa học công nghệ
+ Tăng nguồn ngân sách cho nhà nước, tăng tích lũy cho các doanh nghiệp
và nâng cao đời sống nhân dân
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động
+ Thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển
- Sự phát triển công nghiệp là thước đo trình độ phát triển, biểu thị sự vững
mạnh của nền kinh tế, phát triển công nghiệp là điều kiện quyết định để thực hiện
thắng
lợi
sự
nghiệp
công
nghiệp
hóa,

hiện
đại
hóa.

II. Đánh giá vai thực trạng vai trò của Công nghiệp với phát
triển kinh tế ở Việt Nam.
1. Thực trạng:
Nhìn một cách tổng quát, trong những năm đổi mới vừa qua, đi đôi với tăng
trưởng và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Xu
hướng của quá trình này là công nghiệp tăng nhanh và nền kinh tế được hiện đại


hóa. Nếu năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cả nước là 8,15% thì năm
2007 ước đạt 8,44%, trong đó, ứng với thời gian trên, khu vực nông - lâm - thủy sản
là 4,3% và 3,0%, khu vực công nghiệp - xây dựng là 12,6% và 10,4%; khu vực dịch
vụ là 7,14% và 8,5%.
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự
phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành
trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả
năng xuất khẩu. Từng bước phát triển các ngành khai thác các nguồn lực của nền
kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu và một số hàng công nghiệp nặng cần thiết. Các sản phẩm công nghiệp quan
trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than… Sự phát triển
này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng GDP tính theo giá
thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm 1996 lên 41,0%
năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7% (năm 2007 khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng lên
khoảng 37,6%).
Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở thành
động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công

nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt
tốc độ tăng trưởng cao.
-

Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm

trong giai đoạn 1997-2007.
+ Về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2007
ước tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,3%;
khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%.
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp chế biến từ 83,9% năm 2006 lên khoảng 84,4% năm 2007. Đối
với nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, nhất là chế biến thực phẩm và đồ
uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế biến với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và
khoảng 21,3% năm 2007. Lợi thế so sánh trong các ngành chế biến, chế tạo sử dụng
nhiều lao động đã được khai thác với ưu thế của ngành công nghiệp chế biến xuất
khẩu so với các sản phẩm xuất khẩu thô. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những
thay đổi cơ bản, theo hướng vừa không ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản
phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp
không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế như điện, than, phân


bón, sắt thép… mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao (76,3%) như:
mặt hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ…
Đặc biệt, các sản phẩm cơ khí xuất khẩu cũng là lần đầu tiên được bổ sung
vào danh sách 10 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD (năm
2007 sảnphẩm cơ khí tăng trưởng trên 120% so với năm 2006, đem lại kim ngạch
xuất khẩu trên 2,2 tỷ USD). Đứng đầu danh sách nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 1 tỷ USD phải kể đến là dầu thô (trên 8,4 tỷ USD); tiếp theo là dệt
may (7,7 tỷ USD); giày dép (3,9 tỷ USD)...

Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một
số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một số
lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô, xe
máy, đồ điện tử, đường, xi măng… đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần thiết
cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã
chiếm lĩnh thị trường trong nước. Mặt khác, khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) trong
nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI
tăng nhanh, tập trung vào nhóm ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực. Khu vực này đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, xây
dựng mô hình tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác tiềm năng và
huy động các nguồn lực tốt hơn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây được
coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH…
Ba nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trong khu vực công nghiệp
trong thời gian qua là do:
Một là, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống luật
pháp và chính sách thương mại, thông qua mối quan hệ giữa các chính sách thuế và
các chính sách khác như trợ cấp, đầu tư…và trên thực tế đã cải thiện rõ môi trường
kinh doanh, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh;
Hai là, nhiều doanh nghiệp đã và đang tận dụng mọi cơ hội để vươn lên
trong môi trường cạnh tranh, giành lấy và mở rộng thị phần trên thị trường.
Ba là, ở giai đoạn trước mắt đã định hướng đúng việc tập trung vào nhóm
các sản phẩm có lợi thế so sánh trong xuất khẩu và khả năng cạnh tranh cao, có
nguồn gốc từ nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm như hàng may mặc,
giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô, than đá…


Bên cạnh những ngành được hưởng lợi, với tư cách là thành viên của WTO,
thì những ngành bị ảnh hưởng tiêu cực là những ngành bị cắt giảm thuế quan nhiều

nhất, như mía đường, ô tô, giấy…; hoặc một số ngành phải chịu sự cạnh tranh gay
gắt nhất từ phía hàng nhập khẩu, như thép, giấy, hóa chất, phân bón…
Nhất là mặt hàng dệt may.
Hai là, cơ cấu sản xuất công nghiệp dịch chuyển chậm, công nghiệp phụ trợ
kém phát triển dẫn đến tình trạng các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào thị
trường thế giới
Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta còn thiếu; trình độ kỹ thuật
công nghệ lạc hậu đã trở thành rào cản lớn nhất đối với khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế, nhất là trong khu vực công nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chưa được cải thiện nhiều, dẫn đến
hiệu quả thấp, tăng trưởng kinh tế phát triển thiếu bền vững, nhiều vấn đề xã hội,
môi trường chưa được giải quyết hiệu quả. Vì vậy, cần phải có những cải cách đột
phá, tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của
cơ chế “một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước cương quyết và hiệu quả.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh
bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Thứ hai, sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng
giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các DN,
các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi
thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển logistics xanh, nhằm tận dụng
hiệu quả các cơ hội mang lại từ hội nhập.
Thứ ba, nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống logistics của Việt Nam, bao
gồm: Cơ sở hạ tầng logistics, thể chế pháp luật về phát triển dịch vụ logistics, phát
triển các DN cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics… nhằm đẩy nhanh quá trình đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa.
Thứ tư, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam
sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản
phẩm kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho

xuất khẩu của Việt Nam.


Thứ năm, cùng với việc đổi mới thế chế, hoàn thiện hệ thống chính sách
nhằm phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần có các biện pháp để chuyển
dần từ gia công sang sản xuất, xuất khẩu, giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất
xuất khẩu sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm
lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.
Trong 10 năm qua, công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật. Giá
trị sản xuất công nghiệp Việt Nam sau 10 năm qua tăng cao gần 3,5 lần, từ 0,34
triệu tỷ đồng lên 1,17 triệu tỷ đồng với tỉ trọng đóng góp vào GDP duy trì ổn định
khoảng 31 - 32%, và trở thành ngành đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước.
Công nghiệp luôn là ngành xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam với tỷ trọng ở mức xấp
xỉ 90% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước qua các năm. Cơ cấu xuất khẩu của các
ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực với tỷ trọng các ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo từ mức 46,7% năm 2000 lên 97,3% vào năm 2015, trong
khi nhóm ngành khoáng sản giảm liên tục, từ 22% năm 2007 xuống còn 7,7% vào
năm 2010 và 2,7% năm 2015. Trong những năm gần đây, các ngành như: điện tử,
dệt may và da giày đã trở thành 3 ngành xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế với tỷ
trọng chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Mặc dù vậy, trong những năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của ngành công
nghiệp đang có xu hướng chậm lại, từ trung bình 14,3%/năm của giai đoạn 2006 2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và giảm hầu hết trong các
nhóm ngành công nghiệp; tốc độ tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp
giai đoạn 2006 - 2015 khoảng 2,4%/năm, chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung
của nền kinh tế là 3,9%.
Năng suất lao động công nghiệp Việt Nam bị bỏ xa so với các nước phát
triển và các nước trong khu vực. Năng suất lao động của Nhật Bản cao gấp 39 lần
của Việt Nam, Singapore cao gấp 26 lần, Hàn Quốc cao gấp 16 lần và Trung Quốc
cao gấp 2 lần. So với các nước đang phát triển trong khu vực thì Malaysia cao gấp
6,5 lần, Thái Lan và Phi-lip-pin cao gấp 1,5 lần. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng

trong công nghiệp đạt thấp, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP
giảm từ 32% năm 2010 xuống còn khoảng 28% năm 2015.
Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 101 trong tổng số 143 nước về chỉ số giá trị gia
tăng trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo theo bình quân đầu người. Đây là
những vấn đề đáng lo ngại khi mà Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hóa.
Tăng trưởng công nghiệp của Việt Nam chậm và chưa thực sự bền vững:


Một là, tăng trưởng công nghiệp phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài
nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ,
lao động có kỹ năng. Đóng góp của công nghệ đối với năng suất nhân tố tổng hợp
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt thấp, chỉ xấp xỉ 10%, của toàn nền kinh tế
là 29%, thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực ở cùng giai đoạn như:
Ấn Độ (49%), Thái Lan và Philippine (70%), Malaysia (64%), Indonessia (37%)
hay Trung Quốc (39%).
Hai là, một số ngành công nghiệp chủ đạo chưa được tổ chức theo mô hình
chuỗi giá trị, đặc biệt là các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu. Việt Nam chỉ
tham gia được ở các công đoạn có giá trị gia tăng thấp như gia công, lắp ráp, không
chủ động được nguồn cung cho sản xuất, đặc biệt là đối với các ngành phải nhập
khẩu nguyên phụ liệu như dệt may, da giày, điện tử, hóa chất...Đây là các khâu được
đánh giá là tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất, trong khâu này tỷ suất lợi nhuận chỉ
khoảng 5 - 10%. Chính vì vậy, công nghiệp Việt Nam đạt thành tích lớn về quy mô
xuất khẩu, nhưng thực chất giá trị gia tăng thu về chưa tương xứng.
Ba là, công nghiệp là ngành liên tục nhập siêu cho thấy ngành công nghiệp
Việt Nam còn phụ thuộc vào nhập khẩu, thiếu chủ động và dễ tổn thương trước các
biến động của thị trường thế giới, đặc biệt là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất. Năm 2015, tỷ lệ nội địa hóa của ngành Điện tử gia dụng là 30-35%; Điện tử
tin học, viễn thông: 15%; Điện tử chuyên dụng: 5%; Ô tô - xe máy: 40%; Công
nghiệp công nghệ cao: 5%; Dệt may: 40%; da giày :40 - 45%.

Bốn là, một số ngành công nghiệp trọng điểm do các doanh nghiệp nhà nước
nắm vai trò chủ đạo có hiệu quả hoạt động còn chưa cao, trong khi quá trình tái cơ
cấu các DNNN diễn ra còn chậm và chưa thực chất dẫn đến vai trò kinh doanh trực
tiếp của Nhà nước vẫn còn lớn so với thông lệ quốc tế trong nhiều ngành, lĩnh vực
đã tạo ra môi trường cạnh tranh chưa bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp.
Năm là, đầu tư trong công nghiệp chưa đi vào chiều sâu, việc thu hút và tận
dụng nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ; các doanh nghiệp công nghiệp nội địa quy
mô nhỏ, năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp; phân bố không gian của các
ngành công nghiệp chưa hiệu quả, vấn đề ô nhiễm môi trường…
2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển khu vực công nghiệp ở
nước ta:
Nước ta đang từng bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình


công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ở đây chỉ xin đề cập đến một số giải pháp
sau:
-

Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban

hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Cần nhấn mạnh rằng vấn
đề mấu chốt trong thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong khuôn khổ của WTO
chính là năng lực cạnh tranh của hệ thống chính sách thương mại, của doanh nghiệp
và của hàng hoá.
Do vậy, đầu tiên cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các văn bản pháp luật, các
chính sách liên quan đến thương mại, tài chính, khoa học công nghệ và chính sách
đào tạo nguồn nhân lực... một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế để các
thành phần kinh tế có thể tham gia vào phát triển khu vực công nghiệp. Kiện toàn

và tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp
theo hướng, vừa hoàn thiện và tăng cường chính sách quản lý nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển, vừa tăng cường biện pháp kiểm tra, kiểm soát để đảm
bảo phát triển đúng hướng. Sớm hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả
nước trên cơ sở đa dạng hóa về quy mô và chế độ sở hữu. Hoàn chỉnh quy hoạch
phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp trên phạm vi cả nước, hình thành các
vùng công nghiệp trọng điểm. Ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác,
theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên phạm vi cả nước - đây được coi là một trong
những khâu đột phá trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
- Thứ hai, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp một
cách hợp lý trên cơ sở huy động tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế. Trong
bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, việc phát huy lợi thế của các ngành sử dụng
nhiều lao động ở nước ta là hết sức cần thiết, với đặc điểm kinh tế - kỹ thuật đặc
thù, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động luôn duy trì được chỉ số ICOR
tương đối lâu dài. Mặt khác, công nghệ vận hành không quá phức tạp, sử dụng được
lao động không đòi hỏi trình độ lành nghề cao và có thể đi ngay vào sản xuất trong
thời gian ngắn dưới hình thức chuyển giao công nghệ, gia công xuất khẩu. Theo đó,
cần thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với khu vực doanh nghiệp
nhà nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì đầu tư cho thay thế nhập
khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần ưu tiên lựa chọn các dự 5 án
có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế. Chuyển hướng đầu tư tập trung cho
các ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ
thuật cao. Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi


nhọn, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế cạnh
tranh, nhóm ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên cơ sở
lợi thế so sánh động, cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn, trung và dài
hạn đối với các ngành công nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các ngành công nghiệp

khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên có chọn lọc phù hợp với điều kiện về
vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá trình tích lũy vốn nhanh hơn, tạo ra cơ sở
ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên liệu cơ bản của toàn bộ sự phát
triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bao gồm các
ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, dầu khô, khí đốt, than, luyện thép, vật
liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ như
các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp... có ý nghĩa
chiến lược xét về trung và dài hạn. Hiện đại hóa một số ngành cơ khí có đủ khả
năng cung cấp công cụ và thiết bị cho một số ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công
nghiệp chế biến. Chú trọng đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cần thiết cho
một số ngành dựa vào công nghệ - kỹ thuật cao của nền kinh tế công nghiệp hiện
đại như: công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa và xây dựng cơ sở
tiền đề cho việc chuyển một bước sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Tập trung phát
triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ
và tỷ trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cần nhận thức
rằng mục tiêu đặt ra cho công nghiệp nước ta là phải thay đổi căn bản tỷ lệ của 3
nhóm sản phẩm công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm: một, chế tạo, hai, gia côngchế biến và ba, nguyên liệu... Thay đổi tỷ lệ này là thay đổi đáng kể đến cơ cấu kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu và có tác động rất lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất
công nghiệp trong nước, cũng như cơ cấu nội bộ mỗi phân ngành công nghiệp.
Theo đó, trước mắt tập trung nguồn lực vào phát triển nhóm ngành đang có lợi thế
cạnh tranh và có thị trường, gồm các ngành điện, than, dầu khí, hàng may mặc, giày
dép, chế biến khoáng sản... và các ngành có thể nâng cao nhanh chóng kim ngạch
xuất khẩu trong thời gian ngắn, có khả năng chiếm lĩnh được thị trường về hàng tiêu
dùng thiết yếu. Đây là những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài
nguyên thiên nhiên sẵn có, nhưng cũng cần lưu ý là những lợi thế này cũng đang có
xu hướng giảm nhanh. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và tạo ra những đột phá
mới trong xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo hàng có hàm lượng khoa
học công nghệ, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, giá trị gia tăng xuất khẩu
cao. Chuyển xu hướng gia tăng mạnh xuất khẩu sản phẩm “thô” trong thời gian qua

sang xu hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến trong kim ngạch


xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu trên cơ sở định hướng công nghiệp kỹ thuật cao. Hạn
chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và 6 các mặt hàng chưa
qua chế biến, thông qua việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng
tăng giá trị hàng hóa là biện pháp vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính lâu dài. Thứ
tư, tăng cường phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh nội địa hoá các sản phẩm
đáp ứng yêu cầu về phụ tùng, thiết bị tại chỗ cho doanh nghiệp. Bài học kinh
nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy công nghiệp hỗ trợ giữ vai trò
quan trọng trong phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc các
ngành trọng điểm của nền kinh tế không chỉ giúp các doanh nghiệp chủ động trong
sản xuất, giảm giá thành sản phẩm; mà còn giúp các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực này đẩy mạnh hợp tác, góp phần thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hóa
các sản phẩm. Vì vậy, cần xem xét giải quyết những khó khăn vướng mắc trong xây
dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta hiện nay. Đồng thời, để
nâng cao khả năng cung ứng nguyên, phụ liệu một cách kịp thời và hiệu quả hơn,
cần xây dựng ngay một số cơ sở đầu mối (có thể đặt tập trung tại các khu công
nghiệp...) đóng vai trò trung tâm tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên, phụ liệu
trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm
nhựa cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. Từng bước xây
dựng và tiến tới chuyên nghiệp hóa các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp như
thiết kế tạo mẫu, họat động quản trị sản xuất, marketing... để cung ứng đầu vào và
phát triển đầu ra.

III. Để ngành Công nghiệp phát huy được vai trò của mình
trong việc tạo động lực phát triển kinh tế thì Việt Nam cần quan
tâm những vấn đề gì?
1. Tập trung đầu tư và thu hút đầu tư:
- Đẩy mạnh việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các dự án đầu tư

FDI.
- Đẩy mạnh việc thu hút các dự án công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao giá
trị gia tăng các ngành công nghiệp.
- Cải thiện môi trường đầu tư, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, minh bạch hóa các cơ chế , chính sách để tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư.
- Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng đất đai để thu hút đầu tư phát triển sản xuất,
lựa chọn các nhà đầu tư có tiềm lực mạnh về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng bên


trong khu, cụm công nghiệp để đẩy mạnh tiến độ dự án tạo thuận lợi về mặt bằng
sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô.
2. Tập trung phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ:
Để góp phần kéo giảm tình trạng nhập siêu, yêu cầu bức thiết là phát triển
nhanh công nghiệp hỗ trợ, đây là tiền đề để bảo đảm phát triển công nghiệp bền
vững.
Thực hiện chính sách ưu đãi đặc thù đối với các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng
các khu công nghiệp hỗ trợ.
3. Thị trường tiêu thụ:
- Thực hiện có hiệu quả Chương trình xúc tiến thương mại, khuyến khích các doanh
nghiệp thâm nhập thị trường mới, xuất khẩu các mặt hàng mới, mặt hàng có giá trị
gia tăng cao.
- Thúc đầy chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu
những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghệ
cao.
- Khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng mối liên hệ chặt chẽ
trong việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguyên vật liệu.
- Đàm phán kí kết các hiệp định song phương và đa phương với các quốc gia để sản
phẩm Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường thế giới.

4. Nâng cao khả năng cạnh tranh:
- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh, từng bước giảm tỉ
trọng các ngành gia công, sơ chế và khai thác tài nguyên.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, áp dụng công nghệ hiện đại
tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
- Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như kho bãi, cầu cảng, dịch vụ
vận chuyển, hậu cần, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm bớt chi phí.
5. Chất lượng nguồn nhân lực:
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới phương thức giáo dục và đào tạo, chú trọng đào
tạo kỹ năng, văn hóa và tác phong công nghiệp.


- Gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa họccông nghệ.
6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
- Không đầu tư dàn trải vào tất cả các ngành, các lĩnh vực.
- Tập trung tối đa vào một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu nhằm thúc đẩy
tăng trưởng, xây dựng thương hiệu mạnh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường.



×