Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Luận văn Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần xây dựng số 1 (Vinaconex_1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.98 KB, 93 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường vừa đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, lại vừa tạo điều kiện
cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp dựa trên chiến lược
chung của cả nước để xây dựng chiến lược riêng cho chính mình, hay nói
đúng hơn là dựa trên tín hiệu của thị trường mà xây dựng chiến lược theo
nguyên tắc: phải bán những thứ mà thị trường cần chứ không phải bán những
gì mình có. Trong quá trình kinh doanh, cạnh tranh và khát vọng lợi nhuận đã
thực sự trở thành động lực thôi thúc các doanh nghiệp tăng cường đổi mới
thiết bị công nghệ, đầu tư vào những ngành nghề mới… với mục đích cuối
cùng - ngày càng “tối đa hoá lợi nhuận” mà mình làm ra.
Lợi nhuận cũng chính là chỉ tiêu tổng hợp nhất nói lên kết quả cuối
cùng của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là nguồn
tích luỹ cơ bản để doanh nghiệp đầu tư, mở rộng tái sản xuất xã hội… Như
vậy, lợi nhuận thực sự có vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào.
Với mục đích tìm hiểu kỹ hơn về lợi nhuận và hoạt động kinh doanh của
các công ty xây dựng, em đã đến thực tập tại Công ty cổ phần xây dựng số
1- Vinaconex1. Và sau một thời gian học hỏi, nghiên cứu em đã quyết định
chọn đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty
cổ phần xây dựng số 1 (Vinaconex_1)” làm khoá luận tốt nghiệp.
2. Đối tượng- phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đây là đề tài khá rộng, vì vậy em xin được hạn chế chỉ đi sâu vào phân
tích kết quả hoạt động của công ty trong ba năm trở lại đây. Từ năm 2005 đến
năm 2007. Trên cơ sở nghiên cứu giới hạn một số vấn đề lý luận, phân tích
đánh giá tình hình sử dụng tài sản, nguồn vốn, chi phí và thu nhập trong công


2


ty. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng góp phần nâng cao lợi nhuận của
công ty trong những năm tới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khoá luận sẽ cố gắng hệ thống hoá, làm sáng tỏ thêm lí luận, rút ngắn
khoảng cách giữa lí luận và thực tiễn. Tiến hành phân tích và đánh giá thực
trạng lợi nhuận của công ty trong thời gian qua và đưa ra một số biện pháp,
kiến nghị nhằm tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận cho công ty
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng biện pháp nghiên cứu duy vật biện chứng trong mối
quan hệ với duy vật lịch sử, biện pháp so sánh, thống kê, phân tích. Từ đó
tổng hợp các vấn đề trong quá trình nghiên cứu, sử dụng một cách linh hoạt,
kết hợp hoặc riêng rẽ để giải quyết các vấn đề một cách tốt nhất.
5. Bố cục của khóa luận
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và biện pháp nâng cao lợi
nhuận tại các công ty xây dựng
Chương 2: Thực trạng và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ
phần xây dựng số 1 (Vinaconex_1)
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại công ty cổ
phần xây dựng số 1(Vinaconex_1)
Do hạn chế về thời gian và bước đầu làm quen với thực tế, khoá luận này
khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy, cô giáo và các anh chị trong phòng Tài chính- kế toán của công ty
cổ phần xây dựng số 1


3
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo: Th.s Nguyễn Thu Hương cùng các
anh chị tại cơ quan thực tập đã hướng dẫn nhiệt tình, giúp em hoàn thành đề
tài này. Em xin chân thành cảm ơn !


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN VÀ BIỆN PHÁP NÂNG
CAO LỢI NHUẬN TRONG CÁC
CÔNG TY XÂY DỰNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
XÂY DỰNG

1.1.1. Khái niệm công ty xây dựng
Công ty xây dựng cũng là doanh nghiệp vậy nên nó mang đầy đủ mọi
đặc điểm của một doanh nghiệp. Theo luật doanh nghiệp ban hành năm 2005,
khái niệm công ty xây dựng được trình bày như sau:
Công ty xây dựng là tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng.
1.1.2. Đặc điểm kinh doanh của công ty xây dựng
Muốn hiểu rõ đặc điểm kinh doanh của công ty xây dựng như thế nào
trước hết chúng ta phải biết được những đặc điểm đặc trưng của sản phẩm xây
dựng
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của sản phẩm xây dựng
Sản phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng đã hoàn
chỉnh.Và theo nghĩa rộng là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành
sản xuất như các ngành chế tạo máy, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng,
ngành năng lượng, hóa chất, luyện kim.. và tất nhiên là của ngành xây dựng
đóng vai trò tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng để đưa chúng vào
hoạt động


4
Các sản phẩm XDCB thường rất lớn và phải xây dựng trong nhiều năm.
Chúng được chia ra thành sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng. Sản

phẩm trung gian có thể là công việc xây dựng, các giai đoạn và đợt xây dựng
đã hoàn thành và bàn giao. Còn sản phẩm cuối cùng ở đây chính là các công
trình, hạng mục công trình xây dựng hoàn chỉnh và có thể đã được bàn giao
đưa vào sử dụng. Nhìn chung các sản phẩm xây dựng thường có những đặc
điểm sau.
Các sản phẩm xây dựng là những sản phẩm mang tính đơn chiếc, rất đa
dạng, phong phú. Chúng không phải được sản xuất theo một khuôn mẩu cố
định nào cả. Mà mỗi một sản phẩm hay mỗi một công trình xây dựng sẽ có
những bản thiết kế riêng, những yêu cầu kỹ thuật riêng biệt, hình dáng, màu
sắc riêng biệt.
Trong khi các sản phẩm khác thường được sản xuất và tiêu thụ một cách
hàng loạt thì các sản phẩm xây dựng được sản xuất và tiêu thụ theo đơn đặt
hàng. Và đối với những trường hợp cụ thể thường thông qua hình thức ký hợp
đồng thỏa thuận giữa các bên.
Sản phẩm xây dựng phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên. Do việc sản
xuất xây dựng chủ yếu phải tiến hành ngoài trời, cố định tại nơi sản xuất. Bởi
vậy các sản phẩm này chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết, khí hậu. Ví dụ, trong
lúc công trình đang được tiến hành đổ bê tông mà trời bổng mưa, hoặc tại thời
địa điểm đó lại có lũ lụt...thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho công trình, không
những công trình không hoàn thành đúng thời hạn mà còn phải chịu thiệt hại
nặng nề.
Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn, chi phí lớn, thời gian xây
dựng và sử dụng lâu dài. Do đó những sai lầm về xây dựng có thể gây nên các
lãng phí lớn, tồn tại lâu dài và khó sửa đổi.
Sản phẩm xây dựng được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với
chủ đầu tư ( giá đấu thầu). Do đó, tính chất hàng hoá của sản phẩm xây dựng


5
không thể hiện rõ. Nếu như giá cả hàng hoá thường được xác định theo quy

luật cung cầu thì ở đây, các sản phẩm xây dựng đã được quy định giá cả,
người mua, người bán trước khi tiến hành sản xuất thông qua hợp đồng giao
nhận thầu. Bởi vậy tính thị trường trong các sản phẩm xây dựng thấp hơn
nhiều so với các sản phẩm khác.
Chính những đặc điểm này của các sản phẩm xây dựng đã có ảnh
hưởng rất lớn, góp phần quyết định công tác tổ chức và hoạt động sản xuất
kinh doanh tại công ty.
1.1.2.2. Đặc điểm công tác tổ chức sản xuất kinh doanh tại công ty xây
dựng
1.1.2.2.1. Những đặc điểm xuất phát từ tính chất của sản phẩm xây dựng
 Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn
luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Cụ thể là trong
xây dựng con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình
này đến công trình khác, còn sản phẩm xây dựng (công trình xây dựng) thì
hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành sản xuất
vật chất khác. Các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất
của Công ty luôn phải thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc
điểm này gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện làm
việc cho người lao động, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực
lượng sản xuất và cho những công trình tạm phục vụ sản xuất. Đây chính là lý
do giải thích tại sao trong các công ty xây dựng tỷ trong giữa tài sản cố định
và tài sản lưu động lại chênh lệch nhau rất lớn. Thông thường tài sản cố định
chiếm từ 10%- 15% trong tổng tài sản của công ty. Với đặc thù của các sản
phẩm xây dựng như vậy nên các công ty xây dựng thường lựa chọn các hình
thức tổ chức sản xuất linh hoạt, tăng cường điều hành tác nghiệp, phấn đấu
giảm chi phí có liên quan đến công tác vận chuyển, chọn lựa vùng hoạt động


6
thích hợp. Công ty cần lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết

tại chỗ để tranh thầu xây dựng, chú ý đến nhân tố chi phí vận chuyển khi lập
giá tranh thầu. Đặc điểm trên cũng đòi hỏi Công ty phải phát triển rộng khắp
trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như: dịch vụ
cho thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng...
 Các sản phẩm xây dựng thường có chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng
công trình) dài, giá trị lớn. Đặc điểm này khiến cho vốn trong các công ty xây
dựng luân chuyển chậm, doanh thu bán hàng không có thường xuyên từ đó
ảnh hưởng tới tổng doanh thu thu được trong năm, ảnh hưởng tới tình hình tài
chính của công ty.
 Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường
hợp cụ thể, thông qua hình thức ký hợp đồng sau khi thắng thầu, vì sản phẩm
xây dựng rất đa dạng và có tính cá biệt cao, có chi phí lớn. Ở nhiều ngành sản
xuất khác, người ta có thể sản xuất hàng loạt sản phẩm để bán, nhưng với các
công trình xây dựng thì không thể như vậy. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là
phải định giá của sản phẩm xây dựng trước khi sản phẩm được làm ra. Vì thế,
hình thức giao nhận thầu hoặc đấu thầu trong xây dựng cho từng công trình cụ
thể đã trở nên phổ biến trong sản xuất xây lắp.
 Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có nhiều đơn vị cùng tiến
hành trên công trường xây dựng theo trình tự nhất định về thời gian và không
gian. Bởi vậy đòi hỏi công ty xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao
trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị xây dựng và thiết kế tổ chức thi
công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu chính
với các tổ chức nhận thầu phụ.
 Sản xuất xây dựng chủ yếu phải tiến hành ngoài trời, do đó bị ảnh
hưởng của khí hậu. Công việc sản xuất, thi công công trình thường bị gián
đoạn do những thay đổi bất thường của thời tiết, điều kiện lao động, điều kiện


7
làm việc nặng nhọc. Năng lực sản xuất của Công ty không được sử dụng đồng

hoà trong bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi
dự trữ vật tư nhiều hơn...Tình hình này yêu cầu công ty xây dựng phải chú ý
đến nhân tố rủi ro về thời tiết khi lập tiến độ thi công, phấn đấu tìm cách hoạt
động đều đặn trong một năm, sử dụng kết cấu lắp ghép làm sẵn trong xưởng
một cách hợp lý, để giảm bớt thời gian thi công tại hiện trường, áp dụng cơ
giới hóa hợp lý, chú ý độ bền chắc của máy móc, đặc biệt quan tâm đến việc
cải thiện điều kiện việc làm của công nhân, cẩn thận với các nhân tố rủi ro vì
thời tiết
 Tốc độ phát triển kỹ thuật xây dựng thường chậm hơn các ngành khác,
nền đại công nghiệp cơ khí hoá ở nhiều ngành sản xuất đã hình thành từ thế
kỷ 18, trong khi đó cơ khí hoá ngành xây dựng mới xuất hiện từ đầu thế kỷ
20.
Tất cả những đặc điểm trên đã ảnh hưởng đến mọi khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh xây dựng kể từ khâu tổ chức dây chuyền công nghệ, phương
hướng phát triển khoa học kỹ thuật xây dựng, trình tự của quá trình sản xuất kinh
doanh, tổ chức cung ứng vật tư, cấu tạo trang bị vốn cố định, chế độ thanh toán,
chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm, chính sách đối với lao động, marketing,
chính sách giá cả, hạch toán sản xuất kinh doanh trong công ty xây dựng
1.1.2.2.2. Những đặc điểm xuất phát từ điều kiện tự nhiên và kinh tế của Việt
Nam.
 Về điều kiện tự nhiên: Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa,
có hình thể dài và hẹp, điều kiện địa chất thuỷ văn phức tạp nhưng lại có
nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó các giải pháp xây dựng ở Việt
Nam chịu ảnh hưởng mạnh của các nhân tố này.
 Về trình độ xây dựng, kỹ thuật, tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế ở
nước ta còn thấp kém hơn so với nhiều nước. Quá trình sản xuất xây dựng ở


8
Việt Nam hiện nay đang diễn ra như một quá trình phát triển tổng hợp, kết

hợp giữa bước đi nhảy vọt với bước đi tuần tự, kết hợp giữa các công trường
thủ công, nửa cơ giới, cơ giới hóa và một phần tự động hóa. Trong bối cảnh
hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng trình độ xây dựng của nước ta đang có
nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển nhanh.

1.1.3. Mục tiêu hoạt động kinh doanh của công ty xây dựng
Bất kỳ một tổ chức nào vận động cũng đều có mục tiêu của nó. Mục
tiêu của một tổ chức sản xuất kinh doanh xây dựng bao gồm các mục tiêu
kinh tế, mục tiêu xã hội và đặc biệt chúng phải tuân theo mục tiêu chính trị,
định hướng của quốc gia.
Mục tiêu kinh tế thể hiện ở các chỉ tiêu như: mức doanh lợi của đồng
vốn, hiệu suất sử dụng của các yếu tố sản xuất, hiệu quả chi phí sản xuất. Các
công ty xây dựng luôn đặt mục tiêu cố gắng sao cho mức doanh lợi của đồng
vốn là lớn nhất, hiệu suất sử dụng các yếu tố sản xuất là lớn nhất, còn hiệu
quả của chi phí sản xuất lại nhỏ nhất. Việc đạt được các mục tiêu đó chính là
công ty đã tối đa hóa lợi nhuận mà mình thu được từ các hoạt động sản xuất
kinh doanh của chính mình.
Mục tiêu xã hội thể hiện ở các chỉ tiêu như: nâng cao phúc lợi vật chất
(nhất là tiền lương) và tinh thần cho cán bộ, công nhân viên chức của công ty,
cải thiện điều kiện lao động cho công nhân và viên chức trong công ty, góp
phần phát triển con người lao động một cách hài hòa, đảm bảo việc làm ổn
định cho công nhân viên chức, nâng cao thu nhập…
Mặc dù vậy nhưng mục tiêu xuyên suốt và là mục tiêu cuối cùng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng chính là làm thế nào để lợi
nhuận thu được của công ty là lớn nhất hay nói cách khác là nhằm tối đa hóa lợi


9
nhuận thu được của công ty, từ đó nâng cao sức cạnh trạnh của công ty trong thị
trường.

1.1.4 Nội dung hoạt động kinh doanh của công ty xây dựng
Hoạt động kinh doanh của công ty xây dựng chủ yếu bao gồm các lĩnh
vực sau:
 Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, hạ tầng, đường dây,
trạm biến thế và xây dựng khác.
 Sản xuất vật liệu xây dựng, cấu kiện bê tông. Sản xuất ống cấp thoát
nước, phụ tùng, phụ kiện.
 Kinh doanh nhà ở, khách sạn và vật liệu xây dựng.
 Tư vấn đầu tư, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, lập dự án, tư vấn
đấu thầu, tư vấn giám sát, quản lý dự án.
 Kinh doanh khách sạn du lịch lữ hành.
 Đại lý cho các hãng trong nước và ngoài nước kinh doanh các mặt hàng
phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.
 Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, xuất khẩu xây dựng.
 Thiết kế tổng mặt bằng kiến trúc, nội ngoại thất đối với công trình dân
dụng và công nghiệp.
 Thiết kế hệ thống cấp thoát nước khu đô thị và nông thôn: xử lý nước
thải và nước sinh hoạt.
 Thiết kế kết cấu đối với công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, kỹ
thuật hạ tầng khu đô thị, khu công nghiệp.
 Thi công cầu đường.
 Đo đạc, khảo sát địa hình, địa chất, thuỷ văn phục vụ cho thiết kế công
trình, lập dự án đầu tư.
Qua đó chúng ta cũng có thể thấy hoạt động của các công ty xây dựng
thật đa dạng và phong phú. Mỗi một công ty xây dựng nên tuỳ vào điểm


10
mạnh của mình mà phát huy chủ yếu trong lĩnh vực nào đó? Đấy cũng chính
là yếu tố giúp nâng cao năng lực cạnh tranh với các công ty khác cùng ngành.

1.2. LỢI NHUẬN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA
CÔNG TY XÂY DỰNG.

1.2.1. Lợi nhuận của công ty xây dựng.
1.2.1.1. Khái niệm lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của rất nhiều thành phần
kinh tế khác nhau đã tạo môi trường cho các doanh nghiệp ngày càng phát
triển cạnh tranh gay gắt với nhau. Bởi vậy, để doanh nghiệp tồn tại và phát
triển trên thương trường hay nói cách khác là thắng trong canh tranh, thì đòi
hỏi tất yếu doanh nghiệp đó phải kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể là phải có lợi
nhuận. Vậy lợi nhuận là gì?
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp. Là chỉ tiêu
chất lượng, tổng hợp phản ánh kết quả kinh tế của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác, nhằm đánh giá
hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, đánh giá hiệu
quả sử dụng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1.2. Nội dung lợi nhuận.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thường bao gồm các bộ phận cấu thành
sau đây:
 Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu
được do tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, lao vụ từ các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong
tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây cũng là điều kiện tiền đề để doanh
nghiệp thực hiện tích lũy cho tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Đồng thời
cũng là điều kiện tiên quyết để lập ra các quỹ của doanh nghiệp, như quỹ dự


11

phòng mất việc làm, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ phát triển...Là điều
kiện cơ bản để không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người
lao động. Do đó lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
 Lợi nhuận thu từ các hoạt động tài chính.
Lợi nhuận thu từ hoạt động tài chính của doanh nghiệp chính là phần
chênh lệch giữa thu và chi về hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Bao gồm
lợi nhuận thu được từ hoạt động mua, bán chứng khoán, kinh doanh bất động
sản, từ tham gia góp vốn liên doanh, cho thuê tài sản, đầu tư cổ phiếu, trái
phiếu, hay là khoản thu được do chênh lệch từ lãi tiền gửi ngân hàng và lãi
tiền vay ngân hàng cũng chính là lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
 Lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác.
Lợi nhuận khác là khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được ngoài hoạt
động sản xuất kinh doanh, ngoài dự tính hoặc có dự tính đến nhưng ít có khả
năng thực hiện hoặc là những khoản lợi nhuận thu được không mang tính chất
thường xuyên. Những khoản lợi nhuận này thu được có thể do những nguyên
nhân chủ quan hoặc khách quan đem lại.
Lợi nhuận khác là khoản chênh lệch giữa thu và chi từ các hoạt động khác của
doanh nghiệp. Các hoạt động khác ví dụ như: thanh lý, nhượng bán tài sản cố
định, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản nợ khó đòi…
1.2.1.3. Phương pháp xác định lợi nhuận.
Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định bằng tổng lợi nhuận từ hoạt
động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, và các hoạt động khác. Trong
đó lợi nhuận từng hoạt động là phân chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Cách thức xác định như sau:
* Đối với lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh


12
Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động

sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ trong kỳ được xác định theo công thức:
Trong đó:
Lợi nhuận từ
hoạt
động =
kinh doanh

Doanh
thu
thuần

Trị giá
hàng bán

Chi phí quản
Chi phí
- lý
doanh
bán hàng
nghiệp

 Doanh thu thuần được xác định :
Doanh thu
Thuần

Tổng doanh
Các khoản
_
thu tiêu thụ
giảm trừ

=
sản phẩm
doanh thu
dịch vụ
Các khoản giảm trừ doanh thu gồm:
- Chiết khấu hàng bán: là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trong
trường hợp người mua thanh toán trước thời hạn thanh toán hay còn gọi là
thanh toán sớm và đã được ghi trên hóa đơn bán hàng hoặc hợp đồng kinh tế.
- Giảm giá hàng bán: là số tiền người bán giảm trừ cho người mua (khách
hàng) trên giá bán trong trường hợp hàng kém phẩm chất, không đúng quy
cách, hoặc giảm giá cho khách hàng khi họ mua một khối lượng hàng hoá lớn.
- Giá trị hàng bán bị trả lại: là giá trị tính theo giá thanh toán của số sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do
vi phạm các tiêu chuẩn trong hợp đồng kinh tế đã ký kết.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế gián thu tính trên một số loại hàng
hoá, dịch vụ đặc biệt mà nhà nước không khuyến khích tiêu dùng.
- Thuế xuất nhập khẩu: là loại thuế gián thu tính trên sản phẩm hàng hoá
của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước xuất khẩu qua biên giới Việt
Nam.
 Trị giá vốn hàng bán (GVHB) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực
tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra để hình thành trị giá sản phẩm hàng hoá, dịch


13
vụ (bao gồm cả một số khoản thuế theo quy định như thuế nhập khẩu, thuế
giá trị gia tăng) đã được xác định là tiêu thụ. Toàn bộ chi phí đó có thể là
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công, chi phí máy móc thi
công và chi phí sản xuất chung…
Giá vốn hàng bán = Giá thành sản phẩm của khối lượng sản phẩm tiêu thụ
trong kỳ


=

Zsx của khối
lượng sản
phẩm tồn
+
kho ĐK

Zsx của khối
lượng sản
phẩm sx
trong kỳ

-

Zsx của khối
lượng sản
phẩm CK

 Chi phí bán hàng: Là những chi phí thực tế phát sinh trong quá trình
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ dịch vụ gồm có: Chi phí bảo hành sản
phẩm, tiền lương và các khoản phụ cấp tiền lương (bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, kinh phí công đoàn) của nhân viên bán hàng, hoa hồng đại lý,
tiếp thị quảng cáo, chi phí đóng gói sản phẩm, chi phí khấu hao tài sản cố
định phục vụ cho tiêu thụ sản phẩm, chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí
mua ngoài phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên trong các
doanh nghiệp xây dựng thì chi phí bán hàng chiếm rất ít và ở một số doanh
nghiệp còn không có chi phí bán hàng
 Chi phí quản lý doanh nghiệp (QLDN): Là những chi phí liên quan đến

bộ máy quản lý của doanh nghiệp, chi phí quản lý kinh doanh, các chi phí
liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như tiền lương, phụ cấp
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của ban giám đốc và
nhân viên phòng ban, chi phí vật liệu đồ dùng văn phòng, khấu hao tài sản
cố định dùng chung cho toàn doanh nghiệp và các khoản phụ phí, trợ cấp
mất việc, dự phòng nợ phải thu khó đòi, chi phí tiếp tân khánh tiết, phí
kiểm toán và các khoản chi phí khác. Đây là một loại chi phí thời kỳ được
tính đến khi hạch toán lợi tức thuần túy của kỳ báo cáo.


14
* Đối với lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là những hoạt động có liên quan tới việc huy động,
quản lý và sử dụng vốn trong kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định theo công thức:
Lợi nhuận thu
được từ hoạt =
động tài chính

Thu nhập từ
hoạt động
tài chính

_

Chi phí từ
hoạt động _
tài chính

Thuế gián

thu
(nếu có)

Trong đó:
 Thu nhập từ hoạt động tài chính gồm: lãi tiền gửi ngân hàng, bán trả
góp, lãi kinh doanh chứng khoán, lãi góp vốn liên doanh, lãi đầu tư ngắn
hạn và dài hạn khác, chiết khấu thanh toán khi mua hàng được hưởng, thu
tiền do cho thuê tài sản và bán bất động sản, chênh lệch tỷ giá, hoàn nhập
khoản dự phòng.
 Chi phí hoạt động tài chính gồm: lỗ do kinh doanh chứng khoán và các
hoạt động đầu tư khác, chi phí do đem góp vố liên doanh, chi phí liên quan
đến việc thuê tài sản, chênh lệch tỷ giá, lập dự phòng giảm giá đầu tư
chứng khoán...
* Đối với lợi nhuận từ hoạt động khác
Hoạt động khác (hoạt động bất thường) là những hoạt động diễn ra
không thường xuyên mà doanh nghiệp không dự tính trước được hoặc có dự
tính nhưng ít có khả năng thực hiện như các hoạt động thanh lý, nhượng bán
tài sản cố định, xử lý nợ khó đòi…
Lợi nhuận từ hoạt động khác được xác định theo công thức sau:
Lợi nhuận thu
được từ hoạt =
động khác
Trong đó:

Thu nhập
Từ hoạt động _
khác

Chi phí từ
hoạt động _

khác

Thuế gián thu
(nếu có)


15


Thu nhập từ các hoạt động khác là những khoản thu về tiền phạt do

khách hàng vi phạm hợp đồng, tiền thu được từ hoạt động thanh lý,
nhượng bán tài sản cố định, thu các khoản nợ khó đòi, thu các khoản miễn
thuế, giảm thuế, tiền thu về giá trị tài sản thu được do vắng chủ, hoàn nhập
dự phòng, giảm giá dự trữ và phải thu nợ khó đòi, trích trước sửa chữa lớn
tài sản cố định, bảo hành sản phẩm nhưng không dùng hết vào cuối năm...
 Chi phí hoạt động khác là những khoản chi như: chi phạt thuế, tiền phạt
do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản,
giá trị tài sản bị tổn thất do quỹ dự phòng tài chính không đủ bù đắp chi
phí kinh doanh...
Sau khi đã xác định lợi nhuận của các hoạt động kinh doanh, chúng ta
tiến hành tổng hợp lại, khi đó kết quả thu được chính là lợi nhuận trước thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy :
LN
trước =
thuế TNDN

Thuế TNDN phải
nộp

=

LN từ hoạt +
động SXKD

LN trước
TNDN

LN từ hoạt +
động TC

thuế
X

LN từ hoạt
động khác

Thuế suất thuế
TNDN

=>
LN ròng
LN trước thuế
Thuế
TNDN
(LNST)
=
TNDN
_
phải nộp

1.2.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi nhuận của công ty xây
dựng.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên toàn bộ kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Vì vậy lợi nhuận là chỉ tiêu quan


16
trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của các công ty xây
dựng. Tuy nhiên, do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, quy
mô sản xuất giữa các công ty xây dựng khác nhau nên tổng lợi nhuận thu
được của mỗi công ty cũng sẽ khác nhau. Chính vì vậy, ngoài chỉ tiêu tổng lợi
nhuận thì chúng ta cần phải quan tâm đến các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh
lợi nhuận của công ty xây dựng.
1.2.1.4.1.Tỷ suất lợi nhuận:
Có rất nhiều chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận khác nhau, mỗi chỉ tiêu có nội
dung kinh tế khác nhau. Sau đây là một số chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận chủ yếu:
1.2.1.4.2.Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Công thức:
Lợi nhuận
X 100%
Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thu được trong kỳ thì công
ROS =

ty có khả năng thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Và bởi vậy mà nếu tỷ suất
lợi nhuận doanh thu càng cao chứng tỏ khả năng sinh lợi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp càng tốt.
1.2.1.4.3.Tỷ suất lợi nhuận giá thành:
(Trong công ty xây dựng chỉ tiêu này còn được gọi là mức doanh lợi tính
cho một đồng giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành và bàn giao)

Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ giữa lợi nhuận thu được
trong kỳ với giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành và bàn giao trong kỳ đó.
Tỷ suất LN giá thành = Lợi nhuận trớc hoặc sau thuế
Giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành
(giá thành sản phẩm xây lắp)
Chỉ tiêu này cho biết cứ bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu này
có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong
kỳ.


17
1.2.1.4.4.Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Công thức:
ROA =

Tổng LN kế toán trước thuế
Tổng tài sản bình quân

X 100%

Trong đó: ROA là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh
sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận? Trong điều kiện bình thường thì chỉ
tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời của tài sản càng tốt
1.2.1.4.5.Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu:
Đây là một chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu hoạt động của
doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận ròng cho các chủ sở hữu doanh nghiệp đó.
ROE =


Tổng LN sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân

X 100%

Trong đó : ROE là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này nói lên một trăm đồng vốn chủ sở hữu đem đầu tư mang lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Ngoài các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nói trên, trong công tác quản lý
người ta còn sử dụng các chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư; tỷ suất lợi
nhuận giá trị tổng sản phẩm để đánh giá chất lượng xây dựng kế hoạch và
thực hiện kế hoạch trong kỳ.
Nền kinh tế thị trường đã và đang tác động mạnh mẽ tới từng doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp luôn chịu sự chi phối một cách bình đẳng bởi các quy luật của nền kinh
tế thị trường: Các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị,...
Chính vì vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển như những tế bào của nền
kinh tế thì phải nuôi dưỡng mình mà sự lựa chọn đầu tiên và cũng là sự lựa chọn
quan trọng nhất là phải đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao.


18
Do đó việc phấn đấu tăng lợi nhuận trong điều kiện hiện nay là mục tiêu hàng
đầu, là điều kiện tiên quyết và vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp nói
chung, các công ty xây dựng nói riêng.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty xây dựng.
Lợi nhuận chính là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả cuối
cùng của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy
lợi nhuận chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố.
1.2.2.1 Nhân tố khách quan.

Nhân tố khách quan là nhân tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của
doanh nghiệp. Và doanh nghiệp chỉ có thể xem xét phân tích chứ không có
khả năng kiểm soát, điều chỉnh nó. Trong các công ty xây dựng thì nhân tố
khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận bao gồm các nhân tố sau :
* Điều kiện tự nhiên địa lý :
Do đặc trưng của các công ty xây dựng là tiến hành thi công ngoài trời
bởi vậy nó chịu ảnh hưởng rất lớn sự thay đổi của điều kiện tự nhiên địa lý.
Giả sử một công trình đang được tiến hành thi công thì đột nhiên xẩy ra lủ lụt
lớn đã làm cho vật liệu một phần hư hỏng một phần bị cuốn trôi gây tổn thất
lớn cho công ty. Hoặc cũng có thể chỉ là trời mưa to, rét đậm thôi cũng đủ làm
đình trệ tiến độ thi công của công trình...Nhưng nhân tố này doanh nghiệp
không thể lường trước được. Bởi thế mà đôi khi nó đã khiến cho tài sản của
công ty bị tổn thất nặng nề, chi phí cho thi công càng tăng cao thêm từ đó mà
lợi nhuận của công ty càng giảm sút đáng kể.
* Cơ chế quản lý và các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước :
Các chính sách quản lý kinh tế của nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các chính sách này có thể sẽ
có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của công ty nếu như chúng phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế nói chung và của chính các công ty xây
dựng nói riêng. Ngược lại nếu các chính sách đó không phù hợp thì chúng sẽ


19
cản trở kìm hãm sự phát triển của công ty thông qua sự ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu kết quả kinh doanh trong công ty. Các chính sách của nhà nước có thể là
các chính sách về thuế, chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách khuyến khích
xuất, nhập khẩu....Cụ thể về sự tác động của chính sách thuế như sau. Hiện
nay nhà nước quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đối với các
công ty đang trong quá trình cổ phần hoá. Và năm thứ 3 thì chỉ phải nộp một
nửa so với số thuế thực tế phải nộp. Rõ ràng chính sách này đã có tác động rất

tích cực đến lợi nhuận của công ty.
Như vậy với nhân tố này đòi hỏi các công ty xây dựng phải thường
xuyên cập nhật thông tin, nhanh nhạy nắm vững các chính sách quản lý của
nhà nước để từ đó kịp thời thay đổi sao cho phù hợp, đồng thời qua đó có thể
tận dụng lợi thế nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của chính
mình.
*Đối thủ cạnh tranh của công ty trên thị trường :
Những công ty có cùng mặt hàng kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, thị
trường tiêu thụ với công ty thì đó chính là đối thủ cạnh tranh của công ty trên
thị trường. Như vậy đối thủ cạnh tranh của các công ty xây dựng chính là tất
cả những công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lỉnh vực xây dựng.
Và cụ thể hơn đối thủ cạnh tranh của Vinaconex_1 chính là các công ty như :
Tổng công ty xây dựng Hà Nội, Công ty xây dựng Sông Đà...
Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Trong mỗi lĩnh vực kinh doanh có rất
nhiều sản phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau làm thị
phần bị chia nhỏ và tất yếu dẫn đến lợi nhuận giảm. Môi trường cạnh tranh
khốc liệt chỉ chấp nhận doanh nghiệp nào kinh doanh có hiệu quả và đào thải
doanh nghiệp yếu kém. Thể hiện sự cạnh tranh rõ nhất trong ngành xây dựng
đó là hoạt động đấu thầu. Để có thể thắng thầu công ty cần phải có rất nhiều
yếu tố. Ví dụ như là uy tín, khả năng tài chính hiện tại, quy trình công nghệ


20
mà công ty sẽ áp dụng và quan trọng hơn cả là giá mà công ty đưa ra đấu
thầu...Ta có thể thấy nếu các đối thủ cạnh trạnh của công ty là nặng ký thì
công ty sẽ ngày càng mất dần thị trường, ‘‘mất thị trường là mất tất cả’’ cho
nên các đối thủ luôn là mối hiểm hoạ đối với công ty. Đây là một nhân tố
khách quan bên ngoài mà các doanh nghiệp không kiểm soát được. Bởi vậy
mà doanh nghiệp phải luôn chủ động linh hoạt tìm hiểu thị trường và các đối

thủ cạnh tranh đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của
mình từ đó sẽ nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
* Tình hình giá cả trên thị trường :
Giá cả cũng là một nhân tố khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận trong
kỳ của các công ty xây dựng. Do đặc điểm kinh doanh của công ty xây dựng
thường là thi công trong thời gian dài nên sự biến động của giá cả trên thị
trường sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào qua đó ảnh hưởng đến tổng chí phí
mà công ty phải bỏ ra, đến giá thành sản phẩm từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận
của công ty. Đặc biệt khi nền kinh tế tồn lạm phát cao, giá cả đầu vào lại tăng
nhanh hơn nhiều so với giá của đầu ra thì không những lợi nhuận của công ty
sẽ giảm sút mà còn có thể đẩy các công ty xây dựng đến bên bờ vực của sự
phá sản.
* Lãi suất trên thị trường :
Hoạt động kinh doanh của công ty xây dựng đòi hỏi phải có nguồn vốn
lớn. Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, thì vốn đi vay của các công ty xây dựng
thường chiếm tỷ trọng khá lớn. Chính vì vậy, sự thay đổi lãi suất thị trường là
vấn đề quan trọng, bởi nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động bằng vốn vay. Khi
đó nếu các yếu tố khác không thay đổi thì lãi suất thị trường tăng lên, tiền lãi
công ty phải trả cho các khoản vay tăng lên do đó mà lợi nhuận của công ty sẽ
giảm xuống.
*Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật :


21
Khoa học công nghệ sẽ là cơ hội nhưng cũng sẽ là thách thức lớn đối
với các công ty xây dựng. Trình độ khoa học công nghệ đang thay đổi hàng
ngày, nếu các công ty xây dựng sớm áp dụng những công nghệ tiên tiến được
nhập khẩu từ nước ngoài thì sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm xây lắp qua đó lợi nhuận của công ty sẽ tăng lên. Tuy nhiên
cũng có thể việc thay đổi công nghệ sẽ làm tăng hao mòn vô hình và đòi hỏi

công tác đầu tư đổi mới tài sản. Từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty.
Mặc dù các công ty xây dựng không thể kiểm soát được các nhân tố này,
song có thể giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của nó đến lợi nhuận bằng cách
tích cực dự báo thời tiết, dự báo những biến động có thể xẩy ra của thị trường
để tự đó có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
1.2.2.2. Nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quản là các nhân tố xuất phát từ nội tại của doanh nghiệp
mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được. Ở các công ty xây dựng, nhân tố chủ
quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty chủ yếu là : công tác quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh, các quy chế tài chính trong công ty, chất lượng của
các công trình, trình độ cán bộ quản lý và của người lao động...
*Quy mô sản xuất :
Các công ty có quy mô khác nhau chắc chắn sẽ thu được lợi nhuận
khác nhau. Cụ thể ở những công ty lớn hơn, mặc dù công tác quản lý kém
hiệu quả nhưng lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những công ty có công
tác quản lý tốt nhưng do quy mô nhỏ hơn. Chúng ta có thể thấy được các công
ty có quy mô lớn sẽ có rất nhiều ưu thế. Ví dụ như về mặt tài chính, về việc
khả năng đương đầu với các loại rủi ro, đặc biệt công ty có thể tiết kiệm được
chi phí nhờ quy mô. Hơn thế nữa, với quy mô lớn thì khi tiến hành mua
nguyên vật liệu đầu vào công ty có thể thương lượng được với nhà cung cấp
không chỉ về giá mà còn cả về thời hạn và dịch vụ thanh toán giao hàng. Tất
cả những yếu tố đó sẽ có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty


22
* Công tác quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty :
Quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện ở việc phân công
hợp lý công việc cho mỗi nhân viên nhằm đảm bảo nhân viên có một môi
trường làm việc tốt, phát huy tối đa năng lực cá nhân và hoàn thành xuất sắc
công việc của mình. Hay là việc cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động kinh doanh

sao cho phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, phối hợp liên kết
giữa các phòng ban, các đội để thực hiện quản lý một cách chặt chẽ và hiệu
quả nhất... Nếu công tác quản lý doanh nghiệp tốt làm cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trôi chảy và đạt hiệu quả cao, tăng doanh thu
và cắt giảm chi phí không cần thiết từ đó làm tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Ngược lại, nếu công tác quản lý doanh nghiệp không tốt sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và làm cho chỉ tiêu lợi
nhuận giảm.
* Khả năng tài chính của công ty
Khả năng tài chính của công ty thể hiện qua khả năng huy động vốn và
quy mô nguồn vốn từ công ty. Khả năng tài chính là điều kiện quan trọng để
công ty có thể phát triển một cách bền vững. Thật vậy, một công ty có khả
năng tài chính tốt sẽ giúp công ty tự chủ trong hoạt động kinh doanh, có thể
theo đuổi những dự án kinh doanh lớn để nâng cao lợi nhuận cho công ty.
Đồng thời đó cũng chính là thế mạnh của công ty khi tham gia cạnh tranh trên
thị trường.
* Cơ cấu mặt hàng kinh doanh:
Cơ cấu mặt hàng kinh doanh tác động đến việc tiêu thụ hàng hoá từ đó
ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu công ty lựa chọn mặt hàng kinh doanh
phù hợp với thị trường đồng thời khai thác triệt để thế mạnh của mình là lĩnh
vực xây dựng thì sẽ là nền tảng cho sự thành công của công ty. Mỗi một sản
phẩm xây lắp hay mỗi một công trình đưa lại cho công ty những khoản lợi
nhuận khác nhau, sự thay đổi tỷ trọng số lượng của mỗi loại sản phẩm tất yếu


23
sẽ dẫn đến lợi nhuận của công ty thay đổi. Bởi vậy các công ty xây dựng phải
biết được đâu là thế mạnh thực sự của mình để từ đó phát huy, tăng lợi nhuận
cho công ty.
* Chất lượng sản phẩm của công ty:

Đối với các công ty xây dựng thì chất lượng sản phẩm ở đây được thể
hiện là độ bền của các công trình qua thời gian sử dụng. Dù trong hoàn cảnh
nào đi chăng nữa thì chất lượng sản phẩm vẫn là vấn đề được đặt lên hàng
đầu, là một vũ khí cạnh tranh sắc bén và đạt hiệu quả cao, tăng uy tín cho
công ty. Việc nâng cao chất lượng, đổi mới kiểu dáng mẫu mã sản phẩm sẽ là
một động lực thu hút người tiêu dùng chấp nhận, từ đó nâng cao uy tín của
công ty và mở rộng thị trường hoạt động, như vậy lợi nhuận cũng được nâng
cao.
* Năng lực của cán bộ quản lý và của người lao động trong công ty:
Đây là nhân tố chủ quan ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các công ty nói chung và chỉ tiêu lợi nhuận nói riêng. Bởi lẽ
nhà quản lý chính là người quyết định và điều khiển toàn bộ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty từ khâu mua nguyên liệu, tiến hành thi
công, hoàn thành và bàn giao công trình. Một đội ngũ cán bộ có năng lực, tinh
thần trách nhiệm cao cùng với những người lao động giỏi là điều kiện để các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục và đạt năng
suất cao từ đó tăng lợi nhuận. Do đó hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp coi
nhân tố con người là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của doanh
nghiệp.
* Chế độ lương và cơ chế khuyến khích người lao động :
Tiền lương và cơ chế khuyến khích người lao động có ảnh hưởng rất
quan trọng đến thái độ và ý thức làm việc của họ. Một mức lương tương
xứng với mức công hiến và chế độ đãi ngộ hợp lý, gắn với hiệu quả công việc
sẽ tạo động lực nâng cao năng suất lao động trong công ty, từ đó tăng lợi


24
nhuận. Tuy nhiên chính sách này có tác động hai chiều. Nếu tốc độ tăng của
chi phí tiền lương nhỏ hơn tốc độ tăng của năng suất lao động thì sẽ có tác
động tích cực đến lợi nhuận của công ty. Ngược lại làm giảm lợi nhuận của

công ty thì công ty nên thay đổi chính sách sao cho phù hợp với tinh hình hiện
tại của công ty.
* Chi phí huy động vốn.
Việc công ty sử dụng bất kỳ nguồn vốn nào cũng phải chịu một khoản
chí phí nhất định. Và chi phí sử dụng của mỗi nguồn vốn khác nhau sẽ khác
nhau, và chúng trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vôn bình quân trong
công ty. vốn sẽ có ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Từ đó cũng có thể
gián tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận trong toàn công ty.
Ngoài ra còn có một nhân tố chủ quan khác ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp phải kể đến như: Phương thức thanh toán, chiến lược chiếm
lĩnh thị trường, chu kỳ sản xuất kinh doanh...Đây là các nhân tố mà doanh
nghiệp có thể kiểm soát và khống chế được. Do vậy các doanh nghiệp luôn
phải kiểm soát các nhân tố này, xem xét mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
đến chỉ tiêu lợi nhuận. Từ đó phát huy ảnh hưởng tích cực và loại trừ các ảnh
hưởng tiêu cực để lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng.
1.3. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU TĂNG LỢI NHUẬN TRONG CÔNG TY XÂY
DỰNG.

Xuất phát từ công thức tính tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Do đó ta có thể tăng lợi nhuận bằng cách tăng doanh thu hoặc tối thiểu
hoá chi phí, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Mỗi một công ty
với những lỉnh vực hoạt động sản xuất khác nhau thì sẽ có những biện pháp
để tăng doanh thu khác nhau. Tuy nhiên các biện pháp này phải được kết hợp
chặt chẽ với nhau thi mới phát huy hết hiệu quả của nó
1.3.1. Các giải pháp tăng doanh thu.


25
1.3.1.1. Nâng cao chất lượng các sản phẩm mà công ty sản xuất ra.

Sản phẩm của các công ty xây dựng thường cung cấp những nhu cầu cơ
bản như nhà ở, nước uống, đường sá, trường học, bệnh viện...Việc tạo ra các
sản phẩm xây dựng đó không những có ý nghĩa về mặt kinh tế trên thị trường
mà còn có ý nghĩa cả về mặt xã hội sâu sắc. Như vậy đối tượng sử dụng sản
phẩm xây dựng không chỉ một hay hai người mà là cả cộng đồng. Điều đó cho
các công ty xây dựng biết rằng muốn ngày càng nhận được nhiều công trình hơn
nữa, muốn tăng doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh... thì phương thức
quảng cáo hữu hiệu nhất là phải làm hài lòng người sử dụng bằng cách không
ngừng nâng cao chất lượng cho những sản phẩm của công ty mình.
1.3.1.2. Lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý và thu hồi công nợ.
Ngành xây dựng với đặc thù là thời gian hoàn thành sản phẩm có thể
kéo dài trong nhiều năm, nên phương thức thanh toán trong các công ty xây
dựng khác với phương thức thanh toán trong các hợp đồng mua hàng hoá
thông thường. Bởi vậy, để tránh chịu sự ảnh hưởng của biến động giá cả và
không bị chiếm dụng vốn thì cần tiến hành tốt công tác thanh toán theo từng
hạng mục công trình hoặc theo giai đoạn quy ước của công trình và tiến hành
thu hồi công nợ.
1.3.1.3. Tiến hành định giá công trình chính xác.
Định giá trong ngành xây lắp chính là xác định giá trị của các công việc
đã thực hiện. Việc định giá có thể cũng phải dựa vào nhiều căn cứ, nhưng yêu
cầu căn cứ đầu tiên mà công ty phải dựa vào đó chính là dựa trên toàn bộ chi
phí mà công ty phải bỏ ra trong quá trình thi công bao gồm chi phí trực tiếp
và chi phí gián tiếp. Để tập hợp được chi phí trong xây dựng khá phức tạp, bởi
vậy đòi hỏi các công ty xây dựng phải thật cân nhắc khi xác định giá trị công
trình sao cho phải đảm bảo bù đắp được toàn bộ chi phí đã bỏ ra, đủ trả lương
cho người lao động và có lợi nhuận thoả đáng để thực hiện tái sản xuất mở rộng.


×