Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ ƯU TIÊN TRONG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332 KB, 61 trang )

KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

DIỄN ĐÀN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VỀ MÔI TRƯỜNG

163


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ
ƯU TIÊN TRONG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Những năm qua, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm xây dựng các thể chế, chính
sách, các kế hoạch hành động cụ thể hướng tới sự phát triển bền vững đất nước, hoà nhập
với cộng đồng quốc tế.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2010 đã khẳng định
quan điểm phát triển của Việt Nam là "phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường".
Nhiều văn kiện như: Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam - Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam, Báo cáo Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên hợp quốc đã thể hiện đầy đủ cam kết của
Nhà nước và Chính phủ Việt Nam trước cộng đồng quốc tế về việc thực hiện các mục
tiêu phát triển bền vững.
Các quan điểm về môi trường và phát triển bền vững đã được Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định và đã được cụ
thể hoá trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 và Chương trình Nghị sự 21. Đặc biệt, trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi
vừa được Quốc hội thông qua, các nội dung cơ bản như vừa được trình bày ở trên đã


được đưa vào và sẽ trở thành những chế tài quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ môi
trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Trong số 19 nhóm lĩnh vực cần ưu tiên nhằm
phát triển bền vững đặt ra trong Chương trình Nghị sự 21 có 9 lĩnh vực tài nguyên thiên
nhiên và môi trường. Trong đó quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một trong ba
trụ cột chính của phát triển bền vững.
Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm
những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, các địa phương, các tổ chức
và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm đảm bảo phát
triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21. Trong đó, phát triển bền vững về tài nguyên và
môi trường tập trung vào những hoạt động của 9 lĩnh vực:

164


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

- Sử dụng hợp lý, bền vững và chống thoái hoá tài nguyên đất;
- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước;
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên khoáng sản;
- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển;
- Bảo vệ và phát triển rừng;
- Giảm thiểu ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp;
- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại;
- Bảo tồn đa dạng sinh học;
- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí
hậu góp phần phòng chống thiên tai.
Với 9 lĩnh vực đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bám sát các nhiệm vụ và tích
cực triển khai thực hiên, đồng thời chủ động phối hợp với các Bộ ngành liên quan trong
quá trình thực hiện.
A. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN

Thực hiện Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 8 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kiện toàn tổ chức Ban chỉ đạo, ban hành Quy chế
hoạt động của Ban chỉ đạo Định hướng chiến lược phát triển bền vững ngành tài nguyên
và môi trường, Ban Cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Nghị quyết
số 27-NQ/BCSĐTNMT ngày 02 tháng 12 năm 2009 về việc đẩy mạnh kinh tế hóa ngành
tài nguyên và môi trường.
Trong giai đoạn 2006-2010, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành trong
Ủy ban phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường đã phối hợp với các cơ quan liên
quan tập trung xây dựng trình Chính phủ ban hành và tổ chức ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật trong đó lồng ghép các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên nhằm thực hiện phát
triển bền vững của ngành và tổ chức triển khai các văn bản quy phạm pháp luật này, đã
đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
I. SỬ DỤNG HỢP LÝ, BỀN VỮNG VÀ CHỐNG THOÁI HOÁ TÀI NGUYÊN
ĐẤT, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VÀ BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN ĐẤT

165


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

- Về cơ chế, chính sách, luật pháp: đã ban hành được các hệ thống Văn bản quy
phạm pháp luật khá đầy đủ, gồm Quyết định số 204/2006/QĐ-TTg ngày 02 tháng 09 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình hành động quốc gia chống sa
mạc hóa giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 1305/QĐBNN-TCCB ngày 02 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc Thành lập Văn phòng thường trực Công ước chống sa mạc hóa; Nghị
quyết số 57/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Quốc hội về kế hoạch sử dụng đất
5 năm 2006-2010 của cả nước; Quyết định số 16/2006/QĐ-BTNMT ngày 19 tháng 10
năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành đơn giá lập và điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước và của vùng; Quyết định số

20/2007/QĐ-BTNMT ngày 07 tháng 12 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật thống kê, kiểm kê đất đai và thành
lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Về cơ bản đã bổ sung, hoàn chỉnh về hệ thống chính
sách luật pháp về đất đai, tiến hành điều tra cơ bản về đất và quy hoạch lại sử dụng đất
hiệu quả và bền vững, xác lập quyền sử dụng đất đối với các thành phần kinh tế, lồng
ghép chính sách quốc gia với quốc tế trong việc chống thoái hoá, ô nhiễm môi trường đất.
Về cơ bản hoàn thành việc lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010,
kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010 các cấp. Với việc ban hành Thông tư số
19/2009/TT-BTNMT ngày 02 tháng 11 năm 2009 quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh và
thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hướng dẫn
các địa phương có cơ sở pháp lý để xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế
hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2015, từng bước nâng cao chất lượng, trở thành công cụ
đắc lực cho các nhà quản lý.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên
tịch số 02/2010/TTLT-BTNMT-BTC ngày 08 tháng 01 năm 2010 hướng dẫn xây dựng,
thẩm định, ban hành bảng giá đất và điều chỉnh bảng giá đất thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay thế Thông tư số 80/2005/TTBTC ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Bộ Tài chính nhằm khắc phục tình trạng giá đất do
các địa phương quy định chưa sát với giá đất thị trường trong điều kiện bình thường.
Chính sách quản lý đất đai đã được hoàn thiện một bước, năng lực và phẩm chất của
cán bộ quản lý đất đai tại các địa phương được nâng cao, số vụ khiếu kiện liên quan đến
đất đai đang có xu hướng giảm dần tuy nhiên vẫn ở mức cao.
Xây dựng, hoàn thiện và triển khai các dự án, đề án lớn của Chính phủ trong lĩnh
vực đất đai phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như: Đề án tạo quỹ đất của Nhà

166


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

nước phục vụ các mục tiêu công ích, chính sách xã hội, điều tiết thị trường đất đai và hỗ

trợ tái định cư; Báo cáo tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất trên phạm vi cả nước theo Chỉ thị số 31/2007/CT-TTg
ngày 14 tháng 12 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án Đổi mới chính sách liên
quan đến đất đai, giải quyết những vướng mắc trong công tác đền bù, thu hồi đất để phát
triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị, hạ tầng kinh tế - xã hội thực hiện phân công của Thủ
tướng Chính phủ về chuẩn bị Đề án triển khai nghị quyết trung ương 9 (khóa X) theo
Công văn số 3131/VPCP-TH ngày 15 tháng 5 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ; Dự
án cắm mốc ranh giới, đo đạc bản đồ địa chính đất nông, lâm trường quốc doanh theo chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ; Đề án hệ thống thông tin đất đai quốc gia (hợp phần thuộc
đề án Hệ thống thông tin tài nguyên và môi trường quốc gia, nhằm cung cấp thông tin, dữ
liệu về đất đai và thực hiện quản lý nhà nước về đất đai đối với tài nguyên đất quốc gia
hiệu quả),...
- Về kinh tế: Góp phần phát triển kinh tế trên cơ sở xây dựng các mô hình nông lâm - ngư nghiệp liên hoàn trên các vùng sinh thái khác nhau không chỉ đảm bảo về hiệu
quả kinh tế mà còn đảm bảo cân bằng sinh thái, ổn định lâu dài. Đã có những chính sách
nhằm hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang
mục đích sử dụng khác.
Kinh phí đầu tư từ ngân sách địa phương phần lớn đang khó khăn, không đảm bảo
đáp ứng yêu cầu hoàn thành cấp Giấy chứng nhận và xây dựng hồ sơ địa chính hiện nay.
Bên cạnh đó việc không thu phí đo đạc khi cấp Giấy chứng nhận lần đầu theo quy định
tại Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16 tháng 10 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng
dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã gây khó khăn cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất khi
thực hiện cấp Giấy chứng nhận lần đầu cho các trường hợp riêng lẻ. Lệ phí trước bạ cao
(0,5% tiền sử dụng đất), là trở ngại đối với phần lớn các trường hợp cấp Giấy chứng nhận
lần đầu, đặc biệt ở vùng nông thôn.
- Về xã hội: Đảm bảo các giải pháp an ninh lương thực, định canh định cư, giảm
nghèo đặc biệt là khu vực nông thôn và miền núi. Nâng cao nhận thức cộng đồng về sử
dụng và tiết kiệm đất, phổ biến tuyên truyền các mô hình tiên tiến sử dụng đất bền vững.
Khuyến khích triển khai các mô hình làng sinh thái.
Đến tháng 5 năm 2010, tính chung cho các loại đất chính (đất sản xuất nông nghiệp,

đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng, đất cơ sở tôn giáo), cả nước có 19 tỉnh cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đạt trên 90% diện tích cần cấp, 16 tỉnh đạt từ 80% đến
90%, 18 tỉnh đạt từ 70% đến dưới 80%, 10 tỉnh đạt dưới 70%. Kết quả cấp Giấy chứng

167


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

nhận quyền sử dụng đất của cả nước còn chậm so với yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu do
hệ thống các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hiện nay đang khó khăn về kinh phí,
thiếu nhân lực thực hiện, phải thực hiện theo cơ chế tự chủ, trong khi hầu hết các trường
hợp đăng ký ban đầu, đăng ký biến động và đăng ký thế chấp đều được miễn các loại phí
và lệ phí.
- Về kỹ thuật: Tổ chức nghiên cứu, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, thâm
canh sử dụng đất, quản lý lưu vực để bảo vệ đất và nước.
Về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ đo đạc bản đồ địa chính: cả nước đã thực hiện
đo đạc lập bản đồ địa chính với tổng diện tích 23.165.175 ha (đạt 70,1% tổng diện tích tự
nhiên); diện tích đã đo vẽ thành lập bản đồ địa chính chính quy của cả nước là
21.444.412,85 ha, chiếm 64,89% tổng diện tích tự nhiên; hoàn thành cơ bản việc đo vẽ
bản đồ địa chính khu vực đất lâm nghiệp tại 17 tỉnh thuộc phạm vi Dự án đo đạc và giao
đất, cấp giấy chứng nhận đất lâm nghiệp theo Quyết định số 672/QĐ-TTg ngày 28 tháng
4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện trích đo địa chính cho hơn 100.000 tổ
chức đang sử dụng đất theo Chỉ thị số 31/2007/CT-TTg ngày 14 tháng 12 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm kê quỹ đất đang quản lý, sử dụng của các tổ chức
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Về tình hình kiểm kê đất đai, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, tổng diện tích tự
nhiên của cả nước là 33.105.136 ha, trong đó 28.596.498 ha đất đã được sử dụng vào các
mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp, 4.508.638 ha đất chưa được sử dụng, chiếm tỷ
lệ lần lượt là 86,38% và 13,62% tổng diện tích tự nhiên. Trong tổng diện tích tự nhiên

của cả nước năm 2008, diện tích đất đã được giao cho các loại đối tượng sử dụng là
24.134.922 ha (chiếm 72,90% tổng diện tích tự nhiên); trong đó, diện tích đất giao cho hộ
gia đình và cá nhân sử dụng chiếm tỷ lệ cao nhất 42,35% tổng diện tích tự nhiên
(14.019.077 ha). Năm 2008, diện tích đất được giao cho các đối tượng để quản lý là
8.970.214 ha, chiếm 27,10% tổng diện tích tự nhiên của cả nước.
II. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC VÀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI
NGUYÊN NƯỚC
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã ban
hành và lồng ghép các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển bền vững, gồm Nghị định số
112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, bảo vệ, khai
thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi; Nghị định số
120/2008/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về quản lý lưu vực sông;
Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ

168


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

phê duyệt Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020; Quyết định số
15/2008/QĐ-BTNMT ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường ban hành quy định bảo vệ tài nguyên nước dưới đất; Quyết định số 05/2003/QĐBTNMT ngày 04 tháng 9 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Ban
hành Quy định về cấp phép thăm dò, khai thác và hành nghề khoan nước dưới đất; Quyết
định số 174/2006/QĐ-TTg ngày 28 tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái cảnh quan lưu
vực sông Cầu; Quyết định số 187/2007/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng
Nai đến năm 2020. Các văn bản này đã từng bước hoàn thiện và xây dựng các chính sách
và luật pháp về bảo vệ, sử dụng và quản lý nguồn nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường, nâng cao năng lực cho các cơ quan chính quyền trong việc quản lý tài nguyên

nước, nghiên cứu phương án sử dụng nước lâu dài nhằm cân đối nguồn nước trên quy mô
quốc gia và từng vùng, xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn môi trường nước quốc gia,
kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, điều tra và xây dựng cơ
sở dữ liệu phục vụ cho quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, tăng cường hợp tác quốc tế
trong việc sử dụng, quản lý và bảo vệ các nguồn nước trong lưu vực dùng chung giữa
Việt Nam và các nước láng giềng.
- Về kinh tế: Tổ chức xây dựng và thực hiện chương trình điều tra cơ bản, xây dựng
các dự án quản lý nguồn nước ở các vùng đặc thù, tiến hành nghiên cứu sửa đổi và hoàn
thiện hệ thống thuế, phí khai thác và sử dụng nước theo nguyên tắc “người sử dụng nước
phải trả tiền” và “người gây ô nhiễm nguồn nước phải trả tiền”, hướng tới tài nguyên
nước sẽ là nguồn lực đóng góp đáng kể cho ngân sách quốc gia.
- Về xã hội: Góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc sử dụng hợp lý, tiết
kiệm và bảo vệ nguồn tài nguyên nước; khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào các
hoạt động bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên nước. Về cấp giấy phép tài nguyên
nước, đến năm 2009, cả nước đã cấp trên 5.000 giấy phép (bao gồm: giấy phép thăm dò
nước dưới đất; khai thác, sử dụng tài nguyên nước (nước mặt, nước dưới đất); xả nước
thải vào nguồn nước), trong đó có hơn 400 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước,
chiếm khoảng 8%.
- Về kỹ thuật: Đẩy mạnh xây dựng mô hình và áp dụng các công nghệ xử lý nước
thải, khuyến khích sử dụng các công nghệ trong sản xuất giảm lượng nước thải, tái sử
dụng nước thải, tiết kiệm nước. Khắc phục tình trạng thiếu nước về mùa khô và điều phối
nguồn nước liên hồ chứa về mùa mưa.
Công tác điều tra cơ bản và đánh giá tổng hợp về tài nguyên nước đã được đẩy

169


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

mạnh. Tài nguyên nước mặt tại một số lưu vực sông lớn, vùng kinh tế trọng điểm, vùng

kinh tế xã hội, một số đảo lớn quan trọng cũng như tình hình khai thác, sử dụng nước và
xả nước thải vào nguồn nước đã được tiến hành điều tra, đánh giá; một số vùng, khu vực
khó khăn về nguồn nước đã được điều tra, đánh giá để tìm kiếm các đối tượng chứa nước,
phát hiện các điểm chứa nước dưới đất.
Atlat điện tử và bộ bản đồ dạng số lưu vực sông của toàn bộ hệ thống sông, suối
Việt Nam (khoảng 2.600 sông, suối) đang được hoàn chỉnh để công bố và chuyển giao
cho 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan, đơn vị liên quan khai thác.
Đây là một cơ sở, nền tảng hết sức quan trọng phục vụ công tác điều tra, đánh giá tài
nguyên nước và công tác quản lý tài nguyên nước ở Trung ương và các địa phương.
Về quan trắc tài nguyên nước, hoàn thiện, nâng cấp mạng lưới quan trắc tài nguyên
nước dưới đất đã xây dựng ở ba vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và Tây
Nguyên. Xây dựng mới mạng lưới quan trắc tài nguyên nước tại nhiều địa phương .
III. KHAI THÁC HỢP LÝ VÀ SỬ DỤNG TIẾT KIỆM, BỀN VỮNG TÀI
NGUYÊN KHOÁNG SẢN
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: Trong những năm qua đã tập trung xây dựng
và triển khai Quyết định số 116/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020. Từng bước tiến hành xây dựng và hoàn thiện các
công cụ kinh tế, hành chính và chế tài pháp luật nhằm thực hiện kiên quyết và có hiệu
quả hơn Luật khoáng sản, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý khai thác và sử dụng tài
nguyên khoáng sản ở Trung ương và các địa phương.
- Về kinh tế: việc khai thác khoáng sản dần ổn định và nền nếp, hoàn thiện được cơ
chế trong đầu tư khai thác, phải tính toán một lượng tiền phù hợp cho khâu phục hồi hoàn
trả đất, tái tạo và cải thiện môi trường sinh thái ở các địa bàn khai thác mỏ. Thực hiện
nghiêm túc ký quỹ phục hồi môi trường đối với những mỏ khai thác khoáng sản. Đang
quá trình xây dựng quy chế và hướng tới đấu thầu thăm dò, khai thác mỏ trong tương lai.
Các đề án thống kê, kiểm kê tài nguyên khoáng sản; thanh tra hoạt động khoáng sản đã
được thực hiện, bước đầu đã đưa các hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản đi vào nền
nếp theo quy định của pháp luật.
- Về xã hội: Hạn chế tối đa làm xáo trộn cuộc sống của người dân tại khu vực tiến

hành khai thác khoáng sản, thu hút lực lượng lao động địa phương tham gia vào hoạt
động này để đời sống của họ được nâng cao hơn trước, hạn chế các tệ nạn xã hội phát
sinh ở khu vực khai thác khoáng sản, nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư; khuyến

170


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản, đặc biệt là
các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ nhạy cảm cao về kinh tế, dễ gây ô
nhiễm môi trường.
- Về kỹ thuật: Đã có nhiều đổi mới, phát triển công nghệ khai thác, sàng tuyển và chế
biến nhằm tiết kiệm tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường; áp dụng các công nghệ
tiên tiến để sử dụng các loại quặng có hàm lượng thấp; thu hồi các chất hữu ích từ các bãi
thải quặng; thực hiện bồi hoàn các dạng tài nguyên sau khai thác như hoàn thổ, trồng cây
xanh, khôi phục thảm thực vật… Công tác lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ
1/50.000 về cơ bản đã hoàn thành trên những diện tích quan trọng, có nhiều phát hiện mới
giá trị về địa chất, khoáng sản; làm sáng tỏ thêm về cấu trúc, kiến tạo vùng lãnh thổ phục
vụ cho việc sử dụng vào các lĩnh vực quốc phòng, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, du
lịch, cơ sở kinh tế cũng như công tác an sinh và phòng chống thiên tai.
Nhiệm vụ điều tra, đánh giá khoáng sản đã phát hiện và xác định được triển vọng
nhiều loại khoáng sản có giá trị như titan, uran, đồng, chì – kẽm, magnezit, đất hiếm,
bauxite, đá vôi xi măng, nước khoáng và các khoáng chất công nghiệp, tạo cơ sở cho
công tác thăm dò, bảo đảm nguồn nguyên liệu đầu tư khai thác, chế biến, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế quốc dân.
Việc lập quy hoạch điều tra cơ bản về địa chất và tài nguyên khoáng sản, quy hoạch
thăm dò khai thác, chế biến khoáng sản về cơ bản đã hoàn thành và được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Nhiều bản đồ địa chất tai biến, bản đồ khoanh vùng diện tích có
khoáng sản độc hại cũng đã được thành lập và cung cấp kịp thời cho các tỉnh, thành, các

ngành có liên quan sử dụng, quản lý, ngăn ngừa, giảm thiểu các hậu quả xấu do thiên tai
gây ra.
IV. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN, VEN BIỂN, HẢI ĐẢO VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI NGUYÊN BIỂN
- Về cơ chế, chính sách và pháp luật: đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
gồm Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 2009 của Chính phủ quy định về
quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, Quyết định số
47/2006/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
"Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010,
tầm nhìn đến năm 2020"; Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 09 tháng 10 năm 2007
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương chình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết
định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về “Đề án đẩy mạnh

171


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo”; Quyết
định số 568/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 về “Chương trình phát triển kinh tế đảo Việt Nam
đến năm 2020”; Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 về “Phê quyệt quy hoạch
tổng thể hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020”; Quyết định số 796/QĐTTg ngày 03/6/2010 về “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí
Hydrat ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Các văn bản này đã góp phần tích cực
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và quản lý tài nguyên, môi trường biển theo
quan điểm phát triển bền vững; hình thành một thể chế liên ngành, thống nhất quản lý
vùng biển và bờ biển; tiến dần đến khoán, giao quyền sử dụng mặt biển trong phạm vi
cho phép cho người sản xuất nhằm tạo điều kiện thúc đẩy nghề nuôi trồng thuỷ sản; tham
gia và lập kế hoạch thực hiện các hiệp định và chương trình hành động quốc tế và khu
vực về đánh cá, sử dụng bền vững và bảo vệ nguồn lợi biển, bảo vệ đa dạng sinh học

biển. Khai thác các tiềm năng và lợi thế khác của biển cũng như bảo vệ toàn vẹn biển và
Hải đảo Việt Nam.
Trong thời gian qua, Bộ đã chủ trì xây dựng và triển khai thực hiện Đề án tổng thể
về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến
năm 2020 theo Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ (Đề án 47); bao gồm danh mục 20 dự án do các Bộ/ngành liên quan
cùng phối hợp thực hiện. Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nhiệm vụ
chủ trì 12 dự án, nhiệm vụ, đồng thời là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Nhà nước về
điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển. Ngoài ra, Bộ đang chỉ đạo tập trung triển
khai hàng loạt các dự án quan trọng khác như: Chương trình quản lý tổng hợp dải ven
biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 (Chương trình 158); Kế hoạch thực hiện tuyên bố chung và Chương trình khung
giữa Việt Nam, Campuchia, Thái Lan về hợp tác sẵn sàng ứng phó với sự cố tràn dầu
vùng Vịnh Thái Lan (Chương trình 1278); Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản
lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam (Đề án 373); Các dự án hợp
tác quốc tế về biển đến năm 2020 (Đề án 80); dự án Xây dựng Quy hoạch hệ thống quan
trắc tài nguyên môi trường biển, hệ thống rađa biển; dự án Thành lập hệ thống bản đồ địa
hình đáy biển tỷ lệ 1/50.000 ở các khu vực quan trọng phục vụ nhiệm vụ quản lý biển của
các Bộ, ngành, địa phương liên quan (khu vực Cà Mau và các khu vực ngoài vùng lãnh
hải từ Quảng Ninh đến Quảng Bình); dự án Điều tra đặc điểm địa chất, khoáng sản, địa
chất môi trường vùng biển Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa - Quảng Bình) từ 0 - 65m nước tỷ
lệ 1/100.000; dự án Thống kê, kiểm kê, phân loại đánh giá tài nguyên thiên nhiên biển,
hải đảo giai đoạn từ 2010 đến 2015. Đề xuất một số giải pháp tăng cường năng lực quản
lý nhà nước về công tác thống kê, kiểm kê tài nguyên biển và hải đảo của Việt Nam.

172


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3


- Về kinh tế: Vấn đề đặt ra cho phát triển bền vững là cần phải tính toán hiệu quả
kinh tế trong các chương trình, dự án đối với việc đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ và
điều chỉnh nghề cá hợp lý; đầu tư hiệu quả phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ sản
trong nước lợ, nước mặn ven biển theo hướng hài hoà với môi trường, ổn định lâu dài;
phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá đáp ứng sự tăng trưởng không ngừng đối với ngành
này. Phát huy những ưu thế khác của biển để phát triển ngành kinh tế biển như vận tải
biển, du lịch biển, thăm dò và khai thác các tài nguyên khoáng sản biển và ven bờ.
- Về xã hội: Phát triển và đa dạng hoá các ngành nghề để tăng khả năng tạo việc
làm, xoá đói giảm nghèo cho các cộng đồng ngư dân ven biển, nâng cao trình độ văn hóa
và nhận thức của ngư dân khu vực này đối với lợi ích của việc khai thác sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.
- Về môi trường: Bảo vệ môi trường biển và quản lý đới bờ được xác định là nhiệm
vụ trọng tâm, phòng tránh và ngăn chặn kịp thời sự cố và tràn dầu trên biển, kiểm soát
chất thải và chất thải độc hại từ đại dương và các vùng biển khác đưa vào vùng biển nước
ta. Quy hoạch và bảo tồn các khu bảo tồn biển, khôi phục, duy trì đa dạng sinh học biển
và các hải đảo.
V. BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
- Về cơ chế, chính sách và pháp luật: Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành
Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng; Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ Quy định
về phòng cháy và chữa cháy rừng; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của
Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm; Nghị định số
48/2007/NĐ-CP ngày 28/3/2007 của Chính phủ về nguyên tắc và phương pháp xác định
giá các loại rừng; Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 14/01/2008 của Chính phủ về Quỹ
bảo vệ và phát triển rừng; Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng; Quyết định số 18/2007/QĐTTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát
triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 -2020; Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày
10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách phát triển rừng sản xuất; Quyết
định số 106/2006/QĐ-BNN ngày 27/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn về việc ban hành Bản Hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư nông

thôn, Quyết định số 46/2007/QĐ-BNN ngày 28/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Ban hành Quy định về việc xác định rừng trồng, rừng khoanh
nuôi thành rừng; Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN ngày 27/12/2007 của Bộ Nông

173


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

nghiệp và Phát triển nông thôn Ban hành Quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái
tại các Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên; Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày
24/9/2010 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng của Chính phủ sẽ có hiệu lực từ
ngày 1/1/2011. Về cơ bản các văn bản này đã củng cố hệ thống các văn bản quản lý Nhà
nước hướng dẫn sử dụng bền vững và bảo vệ tài nguyên rừng, đẩy mạnh việc giao đất,
khoán rừng cho các hộ gia đình và tập thể theo Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và phát triển
rừng; xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm thu hút đầu tư cho
việc phát triển và bảo vệ rừng.
- Về kinh tế: Tính toán hiệu quả kinh tế của các dự án trồng rừng để điều chỉnh quy
hoạch và đầu tư có trọng điểm, phát triển sản xuất hàng hóa đối với nghề trồng rừng gắn
với các cơ sở tiêu thụ sản phẩm gỗ. Hỗ trợ về vốn, khuyến khích nhân dân trồng và bảo
vệ rừng, sử dụng có hiệu quả đất rừng được giao khoán; xây dựng, ban hành và hướng
dẫn về miễn giảm thuế sử dụng đất, vay vốn với lãi suất ưu đãi cho việc đầu tư thành lập
trang trại; thúc đẩy phát triển nông-lâm nghiệp sinh thái; khuyến khích sử dụng bền vững
các sản phẩm rừng phi gỗ; triển khai mạnh mẽ các dự án trồng cây thuốc phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Thực hiện cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng
- Về xã hội: Nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư địa phương trong việc duy trì và
bảo vệ nguồn tài nguyên rừng tại nơi họ sinh sống. Thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm
nghèo và sinh kế cho người dân ở khu vực trung du, miền núi, đặc biệt là vùng sâu, vùng
xa những địa bàn phân bố rừng chủ yếu của Việt Nam. Tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
người dân địa phương dựa trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của địa phương đó. Nâng

cao nhận thức của người dân bản địa về lợi ích của việc duy trì và bảo vệ nguồn tài
nguyên rừng. Phát huy truyền thống văn hóa của người dân địa phương trong việc duy trì
và bảo vệ rừng đã có trước đây.
- Về kỹ thuật và công nghệ: Nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ mới trong sản xuất lâm nghiệp, khuyến khích trồng các loại cây bản địa trong tất cả
các hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng, áp dụng công nghệ khai thác và chế biến gỗ
hiện đại, có hiệu quả sử dụng tài nguyên rừng cao; khuyến khích sử dụng các loại nhiên
liệu để thay thế gỗ củi như than, khí ga và thuỷ điện quy mô nhỏ, nghiên cứu áp dụng các
giải pháp kỹ thuật phòng và chống cháy rừng và các thảm hoạ môi trường liên quan tới
việc mất rừng.
VI. GIẢM THIỂU Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ Ở CÁC ĐÔ THỊ VÀ KHU
CÔNG NGHIỆP

174


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

- Về thể chế, chính sách và pháp luật: Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành
gồm Quyết định số 249/2005/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính
phủ về quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông cơ
giới đường bộ, Quyết định số 328/2005/QĐ-TTg ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch quốc gia về kiểm soát ô nhiễm môi trường
đến năm 2010; Thông tư số 10/2009/TT-BTNMT ngày 11 tháng 8 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Bộ chỉ thị môi trường quốc gia đối với
môi trường không khí, nước mặt lục địa, nước biển ven bờ; Thông tư 08/2009/TTBTNMT ngày 15 tháng 7 năm 2009 quy định quản lý, BVMT khu KT, khu CN cao, KCN
và cụm CN. Các văn bản này nhằm từng bước thực hiện nghiêm ngặt đánh giá tác động
môi trường bắt buộc đối với các quy hoạch, các cơ sở sản xuất, các dự án phát triển kinh
tế-xã hội theo đúng quy định của luật pháp, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Tính đến nay, trong tổng số 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải hoàn
thành việc xử lý ô nhiễm triệt để, đã có 313 cơ sở được xử lý, chiếm tỷ lệ 71,3%, so với
chỉ tiêu đề ra là 70%.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn
về chất lượng môi trường không khí, khí thải công nghiệp làm cơ sở cho hoạt động kiểm
tra, giám sát nhằm có các giải pháp bảo vệ, cải thiện môi trường không khí đô thị, khu
công nghiệp. Năm 2010 đã đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm tại
các KCN, KCX trong toàn quốc
- Về kinh tế: Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, khuyến khích sử dụng năng
lượng sạch bằng các biện pháp kinh tế, áp dụng nguyên tắc "Người gây ô nhiễm phải trả
tiền". Có chế tài đủ mạnh đối với những cá nhân, tổ chức không chấp hành các quy định
nhằm hạn chế và giảm thiểu ô nhiễm không khí, nhất là lĩnh vực giao thông, xây dựng,
vận chuyển vật liệu xây dựng.
- Về xã hội: Tạo ra sự đồng thuận của xã hội phản đối những hành động gây ô
nhiễm môi trường không khí, ý thức bảo vệ môi trường không khí của người tham gia
giao thông, người làm xây dựng và hoạt động trong các cơ sở sản xuất cần được nâng
cao. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho chủ doanh nghiệp.
- Về khoa học, công nghệ: Khuyến khích sử dụng công nghệ sạch tại các cơ sở sản
xuất, nghiêm cấm nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, Tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến Sản xuất sạch hơn ở Việt Nam. Quy định

175


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

tiêu chuẩn phát thải và tuổi đời cho các phương tiện giao thông đang lưu hành, tiến tới
loại bỏ các phương tiện giao thông quá lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
không đảm bảo tiêu chuẩn quy định, nhất là ở các thành phố lớn.
VII. QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN VÀ CHẤT THẢI NGUY HẠI

- Về thể chế, chính sách và pháp luật: Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành
gồm Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm
hữu cơ khó phân hủy; Quyết định số 12/2006/QĐ-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về viêc ban hành Danh mục phế liệu được
phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; Quyết định số 15/2006/QĐ-BTNMT ngày 08
tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành danh
mục thiết bị làm lạnh sử dụng môi chất lạnh CFC cấm nhập khẩu; Quyết định số
23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc ban hành danh mục chất thải nguy hại; Thông tư 12/2006/TT-BTNMT
ngày 26/12/2006 Hướng dẫn thủ tục hành nghề và điều kiện lập hồ sơ đăng ký, cấp phép
hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại; Quyết định 2149/2009/QĐ-TTg của Thủ
tướng phê duyệt chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến 2025 và tầm
nhìn đến 2050. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này đã góp phần giúp lĩnh vực xây
dựng và ban hành kế hoạch kiểm soát ô nhiễm quốc gia do các chất thải rắn, lỏng, khí và
chất thải nguy hại gây ra, triển khai thực hiện tốt các quy định trong chiến lược quản lý
chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành;
xác định cơ chế tăng cường hoàn trả chi phí liên quan đến thu gom, phân loại, thu hồi và
xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại. Công tác quản lý chất thải và cải thiện môi
trường ngày càng được quan tâm hơn. Hoàn thành xây dựng “Kế hoạch xử lý triệt để ô
nhiễm môi trường do hoá chất trên phạm vi cả nước” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ; tập trung triển khai Kế hoạch quốc gia về kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm
2010; tổ chức nghiên cứu, đề xuất các nội dung nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế, chính
sách về quản lý các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (POPs).
- Về kinh tế: Từng bước hình thành thị trường dịch vụ chất thải. Trước mắt huy
động nguồn vốn đầu tư xây dựng các bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh tại các thành phố
lớn và trung bình, về lâu dài đầu tư xây dựng các lò đốt rác hiện đại. Khuyến khích huy
động nguồn vốn của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia vào thu gom và xử
lý chất thải. Tăng cường đầu tư, lắp đặt hệ thống xử lý chất thải bệnh viện. Áp dụng
mạnh công cụ kinh tế trong quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.


176


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

- Về xã hội: Xã hội hóa thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải. Triển khai các
chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng; hình thành các phong trào quần
chúng phân loại rác tại nguồn, tiết kiệm tài nguyên và sản phẩm.
- Về công nghệ: Khuyến khích áp dụng những quy trình công nghệ sản xuất sạch và
thân thiện với môi trường, các cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến giảm thiểu chất
thải, thay đổi thói quen tiêu dùng trong nhân dân. Khuyến khích đầu tư công nghệ chế
biến phân vi sinh. Đẩy mạnh áp dụng công nghệ tái chế chất thải; khuyến khích việc phân
loại chất thải tại nguồn. Đối với chất thải nguy hại, cần có những công nghệ thu gom và
xử lý phù hợp, không để phát thải ra môi trường.
VIII. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật,
gồm Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg ngày 31
tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về
đa dạng sinh học đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 thực hiện công ước đa dạng
sinh học và Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học. Nghị định số 65/2010/NĐ-CP
ngày 11 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của
Luật Đa dạng sinh học, Nghị định 69/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 06 năm 2010 của
Chính phủ về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền và sản
phẩm của sinh vật biến đổi gen. Hiện nay, các đơn vị chức năng đang triển khai xây dựng
các văn bản hướng dẫn và thực hiện luật trong đó luôn lồng ghép các mục tiệu và nhiệm
vụ phát triển bền vững của lĩnh vực.
- Về kinh tế: Xác lập rõ quyền sở hữu trí tuệ và chia sẻ lợi ích trong đa dạng nguồn
gen. Đầu tư thỏa đáng cho bảo vệ thành phần của loài đang bị đe doạ do khai thác quá

mức hay bị lãng quên, đặc biệt là những thành phần giống loài đặc hữu. Xem xét mối
quan hệ thương mại và môi trường trong buôn bán, vận chuyển các giống loài động thực
vật hoang dã để có những chế tài thích hợp. Phát huy và phát hiện giá trị sử dụng và phi
sử dụng của các thành phần đa dạng sinh học. Lượng hóa giá trị kinh tế của đa dạng sinh
học trên các vùng.
- Về xã hội: Nâng cao đời sống người dân, giảm đói nghèo ở những vùng có đa
dạng sinh học cao, mặt khác cũng cần có những chương trình giáo dục nâng cao nhận
thức cho cộng đồng dân cư ở khu vực bảo tồn duy trì đa dạng sinh học. Phát huy kiến
thức bản địa trong việc duy trì và phát triển nguồn gen.

177


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

- Về môi trường: Bảo tồn các vườn quốc gia, hệ sinh thái biển, đất ngập nước và
trên cạn nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các loài sinh vật tồn tại và phát triển. Sau 10
năm thực hiện các cam kết quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học, Việt Nam đã có 126 khu
bảo tồn thiên nhiên với hơn 2,5 triệu ha, tăng 28% so với trước. Tổng diện tích các khu
bảo tồn tự nhiên chiếm 7,5% diện tích đất tự nhiên năm 2008.
IX. CÁC HOẠT ĐỘNG LÀM GIẢM NHẸ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ HẠN
CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CÓ HẠI CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, PHÒNG VÀ
CHỐNG THIÊN TAI
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành
trong thời gian qua, gồm: Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, địa phương
có liên quan thực hiện Nghị định thư Kyoto và Cơ chế phát triển sạch; Nghị quyết số
60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình mục tiêu
quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 02

tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu, ban hành các thông tư về quy trình dự báo bão, áp thấp
nhiệt đới, tích cực tham gia các công tác về CDM.
Trong thời gian qua công tác dự báo đã đạt những thành tựu đáng kể, đáp ứng yêu
cầu chỉ đạo phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. Theo dõi chặt chẽ diễn biến
tình hình thời tiết, khí tượng thủy văn trên phạm vi cả nước, đảm bảo tốt công tác dự báo
thường xuyên và định kỳ; phát hiện và cảnh báo, dự báo kịp thời các hiện tượng thời tiết
nguy hiểm như: bão, lũ, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, dông, lốc, rét đậm, rét hại, khô hạn,
thiếu nước. Áp dụng thành công dự báo thời tiết bằng phương pháp số và đưa các sản
phẩm dự báo vào dự báo tác nghiệp hàng ngày góp phần nâng cao độ chính xác của các
bản tin dự báo khí tượng thuỷ văn. Sử dụng và khai thác các phương tiện quan trắc hiện
đại như ảnh mây vệ tinh, ra đa thời tiết góp phần nâng cao chất lượng dự báo bão, không
khí lạnh, mưa, dông và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác. Chất lượng dự báo được
nâng cao, nâng thời hạn dự báo lên 48 giờ và thử nghiệm dự báo bão với thời hạn 72 giờ.
- Về xã hội: Đã tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và nâng cao nhận thức cho nhân
dân về loại trừ các chất làm suy giảm tầng ôzôn; tăng cường và nâng cao năng lực hoạt
động khí tượng thuỷ văn, dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, đặc biệt trong điều tra cơ bản,
quan trắc và dự báo phòng tránh thiên tai, nâng cao chất lượng dự báo khí tượng thuỷ văn
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường và bảo vệ và phát triển

178


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển. Phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan thông tấn báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Đài truyền hình
Việt Nam để kịp thời thông báo tình hình thời tiết đến nhân dân. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về khí tượng thủy văn và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm nhằm nâng cao
nhận thức cộng đồng về bão, lũ, thiên tai và có biện pháp chủ động phòng tránh.

- Về kinh tế: Tiến hành xem xét, đánh giá, thẩm định các chương trình, dự án nhằm
giảm thiểu và thích ứng với biên đổi khí hậu, phân tích chi phí-lợi ích của biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở đánh giá thực hiện 9 nhiệm vụ, phần lớn các nhiệm vụ đó thuộc chức
năng quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tuy nhiên cũng có những nhiệm vụ hay
lĩnh vực không thuộc Bộ quản lý mà phải phối hợp với các Bộ ngành khác như bảo vệ và
phát triển rừng; khoáng sản than, dầu khí, vật liệu xây dựng…. Mặt khác có những nội
dung phải phối hợp với các tổ chức đoàn thể và cộng đồng xã hội để cùng tham gia thực
hiện quản lý mới đạt được hiệu quả, chính vì vậy về bảo vệ môi trường, Bộ đã chủ động
ký các nghị quyết liên tịch với trung ương đoàn thanh niên; tổng liên đoàn Việt Nam; mặt
trận tổ quốc Việt Nam; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Liên minh hợp tác xã Việt Nam;
Ủy ban khoa học và công nghệ môi trường Quốc Hội; Hội cựu chiến binh Việt Nam; Liên
hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, với việc ký kết đó nhằm tạo ra sự đồng thuận
trong xã hội về bảo vệ môi trường.
B. TỒN TẠI, HẠN CHẾ
Hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường mặc dù đã có sự phát
triển khá nhanh trong thời gian gần đây nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với
cơ chế thị trường, thiếu chế tài xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm; một số văn bản
hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số bất cập, chưa theo kịp với những thay đổi của thực
tiễn, đòi hỏi phải sớm có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời; việc áp dụng các công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường chưa được đặt ra một cách tích cực. Cơ chế về ký quỹ
phục hồi môi trường đã được ban hành theo QĐ 71/2008/QĐ-TTg và Thông tư
34/2009/TT-BTNMT về ký quỹ phục hồi cải tạo môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác
khoáng sản, tuy nhiên triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế, cơ chế đặt cọc - hoàn trả,
giấy phép phát thải và thị trường trao đổi quyền phát thải chưa được thực hiện.
Giai đoạn vừa qua, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá ở nước ta diễn ra nhanh
chóng đang làm biến đổi các điều kiện môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt tại
các đô thị, khu công nghiệp.

179



KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

Bên cạnh các vấn đề về ô nhiễm và suy thoái môi trường do chiến tranh và lịch sử
để lại chưa được khắc phục thì các vấn đề môi trường mới nảy sinh do quá trình phát
triển lại đang diễn ra một cách bức xúc.
Môi trường đất đang bị suy thoái do xói mòn, rửa trôi, sạt lở và trượt lở đất, mặn
hoá, chua hoá và phèn hoá, do việc lạm dụng phân bón hoá học, ô nhiễm do thuốc bảo vệ
thực vật và do chất thải vào môi trường đất từ các hoạt động công nghiệp. Ô nhiễm và
suy thoái đất sẽ dẫn đến giảm năng suất cây trồng, vật nuôi, làm nghèo thực vật, suy giảm
đa dạng sinh học, đồng thời có tác động ngược làm cho quá trình xói mòn, thoái hoá đất
diễn ra nhanh hơn.
Hầu hết các khu vực trong những thành phố lớn đều bị ô nhiễm bụi, đặc biệt là tại
các nút giao thông và các khu vực có công trường xây dựng.
Vấn đề ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc
biệt tại các lưu vực sông Cầu, Nhuệ Đáy, Đồng Nai – Sài Gòn, Thị Vải, trong đó có đoạn
đã trở thành sông "chết". Tài nguyên nước đang bị cạn kiệt dần về lượng, suy giảm về
chất. Nguy cơ thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất đang có chiều hướng trở thành hiện
thực ở nhiều vùng. Môi trường biển và biển ven bờ đã bắt đầu bị ô nhiễm, hàm lượng các
chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, vi sinh, hóa chất nông nghiệp ở một số nơi
đã vượt tiêu chuẩn cho phép.
Đa dạng sinh học đang bị suy thoái với nhiều mức độ khác nhau, các hệ sinh thái tự
nhiên, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước và biển bị đe dọa nghiêm trọng.
Theo tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học
cao trên thế giới (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới). Tuy nhiên, đa dạng loài và nguồn
gen đang có chiều hướng bị suy giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất thiếu quy hoạch, khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh
học, nạn buôn bán động thực vật hoang dã, sự xâm nhập của các loài sinh vật ngoại lai
xâm hại, ô nhiễm môi trường, cháy rừng, thiên tai. Độ che phủ rừng tuy có tăng nhưng

chất lượng rừng vẫn có xu thế giảm. Rừng giầu chỉ còn lại khoảng 10%. Độ phì nhiêu
của nhiều vùng đất có nguy cơ suy giảm hoặc bị thoái hóa do xói mòn, rửa trôi, đá ong
hóa, chua mặn hóa. Rừng ngập mặn, đầm phá đang bị khai thác quá mức, có nơi hầu như
không còn khả năng phục hồi tái sinh.
Thực trạng tình hình môi trường trong hoạt động khoáng sản trên phạm vi cả nước
đến thời điểm hiện nay đã đến mức báo động. Môi trường và cảnh quan ở nhiều khai
trường bị suy thoái nghiêm trọng, chậm được khắc phục; khai thác chế biến khoáng sản
còn nhiều lãng phí và do đó cũng góp phần làm tăng ô nhiễm môi trường.

180


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

Quản lý chất thải rắn tại các đô thị còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn. Lượng chất thải rắn tại các đô thị được thu gom mới đạt 75% tổng lượng
chất thải rắn phát sinh. Hiện nay, trên phạm vi cả nước, mới chỉ có 32/64 tỉnh/thành phố
có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã được đầu tư xây
dựng. Việc xử lý rác thải còn nhiều bất cập, hầu hết các địa phương sử dụng biện pháp
chôn lấp chất thải với số lượng trung bình 1 bãi chôn lấp/1 đô thị, trong đó 85-90% các
bãi chôn lấp không hợp vệ sinh, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Nhiều chỉ tiêu đưa ra trong chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2010 chưa đạt
được như mong muốn. Chính sách “xã hội hóa” đầu tư bảo vệ môi trường chưa được tập
trung nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện. Nhiều dự án gây ô nhiễm môi trường đang trở
thành các vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Việc quản lý, sử dụng biển, ven biển và hải đảo ở Việt Nam chưa thực sự hiệu quả
và bền vững do thiếu quy hoạch, các kế hoạch đầu tư mang tính tổng thể, đặc biệt là
trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tài nguyên biển và các
nguồn lợi từ biển đang có xu hướng giảm nhanh. Chất lượng nước biển cũng đang có xu
hướng suy giảm, nhiều vùng biển bị ô nhiễm nặng. Nguồn thu từ biển và hải đảo chưa

tương xứng với vai trò, vị trí chiến lược của biển, hải đảo đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Chính sách “xã hội hóa” đầu tư bảo vệ môi trường chưa được tập trung
nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện.
C. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đề nghị Hội đồng phát triển bền vững quốc gia kiến nghị Thủ tướng Chính phủ
chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục tập trung triển khai thực hiện Luật Bảo vệ
môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Đất
đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, trong đó lồng ghép các mục tiêu và nhiệm vụ phát
triển bền vững, tổ chức chức đánh giá kết quả giai đoạn đầu triển khai Chiến lược bảo vệ
môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Định hướng chiến lược
phát triển bền vững ở Việt Nam, đồng thời, xây dựng, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách về tài nguyên và môi trường, tăng cường các
hoạt động về hợp tác quốc tế và phối hợp với các ngành, địa phương thông qua các hoạt
động của các dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo và cung cấp các thông tin về hướng dẫn kỹ
thuật. Các bộ/ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, hằng năm có đánh giá
việc thực hiện các chỉ tiêu trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định
hướng 2020. Hằng năm tổ chức các Hội nghị tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện, thảo
luận giải pháp và các hoạt động phối hợp.

181


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

2. Đề nghị các Bộ, ngành gắn kết các nhiệm vụ bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển ngành giai đoạn 2011-2015, tập trung giải quyết một số vấn đề bức xúc về tài
nguyên và môi trường: thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm về khai
thác tài nguyên đất, nước, không khí, khoáng sản, biển và hải đảo và bảo vệ môi trường,
theo dõi, giám sát chặt chẽ việc khắc phục sau khai thác; xây dựng và triển khai các dự án

lớn nhằm khắc phục, cải thiện ô nhiễm tại các lưu vực sông chính; tăng cường công tác
quản lý chất thải rắn, đặc biệt tại các đô thị, khu vực tập trung đông dân cư, khu vực nông
thôn và làng nghề; ngăn chặn và đẩy lùi tác hại của ô nhiễm từ nước ngoài vào Việt
Nam.Thực hiện quy hoạch các khu chôn lấp chất thải rắn, chất thải nguy hại
3. Đề nghị các địa phương xây dựng và ban hành Định hướng chiến lược phát triển
bền vững của tỉnh, chỉ đạo đánh giá tổng kết 5 năm 2006-2010, xây dựng kế hoạch năm
2011-2015 ngành tài nguyên và môi trường, trong đó lồng ghép các nội dung và nhiệm
vụ ưu tiên phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường theo các nội dung ưu tiên và
tiêu chí đã xác định của chương trình nghị sự 21 đã chỉ ra.
4. Phát triển bền vững Tài nguyên và Môi trường cần được lồng ghép trong quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương trên cơ sở các chỉ tiêu định tính và định
lượng, có cơ chế kiểm tra và giám sát chặt chẽ những kết quả đạt được hàng năm và kế
hoạch 5 năm.
5. Sự phối hợp chặt chẽ của các ngành và địa phương với cơ quan quản lý Nhà nước
về tài nguyên và môi trường từ trung ương đến địa phương là hết sức quan trọng để thực
hiện các mục tiêu đã đề ra./.
6. Củng cố lại tính chuyên nghiệp tổ chức đầu mối theo dõi phát triển bền vững Tài
nguyên và Môi trường tại các Bộ ngành và địa phương. Đối với các Bộ, đầu mối thuộc
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đối với các sở đầu mối theo dõi thuộc sở Tài nguyên và
Môi trường.
7. Để tổ chức đầu mối hoạt động hiệu quả, cần xem xét lại cơ cấu tổ chức nhân sự
kiêm nhiệm hay độc lập, kinh phí cho thực hiện của bộ máy đầu mối và chức năng nhiệm
vụ cần phải rõ ràng.

182


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
Quan điểm BVMT và PTBV đã được quán triệt ngay từ những năm đầu của sự
nghiệp Đổi mới và được khẳng định trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà
nước trong hơn 2 thập kỷ qua.
Ngay từ tháng 6 năm 1991 Chính phủ đã ban hành kế hoạch quốc gia về môi trường
và PTBV. Năm 2004 Chính phủ tiếp tục ban hành định hướng Chiến lược phát triển bền
vững của Việt Nam kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg.
Là một cơ quan lập pháp, Quốc hội đã và đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo
khung pháp lý ngày càng đầy đủ, khả thi nhằm thực hiện các mục tiêu PTBV ở nước ta.
Đồng thời, quan điểm PTBV luôn được quán triệt sâu sắc và toàn diện trong hoạt động
giám sát tối cao cũng như quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
I. CÔNG TÁC LẬP PHÁP
- Luật Đất đai (năm 1993, 1998, 2001, 2003);
- Luật Bảo vệ môi trường ban hành lần đầu tiên vào năm 1993 và được sửa đổi bổ
sung toàn diện vào năm 2005;
- Luật Tài nguyên nước ban hành năm 1998;
- Luật Đê điều năm 2006;
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991 và 2004);
- Luật Khoáng sản ban hành lần đầu tiên vào năm 1993 và được sửa đổi, bổ sung 2
lần (2005 và 2010);
- Luật Dầu khí (1993, 2000 và 2008);
- Luật Đa dạng sinh học (2009);
- Luật Thuế tài nguyên (2009);
- Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2010);
- Luật Thuế bảo vệ môi trường (2010);
- Các luật về thuế (quy định về ưu đãi các sắc thuế nhằm khuyến khích bảo vệ tài
nguyên, bảo vệ môi trường).

183



KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

Ngoài các văn bản nêu trên, hằng năm Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xác định 3 nhóm chỉ tiêu về kinh tế, xã hội
và bảo vệ môi trường; xác định nhiệm vụ, giải pháp; quyết định ngân sách và phân bổ các
nguồn lực cho phát triển bền vững của đất nước.
II. CÔNG TÁC GIÁM SÁT
Trong những năm qua, Ủy ban KHCN&MT đã chủ trì phối hợp với các cơ quan của
Quốc hội đã tiến hành nhiều đợt giám sát liên quan đến cả 3 lĩnh vực của phát triển bền
vững là kinh tế, xã hội và tài nguyên và môi trường. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường,
sử dụng tài nguyên đã tập chung vào các nội dung chủ yếu là giám sát việc thực hiện
chính sách và pháp luật trong các lĩnh vực:
- Bảo vệ môi trường, nhất là tại các khu công nghiệp, khu đô thị và khu kinh tế;
- Thực hiện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg về Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng;
- Tình hình khai thác khoáng sản và công tác bảo vệ môi trường tập trung vào lĩnh
vực khai thác than, bô xít, quặng titan, apatit…;
- Phát triển rừng, bảo vệ đa dạng sinh học;
- Thực hiện quy hoạch các dự án thủy điện từ quy mô rất lớn đến quy mô vừa và nhỏ;
- Triển khai chương trình phát triển bền vững quy mô cấp tỉnh.
Qua các đợt giám sát, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã đánh giá, đề
xuất nhiều kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan nhằm tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố bộ máy quản lý cũng như phân bổ nguồn lực để
triển khai có hiệu quả chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Cụ thể như sau:
1. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường (2005)
Luật Bảo vệ môi trường (2005) đã thể chế hóa những nguyên tắc, chính sách cơ bản
của Đảng và nhà nước và là một đạo luật cơ bản về hoạt động bảo vệ môi trường ở nước

ta. Sau 3 năm Luật BVMT đi vào hoạt động, việc xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
còn nhiều bất cập, tuy nhiên để đảm bảo công tác bảo vệ môi trường được hiệu quả
chúng ta phải đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ngay từ đầu như kết quả nghiên
cứu khảo sát thực tế vừa qua cho thấy, bên cạnh một số kết quả tích cực còn những hạn
chế, tồn tại chủ yếu sau đây:

184


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

1.1. Công tác hướng dẫn thi hành chính sách, pháp luật
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành liên quan đã ban hành một
số văn bản hướng dẫn Luật. Tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục ban hành thêm một số văn
bản hướng dẫn thi hành cụ thể, chi tiết hơn theo quy định của Luật. Ví dụ, Luật có tới
trên 20 điều quy định về trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh, nhưng chỉ có một số tỉnh
đã ban hành các văn bản như chỉ thị, quyết định của cơ quan Đảng, Ủy ban Nhân dân,
Hội đồng Nhân dân tỉnh; có một số tỉnh hầu như chưa ban hành được văn bản hướng dẫn
nào. Tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn đã làm cho hoạt động bảo vệ môi trường, xử lý
ô nhiễm không những chậm mà còn thiếu tính nhất quán, đồng bộ. Vì vậy, các Sở Tài
nguyên và Môi trường cần phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh triển khai sớm công tác hướng dẫn thi hành chính sách, pháp luật về xử lý ô
nhiễm và bảo vệ môi trường trên địa bàn.
1.2. Tổ chức bộ máy quản lý môi trường ở các ngành, địa phương
Năm 2007 tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ tỉnh đến xã
của các địa phương đã được kiện toàn một bước. Ở cấp tỉnh có Sở Tài nguyên và Môi
trường; ở cấp huyện đã thành lập Phòng Tài nguyên và Môi trường, còn ở cấp xã đã có
cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm về môi trường.
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về lĩnh vực bảo vệ môi trường của các bộ,
ngành, địa phương còn thiếu và yếu về chuyên môn, nhiều người hoạt động kiêm nhiệm,

tỷ lệ người được đào tạo cơ bản về lĩnh vực môi trường còn thấp. Hiện nay nước ta có
khoảng 12 người làm công tác bảo vệ môi trường trên 1 triệu dân; trong khi đó con số
này ở các nước khác cao hơn nhiều (ví dụ: Trung Quốc 20 người, Thái Lan 30 người,
Malaysia 100 người, Xingapo 330 người, Canađa 155 người, Anh là 204 người). Ngay
trong cơ cấu, tổ chức các Sở Tài nguyên và Môi trường thì mảng công tác bảo vệ môi
trường cũng còn yếu so với mảng quản lý đất đai và tài nguyên.
1.3. Về công tác quy hoạch đô thị và khu công nghiệp
Quy hoạch khu công nghiệp (KCN), khu đô thị (KĐT) còn nhiều bất cập. Nhiều
KCN được quy hoạch sát KĐT, các dòng sông, trục giao thông và các khu vực nhạy cảm
về môi trường; quy hoạch chưa có đủ cơ sở khoa học, chưa tính đến các yếu tố tự nhiên
và xã hội nên tính khả thi thấp. Nhiều quy hoạch bị phá vỡ do thiếu kiên quyết trong việc
thực hiện quy hoạch nên đã gây ra hậu quả khó khắc phục, lãng phí.
Các địa phương đều đã có quy hoạch đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, nhưng
chưa đủ nguồn lực thực hiện quy hoạch, nhất là việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng cho các KCN, KĐT và công trình thu gom xử lý nước thải, rác thải.

185


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3

Công tác quy hoạch bảo vệ môi trường chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch kinh tế
- xã hội khác. Sự phối hợp giữa các ngành kế hoạch – đầu tư, tài nguyên – môi trường,
xây dựng, công thương, giao thông… mặc dù đã được quy định rõ trong các văn bản
pháp luật có liên quan1, nhưng thực hiện chưa đồng bộ, thường xuyên.
1.4. Công tác thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
Sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật được
ban hành, việc lập và thẩm định báo cáo ĐMC, báo cáo ĐTM và cam kết bảo vệ môi
trường đối với các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dự án đầu tư có quy mô khác nhau
đã được quan tâm hơn.

Tuy nhiên, một tỷ lệ đáng kể các báo cáo ĐTM thiếu chặt chẽ, thiếu số liệu điều tra
cơ bản; công tác thẩm định, phê duyệt còn mang tính hình thức. Việc nhiều cơ sở, dự án
không tuân thủ yêu cầu đã đề ra trong quy định phê duyệt báo cáo; công tác kiểm tra, đôn
đốc thực hiện chưa nghiêm.
1.5. Về cơ sở hạ tầng, phương tiện kỹ thuật quan trắc môi trường
Cơ sở hạ tầng cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải của hầu hết các
đô thị, nhất là các khu xây dựng trước đây không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường.
Nước thải sinh hoạt và nước mưa cùng thoát chung vào một hệ thống. Ngay cả ở thủ đô
Hà Nội, lượng nước thải được xử lý cũng chỉ đạt khoảng trên 10%.
Nhiều tỉnh vẫn chưa có trung tâm quan trắc, phòng phân tích nên mọi hoạt động
quan trắc đều thực hiện bằng hình thức thuê khoán các viện, trường hoặc các trung tâm
phân tích ở các thành phố lớn. Đây cũng là lý do cơ bản dẫn đến các số liệu quan trắc
thường thiếu độ chính xác, số lượng phân tích hạn chế, không phản ánh đúng thực trạng ô
nhiễm. Chỉ có một số tỉnh/thành có tiềm lực kinh tế mạnh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Tp.Hồ Chí Minh, Cần Thơ…) có
trung tâm quan trắc. Theo tính toán của Bộ Tài nguyên và Môi trường, để xây dựng hệ
thống trạm quan trắc trên phạm vi cả nước cần đến 6.800 tỷ đồng (dự toán năm 2008).
1.6. Nguồn kinh phí
Chủ trương chi không dưới 1% ngân sách nhà nước cho sự nghiệp bảo vệ môi
trường đã có hiệu lực. Tuy vậy, qua giám sát cho thấy việc sử dụng nguồn kinh phí này
còn dàn trải, hiệu quả chưa cao; có một số địa phương còn sử dụng kinh phí này vào mục
đích khác. Việc phân bổ, thực hiện nguồn chi ở nhiều địa phương chưa có sự tham gia
1

Nội dung phần này dựa trên báo cáo số 32/UBKHCNMT12 của BUKHCN&MT ngày 12/8/2008

186


KỶ YẾU HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ 3


của cơ quan chuyên môn (Sở Tài nguyên và Môi trường); chưa có sự giám sát chặt chẽ
của Hội đồng nhân dân các cấp.
Cơ chế sử dụng các nguồn thu từ thuế, phí bảo vệ môi trường, tiền phạt, nguồn tài
trợ ODA, tài trợ phi chính phủ cho bảo vệ môi trường chưa rõ ràng; thiếu sự điều hòa,
phối hợp. Số kinh phí thu được từ phí môi trường chỉ bằng 1/10 tổng kinh phí Nhà nước
bỏ ra để thu gom, xử lý chất thải. Việc ký quỹ bảo vệ môi trường thực hiện chưa nghiêm,
thiếu đồng bộ. Vẫn chưa hình thành được ngành kinh tế môi trường hướng tới cân đối
giữa thu và chi cho hoạt động bảo vệ môi trường và xử lý ô nhiễm.
1.7. Hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ bảo vệ môi trường
Cho đến nay đã hình thành được một số cơ sở sản xuất, chế tạo các thiết bị bảo vệ
môi trường, xử lý chất thải như hệ thống xử lý nước thải, thiết bị xử lý chất thải rắn, chất
thải y tế, tái chế chất thải; thiết bị quan trắc môi trường. Tuy nhiên, quy mô sản xuất các
loại thiết bị này còn nhỏ lẻ; kiểm định chất lượng công nghệ chưa được thực hiện theo
tiêu chuẩn quốc gia. Công tác đầu tư, tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng ngành công nghiệp môi trường
như quy định tại Điều 108, Điều 109 của Luật Bảo vệ môi trường. Các cơ quan Nhà nước
cần ban hành và áp dụng các biện pháp, cơ chế ưu đãi cụ thể đối với các hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ quan trắc, phân tích và xử lý ô nhiễm để từng bước hình
thành ngành công nghiệp môi trường.
1.8. Về công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Công tác kiểm tra hậu ĐTM chưa thực hiện thường xuyên, kiên quyết; hầu như
chưa áp dụng hình thức xử lý nghiêm đối với những cơ sở không thực hiện cam kết bảo
vệ môi trường. Số các vụ khiếu kiện về ô nhiễm môi trường có xu thế ngày càng gia tăng,
thậm chí tăng nhanh hơn số các vụ khiếu kiện về đất đai. Đòi hỏi của người dân về môi
trường sống lành mạnh, thân thiện ngày càng cao. Mức phạt hành chính tối đa hiện nay
đã tăng từ 70 triệu đồng lên 500 triệu đồng để tăng cường hơn nữa sức răn đe đối với
những cơ sở gây ô nhiễm. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật về thanh tra hiện đang
gây vướng mắc cần tháo gỡ.
1.9. Về công tác xã hội hóa, tuyên truyền hoạt động bảo vệ môi trường

Các hoạt động tuyên truyền đã thu hút được nhiều tổ chức xã hội, doanh nghiệp tham
gia: đã hình thành được các tổ thu gom rác thải; phát triển các mô hình tự quản về bảo vệ
môi trường trong nhân dân. Một số địa phương đang tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa các
Công ty môi trường đô thị (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh...)
Bên cạnh những kết quả ban đầu về xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường, ở
nhiều địa phương hiện nay vẫn đang lúng túng, chưa xác định được mục tiêu, hình thức,

187


×