Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH bảo HIỂM PHI NHÂN THỌ TAI CÔNG TY bảo HIỂM QUÂN đội bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.61 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ HỮU NGHỊ
--------o0o--------

NGUYỄN THỊ MINH HỒNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM QUÂN ĐỘI
(MIC) BẮC NINH
Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 171102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Xuân Sơn

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi tại Công ty bảo hiểm quân đội (MIC) Bắc Ninh. Các số liệu trong luận
văn là hoàn toàn trung thực, trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng. Các đánh giá, kết quả,
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu khoa học nào trước đó.
Hà Nội, ngày…. tháng …. năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Hồng



LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp, đến nay tôi
đã hoàn thành luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Kinh tế với đề tài “Nâng cao
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo hiểm quân đội (MIC)
Bắc Ninh".
Trước tiên, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS. Nguyễn
Xuân Sơn - Người đã định hướng, tận tụy hết lòng hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo của trường Đại học Công
nghệ và Quản lý Hữu Nghị đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới chi nhánh bảo hiểm quân đội (MIC) tại tỉnh Bắc
Ninh, đồng thời cảm ơn các cá nhân, tập thể trong thành phố Bắc Ninh đã tạo điều
kiện giúp đỡ, cung cấp thông tin và số liệu giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp, gia đình, người thân đã cổ vũ, động viên
và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình tham gia học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn của mình.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Hồng


MỤC LỤC


5

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội nào trên con đường phát triển của mình cũng luôn hướng tới sự phồn
thịnh, ấm no về vật chất cùng với sự đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội. Để thực
hiện được mục tiêu đó, phải tiến hành nhiều hoạt động kinh tế- xã hội. Mỗi hoạt
động có những đặc thù và chức năng riêng của mình. Nhưng có một hoạt động
không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế mà ý nghĩa xã hội của nó cũng không thể phủ
nhận. Đó là Bảo hiểm - một hoạt động dịch vụ tài chính dựa trên nguyên tắc số
đông bù số ít. Hàng năm nó mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước,
lợi nhuận cho người kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần ổn định đời sống,
sản xuất cho người tham gia. Nhờ có bảo hiểm, những thiệt hại do thiên tai, tai nạn
bất ngờ xảy ra với một người sẽ được bù đắp, san sẻ từ những khoản đóng góp của
nhiều người. Do đó, nó là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ
yên tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất, kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp,
là mục tiêu cao nhất mà mọi doanh nghiệp phải hướng tới. Hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp… để đạt được kết quả cao nhất trong
quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm
kinh doanh cùng lĩnh vực, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng như các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài có kinh nghiệm và uy tín hàng đầu trên thế giới như:
Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVI), Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện(PTI), Công
ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), Tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo
Minh), Công ty TNHH bảo hiểm Liberty, Công ty Liên doanh TNHH bảo hiểm
Samsung-Vina, Công ty TNHH bảo hiểm phi nhân thọ Cathay Việt Nam… Trong
bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần phải quan tâm tới việc tìm ra


6


các giải pháp hợp lý để khai thác tối đa các nguồn lực có hạn của mình nhằm mục
tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh, bởi lẽ: Hiệu quả kinh doanh là tiêu thức tổng
hợp phản ánh kết quả cuối cùng của quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
doanh nghiệp.
Công ty Bảo hiểm quân đội MIC đã triển khai hàng loạt các biện pháp để
nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, đặc biệt là những cải thiện
trong công tác quản lý hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, hiệu quả kinh
doanh của Công ty đã có những thay đổi theo hướng tích cực, cụ thể: hiệu quả kinh
doanh của Công ty luôn đạt kế hoạch tăng trưởng do Tổng công ty giao cho là tăng
trưởng trên 10% năm sau so với năm trước. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh đạt
được còn rất thấp và mức tăng trưởng thiếu ổn định.
Việc phân tích, đánh giá hiện trạng để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ luôn là yêu cầu cấp thiết trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ được công bố, đáng chú ý là một số công trình sau đây:
Công trình của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung (2012), Quá trình phát triển thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2012 - Thực trạng và
giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Lao động –Xã hội. Đề tài nghiên cứu
về khía cạnh lịch sử kinh tế và tập trung nghiên cứu những doanh nghiệp bảo hiểm
lớn trong điều kiện thực tế của Việt Nam giai đoạn 1995-2012.
Công trình của tác giả Nguyễn Hồng Trang (2012), Hoạch định chiến lược
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Công ty Bảo Việt Dăk Lăk, Luận văn thạc sỹ
Kinh tế, Trường Đại học Đà Nẵng. Đề tài hoạch định chiến lược phát triển, chỉ ra
năng lực cốt lõi quyết định lợi thế cạnh tranh nhằm đưa ra giải pháp để doanh
nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn lực, xác định đúng hướng đi.
Tác giả Lê Hồng Hải (2011) có công trình: “Kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tham luận Hội thảo khoa
học. Đề tài phân tích những tác động tích cực và tác động tiêu cực của hội nhập



7

kinh tế quốc tế tới kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của các công ty bảo hiểm Việt
Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề kinh doanh
bảo hiểm nói chung, bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng ở một số khía cạnh khác nhau.
Tuy nhiên, tại Công ty bảo hiểm quân đội MIC chưa có một công trình nào đề cập
đến việc hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ một cách có hệ thống, từ
khuôn khổ lý thuyết, bài học thực tiễn, cũng như phân tích, đánh giá toàn diện hiệu
quả hoạt động bảo hiểm phi thọ tại tỉnh Bắc Ninh.
Vậy, Công ty Bảo hiểm quân đội MIC đã làm gì để thực hiện mục tiêu hiệu
quả cao trong kinh doanh? Thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Bảo hiểm
quân đội MIC Bắc Ninh là như thế nào? Nguyên nhân của tình hình là gì? Cần có
những giải pháp gì, đặc biệt là những giải pháp tăng cường quản lý kinh tế để nâng
cao hiệu quả kinh doanh của Công ty bảo hiểm quân đội MIC Bắc ninh?
Trên ý nghĩa ấy, tác giả lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo hiểm quân đội (MIC) Bắc Ninh" làm đề tài
nghiên cứu luận văn của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hiệu quả kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ, luận văn phân tích, tình hình thực tế về hiệu quả hoạt
động kinh doanh của Công ty bảo hiểm quân đội MIC Bắc Ninh, đánh giá những
thành công, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm
phi nhân thọ. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của MIC Bắc Ninh.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và một số kinh nghiệm thực tiễn về
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
tại MIC Bắc Ninh.


8

- Phân tích, đánh giá những nhân tố ảnh hưởng mới tới kinh doanh bảo hiểm
phi nhân thọ và định hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại
MIC Bắc Ninh.
- Đưa ra những giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ của MIC Bắc Ninh.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ theo cách
tiếp cận của khoa học quản lý kinh tế. Vấn đề nghiên cứu gắn liền với những cơ
chế, chính sách và hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát kinh doanh phi nhân
thọ của MIC Bắc Ninh, cũng như của nhà nước và các ban, ngành liên quan.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi không gian: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ của MIC tại tỉnh Bắc Ninh.
* Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu trong thời gian từ 2013-2017, tầm
nhìn đến năm 2022.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi

nhân thọ.
- Khảo sát và phân tích hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của MIC
tại tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ của MIC tại tỉnh Bắc Ninh.

5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
kinh tế như: phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử, phương pháp
thống kê kinh tế, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh… Đặc


9

biệt tác giả luận văn có sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế trong nghiên
cứu một số nội dung của đề tài.
Phương pháp logic - lịch sử
Phương pháp lôgic được sử dụng để trình bày những nguyên lý cơ bản về
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Phương pháp lịch sử được sử dụng để
nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Sử
dụng kết hợp phương pháp logic và phương pháp lịch sử được thể hiện tập trung
nhất trong cấu trúc toàn bộ luận văn.
Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê được sử dụng phổ biến trong chương 2 theo bảng số
liệu thống kê về chi phí kinh doanh, kết quả và hiệu quả kinh doanh qua các năm
của MIC Bắc Ninh đã được thống kê nhằm cung cấp tư liệu cho việc phân tích, so
sánh trong các nội dung phân tích hiệu quả kinh doanh.
Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận văn. Từ
các thông tin được thu thập, tiến hành phân tích các nội dung và đánh giá hiệu quả

kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và nguyên nhân của tình hình tại công ty.
Phương pháp khảo sát thực tế, điều tra
Tác giả luận văn đã tiến hành khảo sát thực tế, điều tra bằng phỏng vấn trực
tiếp các cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công ty về những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại MIC Bắc Ninh.
Trong luận văn, tác giả sử dụng các công cụ phân tích kinh tế như: dãy số
liệu, biểu đồ...để minh họa một số nội dung.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn làm rõ hơn lý luận và thực tiễn của hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Nhận diện rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân về hiệu quả kinh
doanh trong kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại MIC Bắc Ninh.


10

- Đưa ra những đề xuất và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh bảo hiểm tại MIC Bắc Ninh.
- Gợi mở các nghiên cứu tiếp theo.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh doanh Bảo hiểm phi
nhân thọ.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Công
ty bảo hiểm quân đội MIC Bắc Ninh.
Chương 3: Những nhân tố ảnh hưởng mới và giải pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty bảo hiểm quân đội MIC Bắc Ninh



11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1. Bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm
* Khái niệm
Hoạt động bảo hiểm gồm 2 lĩnh vực hoạt động lớn là bảo hiểm nhân thọ và
bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ là loại bảo hiểm dài hạn liên quan đến tuổi thọ con người,
sự sống và cái chết của người được bảo hiểm là sự kiện chủ yếu được bảo hiểm
trong hoạt động bảo hiểm nhân thọ. Thông thường trong bảo hiểm nhân thọ người
bảo hiểm phải trả tiền khi người được bảo hiểm chết hay còn sống đến một thời
điểm ghi trong hợp đồng.
Bảo hiểm phi nhân thọ là lĩnh vực còn lại của hoạt động bảo hiểm thương
mại. Đó là bảo hiểm ngắn hạn, đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm phi nhân
thọ rộng hơn bảo hiểm nhân thọ. Ngoài các nghiệp vụ bảo hiểm ngắn hạn về con
người như: bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật… có thể nói mọi loại hình tài sản,
mọi dạng trách nhiệm dân sự đều có thể trở thành đối tượng của bảo hiểm phi nhân
thọ.
Như vậy, bảo hiểm phi nhân thọ được hiểu là loại bảo hiểm, trong đó người
bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi rủi ro quy định trong
hợp đồng bảo hiểm xảy ra. Khi hợp đồng bảo hiểm đã ký hết hạn mà không có rủi
ro xảy ra thì người bảo hiểm không phải thực hiện cam kết bồi thường hoặc trả tiền
bảo hiểm.
* Phân loại
Bảo hiểm phi nhân thọ là lĩnh vực bảo hiểm có phạm vi rất rộng. Nó bao

gồm tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và một
phần bảo hiểm con người. Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại bảo hiểm phi


12

nhân thọ, các tiêu thức chủ yếu thường được sử dụng để phân loại bảo hiểm phi
nhân thọ là:
Theo đối tượng bảo hiểm, Bảo hiểm phi nhân thọ được chia thành bảo hiểm
tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm bệnh tật, tai nạn con người.
Theo tiêu thức phân loại truyền thống, Bảo hiểm phi nhân thọ được chia
thành bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm phi hàng hải.
Theo đặc tính kỹ thuật và pháp lý, bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm: Bảo hiểm
sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người; Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và
đường hàng không; Bảo hiểm hàng không; Bảo hiểm xe cơ giới; Bảo hiểm cháy nổ;
Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu; Bảo hiểm trách nhiệm chung; Bảo
hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; Bảo hiểm nông
nghiệp; Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác khác do Chính phủ quy định.
* Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ
Thứ nhất, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình
Đây cũng chính là đặc điểm chung của sản phẩm các ngành dịch vụ. Thực
chất đó là một cam kết bằng văn bản pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm với khách
hàng về sự bảo đảm cho khách hàng về mặt vật chất, tài chính trong trường hợp xảy
ra rủi ro được quy định trong hợp đồng bảo hiểm với điều kiện là người bảo hiểm
được thu trước một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
Một doanh nghiệp bảo hiểm uy tín chắc chắn sẽ là sự lựa chọn hàng đầu của
người tham gia bảo hiểm. Uy tín đó được thể hiện qua: danh tiếng và kinh nghiệm
hoạt động của doanh nghiệp, tình hình tài chính lành mạnh, chiến lược đầu tư vốn
hợp lý, nghiệp vụ vững chắc, chất lượng phục vụ cao… Người mua bảo hiểm tin

tưởng vào doanh nghiệp có khả năng và luôn sẵn sàng thực hiện đầy đủ các cam kết
trong hợp đồng. Vì thế, uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm vô cùng quan trọng để
quyết định ý tưởng lựa chọn của khách hàng.
Thứ hai, bảo hiểm có chu trình sản xuất ngược


13

Xét về mặt kỹ thuật kinh doanh thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng khác với các
doanh nghiệp thông thường khác. Các doanh nghiệp thông thường đều hạch toán
giá thành sản phẩm dựa theo các khoản chi phí thực tế, giá cả được quyết định sau
khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm,
mỗi hợp đồng bảo hiểm có thể được coi như một món hàng. Phí bảo hiểm của
nghiệp vụ bảo hiểm có thể ví như giá cả của nghiệp vụ bảo hiểm và việc tính giá cả
này phát sinh trước khi có giá thành. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
phải dự báo trước giá cả này trên cơ sở vận dụng quy luật số đông và dựa vào thống
kê rủi ro, những số liệu tổn thất đã xảy ra trong quá khứ, kinh nghiệm về những tổn
thất xảy ra trước đây. Tỷ lệ tổn thất trước đây chắc chắn sẽ có sự sai lệch nhất định
so với tỷ lệ tổn thất thực tế sẽ xảy ra sau này, thậm chí có khi mức độ sai lệch rất
lớn. Vì vậy, chỉ có thể xác định được khoản thu nhập của doanh nghiệp bảo hiểm
nhưng lại có rất nhiều khả năng không xác định được trách nhiệm bồi thường sẽ xảy
ra sau này vì sự thay đổi về các yếu tố rủi ro.
Thứ ba, tâm lý người mua không muốn tiêu dùng dịch vụ
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự cố rủi ro xảy ra để được nhận
quyền bảo hiểm mặc dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn so với số phí phải đóng.
Đặc điểm này có ảnh hưởng trực tiếp đến khâu khai thác, cụ thể là trong khi giao
dịch, chào bán dịch vụ, cán bộ bảo hiểm sẽ phải chú ý, quan tâm đến tâm lý, sở
thích của khách hàng để thuyết phục khách hàng khi họ nói không quan tâm đến rủi
ro và không mong muốn rủi ro xảy ra với họ.
Thứ tư, kinh doanh bảo hiểm phải tuân thủ một số vấn đề thuộc nguyên tắc

như: nguyên tắc sàng lọc, nguyên tắc dàn trải, nguyên tắc phân chia phân tán rủi ro,
đặc biệt là phải vận dụng quy luật số lớn
Đặc điểm cơ bản của việc vận dụng quy luật số lớn được thể hiện ở chỗ:
trong hoạt động nghiệp vụ của mình, doanh nghiệp bảo hiểm phải thu hút được một
lượng đủ lớn khách hàng, ký kết được một lượng đủ lớn hợp đồng bảo hiểm thì mới
đảm bảo hoạt động kinh doanh, số lượng sản phẩm bán được càng nhiều thì doanh
nghiệp càng có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này xuất phát từ bản chất


14

hoạt động bảo hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người có
khả năng cùng gặp một loại rủi ro đưa vào một quỹ chung bằng tiền được lập bởi sự
đóng góp của những người cũng có khả năng gặp tổn thất đó thông qua hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất
nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở thành không đáng kể, có
thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng người tham gia bảo hiểm.
Ngoài các đặc điểm cơ bản của hoạt động bảo hiểm như đã nêu trên, bảo
hiểm phi nhân thọ còn có những đặc trưng là:
- Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời hạn bảo hiểm
thường là một năm hoặc ngắn hơn;
- Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi tiền bảo hiểm khi có
rủi ro được bảo hiểm xảy ra;
- Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm thông thường là
từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm phi nhân thọ không cố định và
phụ thuộc vào mức độ rủi ro hay phạm vi bảo hiểm;
- Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các nghiệp vụ
khác như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự giữa người bảo hiểm,
người được bảo hiểm và người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối
quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.


1.1.2. Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm góp phần bảo vệ tài sản, ổn định cuộc sống con người
Rủi ro đã gây ra những hậu quả rất lớn làm thiệt hại tài sản, tính mạng và sức
khỏe con người. Dịch vụ bảo hiểm đã đáp ứng nhu cầu bảo vệ về mặt vật chất, tài
chính trước rủi ro, giúp cho các tổ chức bảo toàn được vốn, tài sản, không bị phá
sản, cá nhân và gia đình ổn định trước cuộc sống, không bị rơi vào tình trạng kiệt
quệ tài chính và tinh thần.
Bảo hiểm thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tập trung vốn
Sự tồn tại của thị trường bảo hiểm với nhiều loại hình bảo hiểm đã giúp cho
nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nhanh chóng phục hồi, khắc phục hậu quả sau


15

rủi ro, đã tạo ra những suy nghĩ cần tham gia bảo hiểm. Mỗi năm trích một khoản
tiền nhỏ để đóng bảo hiểm vẫn hơn rất nhiều lần việc tự phòng ngừa rủi ro khi
không may rủi ro xảy ra phải mất đi số tiền rất lớn để phục hồi, thay thế tài sản hoặc
cá nhân, gia đình phải bỏ ra khoản tiền lớn để khắc phục hậu quả rủi ro trong lúc
mức thu nhập chỉ có hạn.
Việc tiết kiệm của những người tham gia bảo hiểm có liên quan chặt chẽ đến
việc tập trung vốn của các công ty bảo hiểm. Bằng việc đa dạng hóa các loại hình
bảo hiểm, đáp ứng mọi nhu cầu bảo hiểm của nhiều khách hàng, nhiều đối tượng đã
giúp cho các công ty bảo hiểm có một khoản phí tập trung rất lớn mà nếu không có
dịch vụ bảo hiểm thì khó có thể tập trung được.
Bảo hiểm góp phần đảm bảo an toàn, hạn chế tai nạn tổn thất
Hoạt động bảo hiểm là hoạt động kinh doanh thương mại đòi hỏi người bảo
hiểm phải tính toán đến hiệu quả. Muốn có hiệu quả đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ rủi
ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác định nguyên nhân tổn thất, giải quyết bồi thường.
Người bảo hiểm đã chú ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng ngừa

tổn thất, hạn chế tai nạn.
Mặt khác, bằng nghiệp vụ và đúc kết từ thực tiễn nghiên cứu của mình,
người bảo hiểm khi xem xét nhận bảo hiểm đã đưa ra những đề nghị rất đúng mực,
hợp lý để người tham gia bảo hiểm thực hiện việc đảm bảo an toàn cho tài sản,
tránh được những thiệt hại mà hậu quả làm hai phía đều có những mất mát.
Bảo hiểm góp phần ổn định chi phí. Nếu một doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh, mỗi gia đình, cá nhân trong cuộc sống không tham gia bảo hiểm mà tự bảo
hiểm lấy chính mình thì họ sẽ không thể chủ động được các khoản phải chi bất
thường khi gặp phải rủi ro trong kinh doanh, trong cuộc sống. Chi phí này sẽ bấp
bênh, không ổn định và chỉ có dịch vụ bảo hiểm mới giúp cho người tham gia bảo
hiểm yên tâm ổn định chi phí khi rủi ro đến với mình.
Tác động của bảo hiểm phi nhân thọ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Bảo hiểm phi nhân thọ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống
con người đặc biệt về mặt kinh tế - xã hội.


16

Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, bảo hiểm phi nhân thọ đóng vai trò như
một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ
thể dân cư và tổ chức kinh tế; khuyến khích và nâng cao ý thức đề phòng –
hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có vai trò là lá chắn kinh tế cho các
cá nhân/tổ chức. Điều này được thể hiện qua số liệu thống kê của các doanh nghiệp
bảo hiểm. Trong nhiều năm qua, số tiền chi trả bồi thường của các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ rất lớn và ngày càng tăng qua các năm.
Thực tế cho thấy, một số cá nhân/tổ chức kinh tế khi không may gặp rủi ro,
tưởng như cá nhân/tổ chức đó rơi vào tình trạng phá sản nhưng họ đã tham gia hợp
đồng bảo hiểm đã được công ty bảo hiểm bù đắp những thiệt hại tài chính, ổn định
sản xuất và hỗ trợ kinh tế.

Với thời đại ngày nay, cùng với công nghệ thông tin điện tử, công nghệ kinh
doanh trên mạng, vấn đề thương mại điện tử phát huy rất tích cực vào hoạt động
kinh doanh, các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp không cần phải gặp trực tiếp mà chỉ
cần vào mạng tra cứu là có thể tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy xuất hiện nhiều
(các doanh nghiệp ma, hoặc không đảm bảo uy tín về chất lượng cũng như sự tín
chấp để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh). Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam đem lại những cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nhiều thị trường mới
trên thế giới, nhưng cũng đem lại mối lo ngại cho các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước phải nỗ lực và phải thận trọng trong quan hệ giao dịch thương mại quốc tế, do
đó họ rất cần đến bảo hiểm. Để đảm bảo an toàn cho khách hàng, các nhà bảo hiểm
có trách nhiệm tìm hiểu, xem xét và đăng ký các dịch vụ về cung cấp, nắm bắt
thông tin về các doanh nghiệp và là nhà cung cấp dịch vụ cho các đơn vị doanh
nghiệp mà đơn vị bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho họ để biết được doanh nghiệp là các
nhà cung cấp dịch vụ ấy có thực không, có uy tín trên thị trường không, có rủi ro
trong giao dịch không. Điều đó thường chỉ các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp mới đủ
khả năng và có sự đầu tư, liên kết trên toàn cầu mới nắm bắt được các thông tin đó.


17

Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả đóng một vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế như giảm tỷ lệ thất nghiệp; tích tụ vốn để đầu tư trở lại nền kinh
tế. Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm, khi hoạt động có hiệu quả doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ đảm bảo tính thanh khoản, giúp khách hàng an tâm
với lá chắn vững vàng trong hoạt động kinh doanh sản xuất.
Trong các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, một hoạt động không kém phần
quan trọng đó là hoạt động đầu tư tài chính. Trong khi hoạt động kinh doanh bảo
hiểm không mạng lại nhiều lợi nhuận, thậm chí có thể gây ra những khoản lỗ, thì
hoạt động đầu tư tài chính lại là cứu cánh cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Với nguồn phí bảo hiểm chưa dùng đến, không ít DN bảo hiểm lựa chọn gửi

tiết kiệm, đầu tư bất động sản,... là kênh hiệu quả nhất. Do đó các doanh nghiệp có
lãi phần lớn được bù đắp bởi hoạt động tài chính nó chính là vai trò quan trọng
trong cơ cấu doanh thu và lợi nhuận của DN bảo hiểm.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, quỹ dự phòng bồi thường
được thành lập ngay khi ký hợp đồng bảo hiểm, nhưng việc bồi thường chỉ xảy ra
khi có sự cố. Do đó, việc đầu tư vốn nhàn rỗi của DN bảo hiểm rất quan trọng đối
với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với các quỹ bảo hiểm khác, bảo hiểm phi nhân thọ là môi trường nghề
nghiệp của số lượng lớn lao động, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm phi nhân thọ
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển cao ở
nhiều nước trên thế giới, với rất nhiều loại hình, cũng như đối tượng được bảo hiểm
ngày càng rộng mở và trở nên hết sức phong phú. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm
vẫn được tiến hành trên cơ sở một số nguyên tắc cơ bản của nó (Luật kinh doanh
bảo hiểm của Việt Nam năm 2000) .
Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (fortuity
not certainty): Nguyên tắc này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm một rủi ro,
tức là bảo hiểm một sự cố, một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu
nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra,


18

đương nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây
ra chứ không bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao dịch
kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực với nhau. Tuy
nhiên, trong bảo hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và
ràng buộc cao hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối
quan hệ bảo hiểm (người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung

thực với nhau, tin tuởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest): Nguyên tắc
quyền lợi có thể được bảo hiểm chỉ ra rằng, người được bảo hiểm muốn mua bảo
hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi
đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải, quyền lợi có
thể được bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng
nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn
thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người
được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không
kém.
Nguyên tắc thế quyền (subrogation): Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo
hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được
bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Thế quyền có
thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất. Trong trường hợp này,
người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên
quan. Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các
biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ… cần thiết cho người bảo hiểm.

1.2. Hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1. Khái niệm


19

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ khai
thác và sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh, với chi phí bỏ ra ít nhất mà đạt hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở công thức:


Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế rộng, phản ánh những
lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, để có thể hiểu rõ bản
chất của nó cần phải phân biệt rõ hiệu quả và kết quả.
Có thể hiểu kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà
doanh nghiệp đạt được sau một quá trình kinh doanh nhất định. Kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân, đo, đong, đếm
được như: số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận... và cũng có thể chỉ là các đại
lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín,
chất lượng sản phẩm... Nhưng đối với doanh nghiệp thì kết quả không cho thấy
được trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, do đó
phải thông qua phạm trù hiệu quả. Công thức trên cho thấy khái niệm hiệu quả kinh
doanh bao gồm cả kết quả (đầu ra) và chi phí (nguồn lực đầu vào), cả hai chỉ tiêu
kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo
bằng đơn vị hiện vật thì rất khó xác định do tính không đồng nhất đơn vị đo lường,
vì thế người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị biểu hiện ra là tiền tệ.
Từ đó cho thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao
động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình
trình độ lợi dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm, yếu
tố đầu vào, nguồn lực xã hội. Tiêu chuẩn hiệu quả đặt ra là việc tối đa hóa kết quả
hoặc tối thiểu hóa chi phí dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có.


20

Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác,
vì hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra, mà cả hai đại lượng này không có sự đồng bộ chặt
chẽ và cũng khó đánh giá chính xác.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, chi phí đầu vào bao

gồm các loại chi phí như chi phí bồi thường, chi phí quản lý doanh nghiệp... và kết
quả đầu ra là doanh thu, lợi nhuận.
Không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là mối quan
tâm của mọi doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ nói riêng. Đó cũng là vấn đề bao trùm và xuyên suốt, thể hiện trong công
tác quản lý, bởi suy cho cùng quản lý kinh tế là để đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu
quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tất cả những cải tiến, những đổi
mới về nội dung, phương pháp, biện pháp áp dụng trong quản lý chỉ thực sự đem lại
ý nghĩa khi chúng làm tăng được hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh
không những là thước đo về chất lượng, phản ánh tổ chức, quản lý kinh doanh, mà
còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển thì trước hết đòi hỏi kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu
quả sản xuất kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng đầu tư,
nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ tiên tiến hiện đại. Kinh doanh có
hiệu quả là tiền đề nâng cao phúc lợi cho người lao động, kích thích người lao động
tăng năng suất lao động và là điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá
Là những đơn vị kinh doanh mang tính dịch vụ, hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp bảo hiểm là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản
ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định,
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm: tỷ suất lợi nhuận, chi phí quản lý doanh
nghiệp, chi phí bồi thường, năng suất lao động...


21

* Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số giữa doanh thu, hay lợi nhuận trên tổng chi phí chi

ra trong kỳ của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức :

Trong đó:
Hd, He: Là hiệu quả kinh doanh tính theo doanh thu và lợi nhuận.
D: Là doanh thu trong kỳ.
L: Là lợi nhuận thu được trong kỳ.
C: Là tổng chi phí chi ra trong kỳ.
Chỉ tiêu (1) là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp được so sánh giữa phần doanh thu và tổng chi phí bỏ ra. Nó cho biết nói lên
cứ 1 đồng chi phí chi ra trong kỳ, tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Chỉ tiêu (2) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Nó phản
ánh cứ 1 đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh
nghiệp bảo hiểm.
Hai chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng
lớn.
* Chi quản lý doanh nghiệp / doanh thu phí bảo hiểm và lợi nhuận
Doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xem đến việc sử dụng có hiệu quả các
khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu chi phí cho một đồng
doanh thu phí bảo hiểm và cho một đồng lợi nhuận, qua đó có thể so sánh mức sinh
lợi của đồng vốn bỏ vào kinh doanh và đề ra các biện pháp quản lý nhằm tiết kiệm
chi phí. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
* Tỷ lệ chi bồi thường


22

Đây là chỉ tiêu quan trọng bởi lẽ chi bồi thường là khoản chi phí cơ bản trong
kinh doanh bảo hiểm, khoản chi này chiếm từ 65- 70% trong cơ cấu của phí bảo
hiểm. Như vậy, những nghiệp vụ bảo hiểm có tỷ lệ chi bồi thường trên phí bảo hiểm

thực thu trên 70% có thể xem như không có hiệu quả. Trong thực tế, không thể coi
chênh lệch giữa số phí thu được trong năm và số chi bồi thường của doanh nghiệp
trong năm là lợi nhuận của doanh nghiệp vì ngoài các khoản chi phí kinh doanh như
chi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải bỏ ra các
khoản chi phí khác như: hoa hồng khai thác, chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất,
chi phí quản lý doanh nghiệp và đặc biệt còn phải trích lập các quỹ dự phòng nghiệp
vụ từ phí bảo hiểm của từng nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng với phần trách nhiệm
giữ lại của doanh nghiệp. Thông qua tỷ lệ chi bồi thường, Doanh nghiệp bảo hiểm
có thể thấy được ngay việc kinh doanh của doanh nghiệp hay của từng nghiệp vụ
trong một khoảng thời gian nhất định có hiệu quả hay không, qua đó có các định
hướng cũng như các giải pháp trong triển khai các hoạt động kinh doanh nhằm nâng
cao hiệu quả.
Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm ta có thể xây
dựng được nhiều chỉ tiêu hiệu quả khác nhau để phục vụ cho quá trình đánh giá và
phân tích hoạt động kinh doanh của công ty. Điều đó có nghĩa là mỗi chỉ tiêu phản
ánh được trình độ sử dụng một loại chi phí nào đó trong việc tạo ra những kết quả
nhất định.
* Năng suất lao động
Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng
bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản
xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới
sức cạnh tranh, đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người
lao động - yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát triển
của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.
Năng suất lao động được tính theo công thức sau:


23

Năng suất lao động = Giá trị gia tăng (hoặc GDP) / Số lượng lao động

Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của lao
động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng
(hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng lượng thời
gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng suất lao động là
chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một
đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng suất lao động được quyết
định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát
triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy
mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực của một
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trình độ sử dụng
nguồn lực trong sản xuất kinh doanh phản ánh sự tận dụng, tiết kiệm các nguồn lực
đó, trình độ lợi dụng các nguồn lực trong mối quan hệ với kết quả đầu ra cho biết sự
tận dụng các nguồn lực sản xuất để tạo ra kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hiệu quả kinh doanh chịu ảnh hưởng của các nhóm nhân tố như sau:
(1) Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
* Nhân lực
Nhân lực là nguồn lực quyết định trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đặc
điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã khẳng định nguồn vốn chủ yếu và quan
trọng nhất là con người - khả năng lao động (đặc biệt là năng lực, trí tuệ), tinh thần
lao động, trách nhiệm, tinh thần và khả năng hợp tác trong công việc, phẩm chất
đạo đức, văn hóa ứng xử với khách hàng… Khi bước vào nền kinh tế tri thức, trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt và dưới tác động của tiến trình hội nhập, nguồn vốn
nhân lực ngày càng khẳng định vị trí tối quan trọng trong doanh nghiệp.
Chính vì vậy, việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao trình độ năng lực,
chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế được coi



24

như là một nhiệm vụ hàng đầu của các mọi doanh nghiệp, trong đó có công ty bảo
hiểm phi nhân thọ.
* Cơ sở vật chất và ứng dụng kỹ thuật tiên tiến
Việc trang bị đầy đủ và sử dụng có hiệu quả các phương tiện phục vụ kinh
doanh góp phần rất quan trọng trong việc đem lại hiệu quả kinh doanh . Đặc điểm
của quản lý kinh doanh bảo hiểm là quản lý hợp đồng , quản lý khách hàng. Do vậy,
các doanh nghiệp bảo hiểm cần trang bị đầy đủ phương tiện phục vụ công tác kinh
doanh và cần khai thác triệt để các thế mạnh của công nghệ thông tin.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải
chú trọng đến việc đầu tư, phát triển và nâng cấp đủ và hợp lý nhất hệ thống công
nghệ thông tin của mình theo hướng hiện đại và tiết kiệm. Cần khai thác có hiệu quả
việc ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý khách hàng, hợp đồng bảo hiểm. Các
chương trình phần mềm phải mang tính chất thực tiễn và hợp lý. Ngoài việc thực
hiện công tác thống kê, chương trình phải có phần nhắc nhở người khai thác khi có
hợp đồng, đơn bảo hiểm đến kỳ tái tục.
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, việc quảng bá và giới thiệu hình
ảnh của doanh nghiệp thông qua mạng internet là hình thức tiết kiệm và hiệu quả
nhất.
* Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong doanh nghiệp
Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,
các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng cần có rất
nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin về người mua, thông tin về người
bán, thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về khách hàng, về dịch vụ hàng
hóa, giá cả, tỷ giá... Không những thế, một doanh nghiệp cần biết đến thành công
hay thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành trong nước và quốc tế,
thông tin về sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước.
Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ làm cơ sở vững chắc để doanh nghiệp
xác định được phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn

và ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin một cách thường


25

xuyên liên tục, không nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin sẽ dễ dàng bị thất bại
trong hoạt động kinh doanh của mình.
Với vai trò và ảnh hưởng to lớn của thông tin như vậy, việc tổ chức một cách
khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin kinh
doanh, vừa giảm thiểu chi phí cho thông tin. Đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của các nhà quản trị doanh nghiệp hiện nay.
* Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Trong kinh doanh hiện đại, đối với mọi doanh nghiệp, với quy mô hoạt động
dù thay nhỏ thế nào thì nhân tố quản trị vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quản trị hiện đại luôn quan tâm đến việc
xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn trong hoạt động kinh doanh.
Mức độ chuẩn xác trong chiến lược kinh doanh và kế hoạch phát triển doanh nghiệp
là cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả, trái lại sẽ dẫn đến phi hiệu quả, thất bại trong
kinh doanh.
Kinh doanh thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức khoa học và nghệ
thuật kinh doanh. Nhà quản trị doanh nghiệp, bằng phẩm chất và tài năng của mình
có vai trò quan trong bậc nhất, có ảnh hưởng quyết định đến việc duy trì và phát
triển doanh nghiệp.
* Văn hóa doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên
trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị,
các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy
và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp
trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích.
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển

của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn
hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó
khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng xã hội ngày nay thì các
nguồn lực của một doanh nghiệp là con người mà văn hoá doanh nghiệp là cái liên


×