Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20002006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.72 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ
CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2006

TRẦN MỸ YẾN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỂ NHẬN VĂN BẰNG CỬ NHÂN
NGÀNH KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NÔNG LÂM

Thành Phố Hồ Chí Minh
Tháng 07/2007


Hội đồng chấm báo cáo khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa Kinh Tế, Trường
Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận khóa luận “Phân Tích Các Yếu
Tố Ảnh Hưởng Giá Chứng Khoán Việt Nam Giai Đoạn 2000-2006” do Trần Mỹ Yến,
sinh viên khóa 29, ngành Kinh Tế, chuyên ngành Kinh Tế Nông Nghiệp, đã bảo vệ
thành công trước hội đồng vào ngày

TS. Nguyễn Văn Ngãi
Giáo viên hướng dẫn

Ngày

Chủ tịch hội đồng chấm báo cáo


Ngày

tháng

năm

tháng

năm

Thư ký hội đồng chấm báo cáo

Ngày

tháng

năm


LỜI CẢM ƠN
Sau những cố gắng và nỗ lực hết mình, cuối cùng khóa luận tốt nghiệp cũng đã
được hoàn thành. Trong suốt thời gian qua, tôi luôn nhận được sự quan tâm động viên,
giúp đỡ hỗ trợ rất nhiều của thầy cô, bạn bè và đặc biệt là những người thân trong gia
đình.
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bố mẹ và anh chị luôn bên cạnh
động viên và hỗ trợ hết mực cả về vật chất lẫn tinh thần.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí
Minh cùng toàn thể các quý thầy cô trong Khoa Kinh Tế đã truyền đạt những kiến thức
quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Ngãi, thầy đã tận tình chỉ

bảo hướng dẫn em trong thời gian học tập tại trường cũng như trong suốt quá trình
thực tập và nghiên cứu để hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Cảm ơn các bạn, những người luôn bên cạnh giúp đỡ và ủng hộ tôi.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2007

Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Trần Mỹ Yến


NỘI DUNG TÓM TẮT
TRẦN MỸ YẾN. Tháng 07 năm 2007. “Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng
Đến Giá Chứng Khoán ở Việt Nam Giai đoạn 2000-2006”.
TRAN MY YEN. June 2007. “Analyzing Elements Affecting to Stock Price
in Vietnam from 2000 to 2006”.
Trải qua 6 năm hoạt động, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trở thành một
kênh tạo vốn quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam; sự biến động giá cả chứng khoán
trên thị trường đã thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp trong xã hội. Khóa luận
“Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán ở Việt Nam Giai đoạn
2000-2006” được nghiên cứu nhằm đánh giá sự biến động của chỉ số Vn-Index dưới
tác động của các yếu tố có liên quan. Qua kết quả phân tích định lượng cũng như định
tính cho thấy rằng giá cả của hầu hết cổ phiếu trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
diễn biến khá phức tạp, phụ thuộc vào tâm lý của nhà đầu tư là chủ yếu và gắn liền với
sự can thiệp mang tính đối phó của các nhà quản lý thị trường như quyết định tăng tỷ
lệ sở hữu cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, tăng hàng một cách ồ ạt v.v… Về công
tác cung hàng là chưa tốt, hàng hóa chứng khoán mặc dù có tăng nhưng vẫn chưa đáp

ứng được so với nhu cầu thị trường, cán cân cung cầu luôn ở tình trạng chênh lệch cầu
thừa cung thiếu. Sự biến động chỉ số Vn-Index trong thời gian qua chưa được coi là
“phong vũ biểu” phản ánh biến động nền kinh tế Việt Nam, chỉ số Việt Nam -Index rõ
ràng là lạc điệu với nền kinh tế, nó chỉ phản ánh những biến động về tâm lý của các
nhà đầu tư chứng khoán chưa nhiều kinh nghiệm trên một thị trường còn nhỏ bé và sơ
khai.


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt

viii

Danh mục các bảng

ix

Danh mục các hình

x

Danh mục phụ lục

xi

CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU

1


1.1. Đặt vấn đề

1

1.1.1. Lý do nghiên cứu

1

1.1.2. Ý nghĩa của đề tài

2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

3

1.3. Các giả thiết

3

1.4. Phạm vi nghiên cứu

4

1.5. Cấu trúc của đề tài

4

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN


5

2.1. Khái quát thị trường tài chính

5

2.1.1. Thị trường tài chính

5

2.1.2. Chức năng của thị trường tài chính

5

2.1.3. Phân loại và các công cụ trên thị trường tài chính

5

2.1.3.1. Thị trường tiền tệ

5

2.1.3.2. Thị trường vốn

6

2.1.4. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nên
thị trường tài chính
2.2. Tổng quan về thị trường chứng khoán


6
7

2.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của
thị trường chứng khoán

7

2.2.2. Thị trường chứng khoán

8

2.2.2.1. Định nghĩa

8

2.2.2.2. Chức năng của thị trường chứng khoán

9

2.2.2.3. Vai trò của thị trường chứng khoán

10

2.2.2.4. Phân loại thị trường chứng khoán

11


2.2.2.5. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán 12

2.2.2.6. Cơ chế điều hành và nguyên tắc hoạt động của
thị trường chứng khoán
2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.3.1. Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam

13
15
15

2.3.1.1. Sự hình thành và phát triển của Ủy ban
chứng khoán Nhà nước

15

2.3.1.2. Trung tâm giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh

16

2.3.1.3. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội

17

2.3.2. Tình hình giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán
Tp.Hồ Chí Minh

18

2.3.2.1. Hoạt động niêm yết trên thị trường chứng khoán


18

2.3.2.2. Hoạt động giao dịch trên thị trường

21

2.3.2.3. Tình hình nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán

29

CHƯƠNG 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Một số khái niệm

31
31

3.1.1. Hàng hóa chứng khoán

31

3.1.2. Lý thuyết về sự hình thành giá cả chứng khoán

34

3.2. Sự hình thành giá cả dưới góc độ vận hành thực tiễn
3.2.1. Giá chứng khoán

38
38


3.2.2. Thị giá chứng khoán và các nhân tố ảnh hưởng đến
thị giá chứng khoán

39

3.2.2.1. Giá thị trường của các chứng khoán có lãi suất
không ổn định (cổ phiếu)

40

3.2.2.2. Giá thị trường của các chứng khoán có
lãi suất cố định (Trái phiếu)

41

3.3. Chỉ số giá chứng khoán Vn-Index – Phương pháp tính và hiệu chỉnh

42

3.4. Mô hình hóa các yếu tố tác động đến chỉ số giá chứng khoán

43

3.5. Phương pháp nghiên cứu

47


3.6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thị giá chứng khoán

47
48
48

4.1.1 Giai đoạn 1 : từ ngày 28/07/2000 đến ngày 25/06/2001

48

4.1.2. Giai đoạn 2 : từ 25/06/2001 đến 24/10/2003

50

4.1.3 Giai đoạn 3: từ đầu năm 2004 đến cuối năm 2005

52

4.1.4. Giai đoạn 4: năm 2006

55

4.2. Định lượng các yếu tố tác động đến chỉ số giá chứng khoán Vn-Index 61
4.2.1. Phân tích thống kê các biến

61

4.2.2. Mối tương quan cặp

63


4.2.3. Phân tích hồi quy

65

4.2.3.1. Kiểm định các vi phạm của mô hình (Phụ lục 2)

66

4.2.3.2. Kết quả mô hình ước lượng

68

4.2.3.3. Một số giải pháp

70

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

74

5.1 Kết luận

74

5.2 Khuyến nghị

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CK

Cổ phiếu

CKNY

Chứng khoán niêm yết

CNNCDPM

Cầu nước ngoài còn được phép mua

CP

Cổ phiếu

CTCP

Công ty cổ phần

CTY NY

Công ty niêm yết




Giai đoạn

KLCPNY

Khối lượng cổ phiếu niêm yết

NĐT

Nhà đầu tư

PE

Price Earning Ratio

SL

Số lượng

TTCK

Thị trường chứng khoán

TTDGCK Hà Nội

Thị trường tài chính

TTDGCK TP.HCM

Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.
Hồ Chí Minh


TTTC

Thị trường tài chính

TỶ.Đ

Tỷ đồng

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán nhà nước


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Quy mô niêm yết chứng khoán tại TTGDCK Tp.HCM

19

Bảng 2.2. Tình hình niêm yết chứng khoán qua các năm 2002-2006

20

Bảng 2.3. Tình hình khối lượng chứng khoán niêm yết qua các năm 2000-2006

21

Bảng 2.4. Tình hình biến động chỉ số Vn-Index qua các năm 2000-2006

23


Bảng 2.5. Giao dịch chứng khoán qua các năm 2000-2006

25

Bảng 2.6. Tình hình giao dịch cổ phiếu qua các năm 2000-2006

27

Bảng 2.7. Tình hình giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài qua các năm 2000-2006 29
Bảng 2.8. Tình hình số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư
qua các năm 2000-2006

30

Bảng 3.1. Định nghĩa biến, lý do chọn biến, kỳ vọng dấu

44

Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu mô tả dữ liệu thống kê

61

Bảng 4.2. Bảng kết quả mối tương quan cặp giữa chỉ số Vn-Index và các biến

63

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định mối tương quan cặp

64


Bảng 4.4. Kết quả kiểm định Chow-test

66

Bảng 4.5. Ma trận tương quan giữa các biến giải thích

67

Bảng 4.6. Kết quả kiểm định White-test

67

Bảng 4.7. Kết quả kiểm định Breusch-Godfrey Test

67

Bảng 4.8. Các thông số ước lượng của mô hình

68


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Tình hình biến động chỉ số Vn-Index qua các năm 2000-2006

23

Hình 3.1. Cơ chế vận động thị giá

39


Hình 4.1. Chỉ số Vn-Index từ 28/07/2000 đến 25/06/2001

50

Hình 4.2. Chỉ số Vn-Index từ 25/07/2001 đến 24/10/2003

52

Hình 4.3. Chỉ số Vn-Index giai đoạn từ đầu năm 2004 đến cuối năm 2005

54

Hình 4.4. Chỉ số Vn-Index năm 2006

56

Hình 4.5. Sự điều chỉnh chỉ số Vn-Index sau ngày 25/06/2001 và 21/04/2006

59


DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Kiểm định Causative Test.
Phụ lục 2. Kết quả ước lượng và kiểm định các vi phạm của mô hình.
Phụ lục 3. Kiểm định các thông số của mô hình.


CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU


1.1. Đặt vấn đề
1.1.1. Lý do nghiên cứu
Theo quyết định số 127/1998/QĐ-TTg, Thị trường chứng khoán chính thức tại
Việt Nam đã ra đời và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000, đánh
dấu một bước chuyển quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước và hội nhập quốc tế. Thị trường chứng khoán được đánh giá
là một kênh huy động vốn tiên tiến của nền kinh tế thị trường hiện đại, là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống Tài chính. Cùng với hệ thống Ngân hàng thương mại,
TTCK góp phần tạo nên sức mạnh cho nền Tài chính quốc gia đáp ứng nhu cầu vốn
cho quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Qua 6 năm đi vào hoạt động TTCK Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của mọi
đối tượng trong xã hội và phát triển về nhiều mặt, đạt được những thành tựu đáng
khích lệ, từng bước đặt nền móng vững chắc cho tiến trình phát triển trong tương lai.
Nếu trong những năm đầu quy mô thị trường còn nhỏ, hoạt động cầm chừng thì hiện
tại đã có bước phát triển nhanh chóng. Tính đến hết ngày 31/12/2006, đã có 106 công
ty niêm yết và 2 chứng chỉ quỹ tại TTGDCKTP, 87 công ty đăng ký giao dịch tại
TTGDCK Hà Nội. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đạt 221.157
tỷ đồng, chiếm 27,7% GDP của năm 2006, thu hút khoảng 100.000 tài khoản giao
dịch. Ngoài tra, việc niêm yết Trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến hết ngày 31/12/2006
có gần 400 Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu đô thị và Trái phiếu Ngân hàng niêm yết
với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng, bằng 7,7% GDP của năm 2006.
Việt Nam chúng ta đang ở cao đỉnh của lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt trong lĩnh vực Tài chính Ngân hàng. Đó cũng là nguyên nhân mà gần đây các quỹ


đầu tư nước ngoài đổ bộ vào Việt Nam khá trầm trộ, làm cho cổ phiếu của các Ngân
hàng và một số công ty như Dầu khí, Viễn thông, Bất động sản, Điện lực, Công nghệ
cao v.v… tăng giá lên rất nhiều, gấp chục lần, thậm chí vài chục lần. Kết quả là năm
2006 TTCK Việt Nam được đánh giá là thời kỳ bùng nổ kể từ ngày khai trương thị

trường (2000). Trên tạp chí Fortune ra ngày 17-4-2006, nhận xét rằng: “Thị trường
chứng khoán Việt Nam là nơi ăn nên làm ra thứ nhì trên thế giới trong năm nay - chỉ
sau thị trường Zimbabwe”. Chỉ số Vn-Index của phiên giao dịch cuối cùng năm 2006
(29/12) tại TTGDCKTP ở mức 751,77 điểm so với mức 307,5 điểm của phiên giao
dịch cuối năm 2005. Và sau khi tăng gần 2,5 lần trong năm 2006, cổ phiếu trên TTCK
chính thức của Việt Nam tiếp tục cơn sốt của mình với mức tăng gần 40% trong tháng
đầu tiên của năm 2007. Theo các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đều thừa
nhận TTCK Việt Nam hoạt động tăng trưởng quá nóng, giá thị trường đã bị đẩy quá xa
giá trị tài sản thực.
Những cơn sốt giá trên TTCK trong thời gian qua thực sự đã trở thành một
điểm nóng thu hút sự quan tâm rất lớn của đông đảo mọi tầng lớp dân cư trong cả
nước nhất là T.p Hồ Chí Minh và Hà Nội đang rộ lên phong trào “nhà nhà chơi chứng
khoán, người người chơi chứng khoán”. Trước tình hình đó, vấn đề nghiên cứu giá cả
trên TTCK là cần thiết bởi giá cả chứng khoán lại là một chỉ tiêu rất nhạy cảm trong
môi trường tổng thể của hệ thống kinh tế-xã hội, trước nhất là độ an toàn của nền Tài
chính quốc gia có mối quan hệ mật thiết với giá cả chứng khoán lành mạnh.
Đề tài “Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán ở Việt
Nam Giai đoạn 2000-2006” được thực hiện nhằm tìm hiểu sự biến động của giá cả
chứng khoán qua các năm. Những yếu tố nào góp phần can dự vào sự biến động thị giá
chứng khoán? Và làm thế nào để ổn định giá cả chứng khoán hướng tới thị trường tăng
trưởng ổn định và bền vững.
1.1.2. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn. Về mặt lý luận, đề tài cung cấp một cách hệ thống các vấn đề lý luận về
TTTC nói chung và TTCK nói riêng; về mặt thực tiễn, đề tài đánh giá được thực trạng
hoạt động của TTCK Việt Nam trong thời gian qua, xác định được các nhân tố chủ yếu


tác động đến giá cả CK và trên cơ sở đó khuyến nghị một số giải pháp phù hợp. Kết
quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với nhà đầu tư cũng như nhà quản lý thị trường.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề cần nghiên cứu, đề tài được thực hiện nhằm đạt các mục tiêu sau:
Đánh giá thực trạng phát triển của Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam thông
qua tình hình hoạt động tại Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khoán Tp.Hồ Chí Minh.
Phân tích định tính các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán và đo lường
mức độ tác động của các yếu tố đến sự biến động giá chứng khoán thông qua chỉ số
Vn-Index.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp tương ứng nhằm ổn
định giá cả Chứng khoán.
1.3. Các giả thiết
Từ khi TTCK đi vào hoạt động cho đến nay, quy luật cung-cầu vẫn đang chi
phối hầu hết giá cả các cổ phiếu trên thị trường, mọi yếu tố khác chỉ mang tính phụ
trợ. Như chúng ta biết, trên thị trường khi cung lớn hơn cầu thì giá cả sẽ tăng lên và
ngược lại cung nhỏ hơn cầu thì giá giảm. Vì thế khi muốn biết điều gì quyết định giá
cả, ta cần tìm hiểu nhân tố nào đứng sau cung cầu.
Về phía Cung như là chủng loại cổ phiếu niêm yết, khối lượng cổ phiếu niêm
yết… (Trần Đắc Sinh, 2005). Sự thay đổi của yếu tố này có ảnh hưởng thế nào đến giá
cả cổ phiếu nói riêng và chỉ số giá chứng khoán Vn-Index nói chung. Phải chăng cổ
phiếu niêm yết tăng lên dẫn đến chỉ số Vn-Index giảm xuống?
Về phía Cầu đó là số lượng tài khoản đăng ký giao dịch tại các công ty CK bao
gồm các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước (Trần Đắc Sinh, 2005). Đại diện cho
nhu cầu nói chung (trong và ngoài nước), đề tài sử dụng yếu tố kỳ vọng của nhà đầu tư
được thể hiện qua hệ số thu nhập-chỉ số P/E. Chỉ số P/E cao tức kỳ vọng của nhà đầu
tư cao khi đó nhu cầu mua cổ phiếu lớn và ngược lại. Như vậy, chỉ số P/E tăng làm
cho Vn-Index tăng có đúng không?
Ngoài ra, khi đề cập đến cầu CK không thể quên một thành phần nữa có ảnh
hưởng rất lớn đến TTCK Việt Nam trong thời gian qua, đó chính là NĐT nước ngoài.
Cung cầu của đối tượng là NĐT nước ngoài cũng như việc quyết định gia tăng tỉ lệ sở
hữu cho họ có tác động như thế nào đến chỉ số Vn-Index.



1.4. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, vốn kiến thức cũng như khả năng nghiên cứu nên đề
tài được giới hạn phạm vi cụ thể như sau:
Về thời gian: phân tích, đánh giá thực trạng phát triển TTCK Việt Nam, sự biến
động chỉ số Vn-Index trong khoảng thời gian từ 28/7/2000 đến 31/12/2006 tức từ
phiên giao dịch đầu tiên đến phiên giao dịch thứ 1452.
Về không gian: phân tích thực trạng phát triển TTCK Việt Nam, đề tài tập trung phân
tích thực trạng hoạt động tại TTGDCKTP.HCM; sự biến động giá cả chứng khoán
thông qua chỉ số Vn-Index.
Về nội dung: Giá cả chứng khoán do nhiều yếu tố tác động và quá trình phân
tích ảnh hưởng của các yếu tố này chủ yếu là định tính còn về mặt định lượng đề tài
chỉ tập trung đo lường tác động của một số yếu tố đại diện cho cung-cầu CK, cụ thể là
hệ số thu nhập CP (chỉ số P/E), chủng loại CP niêm yết (LCPNY), khối lượng CP
niêm yết (KLCPNY), cầu nước ngoài còn được phép mua (CNNCDPM).
1.5. Cấu trúc của đề tài
Cấu trúc của đề tài được trình bày đúng theo “Quy định về hình thức trình bày
khóa luận Tốt nghiệp” của Khoa. Gồm 5 chương, ngoài phần Mở đầu (chương 1) và
phần Kết luận - Khuyến nghị (chương 5);
Chương 2: Khái quát các vấn đề cơ bản về TTTC, TTCK; quá trình hình thành
TTCK Việt Nam; thực trạng phát triển của TTCK Việt Nam thông qua diễn biến các
hoạt động tại TTGDCK TP.HCM giai đoạn 2000 – 2006.
Chương 3: Trình bày một số khái niệm có liên quan về chứng khoán, giá cả
chứng khoán; lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng giá chứng khoán; phương pháp tính và
hiệu chỉnh chỉ số Vn-Index; mô hình hóa các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và sau
cùng là phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá CK cả hai mặt định tính và
định lượng. So sánh và rút ra kết luận.



1.6. Tiến độ thực hiện
Thời

Tháng 3

Tháng 4

Tháng 5

Tháng 6

Tháng 7

gian
Công việc
1.Tìm hiểu diễn
biến thị trường
chứng khoán
2.Lập đề cương
tổng quát
3.Tham quan sàn
giao dịch
4.Sơ lược các bài
viết nhận định
đánh giá
5.Tiếp cận nguồn
thông tin
6.Triển khai đề
cương chi tiết
7.Thu thập số

liệu
8.Thu thập thông
tin
9.Tổng hợp xử lý
số liệu
10.Tổng hợp
phân loại thông
tin theo thời gian
11.Chạy mô
hình, kiểm định
12.Viết kết quả
nghiên cứu
13.Chỉnh sữa
format và hoàn
tất khóa luận

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần Tuần

Tuần

Tuần


Tuần

1+2

3+4

1+2

3+4

1+2

1+2

3+4

1+2

X

X

X

X

X

X


X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

3+4


Tuần
3+4

X
X

X
X

X

X

X

X
X

Trong suốt quá trình thực hiện, thường xuyên liên hệ trao đổi với GVHD để
được giải đáp thắc mắc và thảo luận các vấn đề có liên quan.

X
X


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN

Nhằm cung cấp các lý thuyết cơ bản về những vấn đề có liên quan, chương 2
của Luận văn sẽ trình bày một cách hệ thống khái quát về TTTC, tổng quan TTCK

Thế giới đến TTCK Việt Nam và sau đó cụ thể tình hình phát triển TTCK Việt Nam
thông qua đánh giá những hoạt động tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí
Minh.
2.1. Khái quát thị trường tài chính
2.1.1. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường giao dịch các loại tài sản tài chính như cổ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu… Thành phần tham gia giao dịch trên thị trường bao gồm
hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và chính phủ là những
người tham gia mua bán các loại tài chính-hàng hóa của thị trường tài chính.
2.1.2. Chức năng của thị trường tài chính
Trong nền kinh tế, TTTC xét về bản chất đó chính là mối quan hệ nhân quả
giữa đầu tư và tiết kiệm; là quá trình luân chuyển vốn giữa người dư vốn và người cần
vốn. Từ hai đặc điểm này, TTTC có những chức năng cơ bản sau:
Dẫn vốn từ những nơi thừa vốn sang những nơi thiếu vốn; kích thích tiết kiệm
và đầu tư; hình thành giá của các tài sản tài chính; tạo tính thanh khoản cho tài sản tài
chính; giảm đến mức thấp nhất chi phí tìm kiếm và chi phí thông tin.
2.1.3. Phân loại và các công cụ trên thị trường tài chính
2.1.3.1. Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch mua bán quyền sử dụng các công cụ
tài chính ngắn hạn. Thị trường tiền tệ bao gồm: thị trường liên ngân hàng, thị trường
ngoại hối, thị trường vốn ngắn hạn, thị trường chứng khoán ngắn hạn.


Đặc trưng của thị trường tiền tệ là giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn (không
quá một năm); hình thức tài chính đặc trưng là gián tiếp, ngân hàng thương mại đóng
vai trò trung gian; các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao.
Các công cụ chủ yếu bao gồm: Tín phiếu kho bạc Nhà nước, Thương phiếu, các chứng
chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, chấp phiếu ngân hàng.
2.1.3.2. Thị trường vốn
Thị trường vốn còn gọi là thị trường vốn dài hạn là bộ phận quan trọng của

TTTC, là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn (thường có thời
gian trên một năm). Vai trò chủ yếu của thị trường vốn là huy động những nguồn vốn
trong xã hội, tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp và
Chính phủ mục đích phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. So với các công cụ tài
chính trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có tính thanh khoản kém
hơn và độ rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức sinh lợi cao hơn.
Thị trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn, thị trường cho thuê tài chính,
thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán. Trong đó thị trường chứng khoán là
bộ phận quan trọng nhất của TTTC trong việc tập trung và huy động những khoản vốn
khổng lồ tài trợ cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ, phát triển
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công cụ chính là cổ phiếu (công cụ vốn) và trái phiếu (công cụ nợ). Ngoài ra,
còn có các công cụ chuyển đổi hoặc công cụ phát sinh.
2.1.4. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính
Các bộ phận của thị trường tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường tiền tệ và thị trường vốn đều là những mắt xích quan trọng trong hệ thống tài
chính quốc tế và ngày càng mang tính quốc tế. Vì thế, những biến động trong nền kinh
tế thoạt đầu tác động lên một thị trường này sẽ dễ dàng lan truyền đến thị trường khác,
đến toàn hệ thống. Theo đà phát triển của nền kinh tế, TTTC ngày càng tinh vi, phức
tạp; ranh giới truyền thống giữa các công cụ tài chính hay giữa các loại thị trường tài
chính ngày càng mang tính tương đối. TTTC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
việc khuyến khích tiết kiệm, đầu tư và quá trình vốn hóa nền kinh tế. TTTC là đối
tượng tác động của các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm đạt các
mục tiêu tăng trưởng. TTTC càng phát triển ở trình độ cao, các kênh liên hệ càng


nhiều (nhiều loại hình trung gian) thì tính nhạy cảm với các biện pháp chính sách càng
cao.
2.2. Tổng quan về thị trường chứng khoán
2.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách sơ khai, xuất phát tự một
nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 tại những thành phố có vị trí địa lý
thuận lợi ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại những quán cà fê để mua
bán, trao đổi các loại hàng hóa (chủ yếu là nông sản, khoáng sản…). Những cuộc bàn
bạc, trao đổi này lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ, dần dần số lượng gia tăng, rồi hình
thành một “khu chợ riêng”. Tại những cuộc bàn bạc này, họ trao đổi và thương lượng
nhưng chỉ là những lời nói miệng với nhau, không có hàng hóa, ngoại tệ hay bất cứ
một loại giấy tờ hay hàng mẫu nào trong tay cả. Những cuộc thương lượng này nhằm
thống nhất với nhau các “hợp đồng” mua bán, trao đổi thực hiện ngay và những hợp
đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm sau mới thực hiện.
Cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” trở thành một thị trường, ở đó họ thống nhất
với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Những quy ước đó được sửa đổi
hoàn chỉnh dần thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung.
Phiên chợ riêng diễn ra đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình
Vanber ở Thành phố Bruges, nước Bỉ. Tại đây, các thương gia từ nhiều nước gặp gỡ
và trao đổi thông tin, mua bán hàng hóa. Tại lữ điếm Vanber có một bảng hiệu hình 3
túi da với một từ tiếng Pháp “Bourse” nghĩa là “Mậu dịch trường” hay còn gọi là “Sở
giao dịch”. Từ đó chữ “Bourse” được dùng để chỉ nơi buôn bán chứng khoán. Tuy
nhiên vào năm 1547, thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh do eo biển Even bị cát lấp,
tàu bè ra vào khó khăn. “Mậu dịch trường” ở đây sụp đổ và được chuyển qua thành
phố Auvers, một hải cảng lớn của Bỉ thời đó.
Lần đầu tiên vào năm 1531, ở Auvers triển khai các nghiệp vụ về chứng khoán
(mua bán các khoản nợ của Chính phủ Anh, Hà Lan, Tây Ban Nhan, Bồ Đào Nha và
Pháp). Thị trường này phát triển nhanh, giữa thế kỷ 16 quan đại thần Anh quốc
Thomas Gresham đến đây thị sát về thiết lập một TTCK tại London, sau này được gọi
là Sở giao dịch Chứng khoán London. Theo hình mẫu của TTCK Auvers người ta
thành lập TTCK tại các thành phố Lyon (Pháp-1545), Amsterdam (Hà Lan-1608)…


Ở Mỹ, TTCK được hình thành vào năm 1792 trên cơ sở thỏa thuận của một số

nhà môi giới chứng khoán dưới gốc cây ngô đồng ở góc phố Wall, đó là tiền thân của
TTCK New York ngày nay. TTCK phát triển khá mạnh vào nữa cuối thế kỹ 19 trong
mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của nội thương và ngoại thương trên cơ sở sử
dụng các phương tiện hiện đại về giao thông, thông tin liên lạc giữa các sở giao dịch.
Từ thế kỷ 20, TTCK New York giữ vai trò quan trọng nhất, lớn thứ hai là TTCK
Tokyo, tiếp theo là các TTCK London, Paris, Frankfurt…
Lịch sử phát triển của TTCK trên thế giới đã trải qua rất nhiều thời kỳ biến
động. Thời kỳ phát triển nhất là những năm 1875-1913, nhưng đến “ngày thứ Năm đen
tối” tức ngày 29/10/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm cho TTCK Tây
Âu, Bắc Âu lâm vào khủng hoảng, mất lòng tin. Sau thế chiến thứ II, các TTCK được
hồi phục, phát triển. Đến năm 1987, cuộc khủng hoảng tài chính một lần nữa làm cho
TTCK chao đảo và hậu quả của nó không thua kém gì cuộc khủng hoảng năm 1929.
Thứ hai ngày 19/10/1987 đã đi vào lịch sử nước Mỹ-ngày hoan mang cực độ của
ngành tài chính Mỹ. Chỉ số công nghiệp Dow-Jones giảm 508,32 điểm, tương ứng
22,6%-mức giảm kỷ lục trong lịch sử TTCK. Hậu quả của nó không chỉ giới hạn trong
phạm vi nước Mỹ mà còn mở rộng ra phạm vi toàn cầu và được xem là “ngày thứ 2
đen tối”. Sau đó, TTCK được hồi sinh cho đến thời gian gần đây, vào năm 1997-1998
với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á đã làm cho TTCK của các nước
trong khu vực khủng hoảng phải đóng cửa nhiều ngày đã tác động mạnh mẽ đến thị
trường hùng mạnh trong và ngoài khu vực như New York, Tokyo… Qua nhiều biến
động, nhưng ngày nay TTCK thế giới vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành một
thể chế tài chính không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế
thị trường. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển đang cần thu hút vốn dài hạn
lớn cho phát triển nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Thị trường chứng khoán
2.2.2.1. Định nghĩa
Thị trường chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế hoạt động giao
dịch mua bán chứng khoán dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài
chính khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phát sinh…



Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Mặt khác, TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều
đối tượng tham gia với mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch các
sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK
cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi không chính đáng thông qua các
hoạt động gian lận, không công bằng gây tổn thất cho các nhà đầu tư, tổn thất cho thị
trường và cho nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp của TTCK, việc
điều hành và giám sát thị trường vô cùng cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, công
bằng và lành mạnh trong hoạt động của thị trường.
2.2.2.2. Chức năng của thị trường chứng khoán
Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Do vậy, TTCK có những chức năng cơ bản sau
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do
các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: thị trường chứng khoán cung cấp
cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú.
Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời gian và độ rủi ro,
cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu
và sở thích của mình.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: các chỉ
báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác.
Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng;
ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì
thế, TTCK được gọi là “Phong vũ biểu” của nền kinh tê và là công cụ quan trọng giúp
Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể

mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện


pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối
của nền kinh tế.
2.2.2.3. Vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động đã trở thành một kênh đầu tư và huy động
vốn hiệu quả. Chính vì vậy, nó giữ một vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia, cụ thể là:
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: nhờ có TTCK các nhà đầu tư có
thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán
khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của
chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn
đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: thông qua giá của chứng khoán, hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho
việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện,
từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm…
Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: thị trường chứng
khoán hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của công
ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp; bảo lãnh phát hành;
phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính thanh khoản cho chúng và như
thế thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần. Ngược lại, chính sự phát
triển của mô hình công ty cổ phần đã làm phong phú và đa dạng các loại hàng hóa trên
TTCK, thúc đẩy sự phát triển sôi động của TTCK. Có thể nói TTCK và công ty cổ
phần là hai định chế song hành hỗ trợ nhau phát triển.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: thị trường chứng khoán không những thu hút

các nguồn vốn trong nước mà còn giúp Chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành
trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ.
Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán là an toàn và hiệu quả vì
các chủ thể phát hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà
không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của nhà đầu tư nước ngoài.


2.2.2.4. Phân loại thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán những tài sản tài
chính (cổ phiếu, trái phiếu…). Vì vậy, có rất nhiều cách để phân loại TTCK theo các
tiêu thức phân loại khác nhau. Sau đây, là một số cách phân loại thị trường chứng
khoán phổ biến hiện nay.
a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Đối với thị trường chứng khoán ở bất kỳ quốc gia nào, dù mới hình thành hay
đã phát triển nếu căn cứ theo tiêu thức phân loại này đều được cấu thành từ hai bộ
phận thị trường với chức năng khác nhau đó là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên
thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành của nhà phát hành.
Vai trò của thị trường sơ cấp là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng
khoán ra công chúng; thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản
tiền nhàn rỗi tạm thời trong công chúng vào đầu tư, chuyển tiền từ dạng ngắn hạn sang
dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và
đồng thời cũng tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch; người bán chứng khoán trên
thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc nhà nước, Ngân hàng nhà nước,
Công ty phát hành,…; giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành
quyết định và thường được in trên chứng khoán.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp nhằm đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.

Đặc điểm của thị trường thứ cấp là các khoản tiền thu được từ việc bán chứng
khoán thuộc về nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về
nhà phát hành; giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do,
giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung cầu quyết định; thị trường hoạt động
liên tục, các nhà đầu tư có thể mua bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ
cấp.
Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết với nhau,
không thế tách rời nhau, là hai bộ phận cấu thành nên TTCK. Trong đó, thị trường sơ


cấp là cơ sở, là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ
cấp thì không thể có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại
không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp sẽ khó hoạt động trôi chảy.
b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Căn cứ theo tiêu thức này thì thị trường chứng khoán được phân thành thị
trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường
OTC).
Thị trường chứng khoán tập trung là thị trường mà ở đó việc mua bán chứng
khoán thông qua sở giao dịch chứng khoán. Các chứng khoán được tập trung tại một
địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh
để hình thành nên phiên giao dịch.
Thị trường chứng khoán phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (Over The
Counter), dành cho chứng khoán chưa niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Trên
thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán
phân tán khắp quốc gia và nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường được
hình thành theo phương thức thỏa thuận.
c) Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các loại thị trường: thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phát sinh.
Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao

gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được
phát hành, bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phát sinh là thị trường phát hành và mua
đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp
đồng quyền chọn..
2.2.2.5. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia trên TTCK có thể được chia thành ba nhóm
sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà
phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hóa của TTCK gồm có chính


phủ và chính quyền địa phương là người phát hành các trái phiếu chính phủ và trái
phiếu địa phương; công ty là nhà phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty; các tổ chức
tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ
hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà
đầu tư có thể được chia thành nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Trong đó,
nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tham gia TTCK với mục đích tìm
kiếm lợi nhuận; nhà đầu tư có tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số
lượng lớn trên thị trường và được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Ngoài
ra còn có các công ty chứng khoán đóng vai trò trung gian đảm nhận một hoặc nhiều
các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và
tư vấn đầu tư chứng khoán.
Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán như Ủy ban chứng khoán,
Sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
2.2.2.6. Cơ chế điều hành và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
a) Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát TTCK gồm các cơ quan

quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản.
Các cơ quan lý của Chính phủ là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hoạt động của TTCK. Đó là Ủy ban chứng khoán một cơ quan quản lý
chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán với các chức năng như thực
hiện các quy định quản lý ngành chứng khoán của Bộ Tài chính; kiểm soát mọi vấn đề
trong hoạt động thị trường như đăng ký chứng khoán, giám sát các công ty niêm yết,
phát hiện và xử lý các trường hợp gian lận; quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám
sát hoạt động của các tổ chức này; thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để đảm
bảo lợi ích chung của công chúng trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật.
Các tổ chức tự quản gồm Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán. Trong đó, Sở giao dịch là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán
thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán thực hiện
trên Sở. Các chức năng của Sở như là điều hành các hoạt động diễn ra trên Sở; giám
sát theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và khách hàng; hoạt động điều


×