Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Cảm nhận và suy nghĩ của em về nỗi buồn của Thúy Kiều trong tám dòng cuối đoạn trích Kiều ở lầu ngưng bích (Truyện Kiều) .Từ đó có nhận xét gì về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.28 KB, 42 trang )

Truyện Kiều.
Câu III (5,0 điểm)
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
(Nguyễn Du, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Ngữ văn 9, tập một, Nxb Giáo dục)

Cảm nhận của em về đoạn thơ trên.
Câu III: TS cần có các ý cơ bản sau
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích.
- Cảm nhận được tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều từ nỗi niềm thương nhớ Kim
Trọng, thương nhớ cha mẹ.
+ Thương nhớ chàng Kim: Nhớ lời thề, lời nguyện ước, tưởng tượng chàng Kim đang
hướng về mình, đau đáu chờ tin..., nhớ với tâm trạng đau đớn xót xa...
+ Thương nhớ cha mẹ: Thương và xót, ân hận phụ công sinh thành nuôi dạy...(TS phân
tích theo nội dung 4 câu thơ)
+ Kiều là người đáng thương nhất (trong cảnh ngộ ở lầu) nhưng nàng quên cảnh ngộ bản
thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ chứng tỏ nàng là người tình thủy chung, người
con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha...
- Cảm nhận được tâm và tài của Nguyễn Du
+ Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm (độc thoại) phù hợp qui luật tâm lí (Kiều nhớ Kim Trọng
trước, cha mẹ sau), diễn tả tinh tế; vẻ đẹp ngôn từ, dùng thành ngữ, điển cố...

Câu 4: Nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều của Nguyễn Du qua đoạn trích “Chị em
Thúy Kiều” (5 điểm)


“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm chuân chuyên”
a) Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích, sơ lược nội dung đoạn trích.
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du vừa mang nét truyền thống vừa mang
những nét sáng tạo riêng. Thể hiện tình yêu thương con người đặc biệt là đối với phụ nữ.
b) Thân bài:
 Hình ảnh của chị em Thúy Kiều qua ngôn ngữ của Nguyễn Du
- Bốn câu đầu giới thiệu vẽ đẹp chung của chị em Thúy Kiều về vai vế , sắc đẹp và tính cách của
hai người .Vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều , qua ngòi bút sắc bén của Nguyễn Du


Đầu lòng hai ả Tố Nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười .
- Bốn câu tiếp theo tiếp theo: Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. So sánh với những hình ảnh để làm
nổi bật sắc đẹp của Thúy Vân. Lồng vào việc miêu tả hình dáng , nhà thơ đề cập đến tính cách “
Trang trọng”
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặc, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt, đoan trang
Mâ thua nước tóc, tuyết nhường màu da
- Miêu tả Thúy Kiều
+ Dựa vào Thúy Vân làm chuẩn, Thúy Vân “ sắc sảo mặn mà” thì Thúy Kiều “ càng sắc sảo mặn
mà” hơn với
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
+ Phép so sánh được vận dụng để làm tăng thêm sắc đẹp của Kiều . Mượn thơ của Lý Diên Niên

“ Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” để khẳng định thêm sắc đẹp ấy.
- Tính cách thì “ Sắc đành đòi một, tài đành học hai:
+ Tạo hóa đã phú cho nàng trí thông minh .đa tài, thơ, đàn, ca, vẽ, những thứ tài mà trong chế độ
phong kiến ít có phụ nữ nào có nếu không bảo là điều cấm kị.
+ Nhà thơ còn báo trước cuộc đời bạc mệnh khi đề cập đến sở thích nhạc buồn của Nàng. Kiều
trở thành nhân vật của thuyết: “ tài mệnh tương đối”
+ Tả qua thái độ ghen ghét , đố kị của thiên nhiên “ hoa ghen” “ liễu hờn”.
_ Bốn câu thơ cuối : Tính cách đạo đức , hoàn cảnh sống của hai nàng, nhàn nhã, trang trọng.
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
c) Kết bài:
- Nguyễn Du là người thấy của văn miêu tả con người
- Kính phục, học tập ở nhà thơ để giữ gìn sự trong sáng và cái hay của Tiếng việt.
Câu 4: Cảm nhận và suy nghĩ của em về nỗi buồn của Thúy Kiều trong tám dòng cuối
đoạn trích Kiều ở lầu ngưng bích (Truyện Kiều) .Từ đó có nhận xét gì về nghệ thuật tả cảnh ngụ
tình của Nguyễn Du.
(5 điểm)
Trả lời:
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết: “ Tiếng nói Việt Nam trong Truyện Kiều như làm
bằng ánh sáng vậy, nó trong suốt như dòng suối, dòng suối long lanh đáy nước in trời ….”
Dòng suối ấy đã hòa tan và làm trong trẻo cả những điển tích, những từ Hán Việt xa lạ để biến nó
thành thơ, thành nhac, trong tiếng nói Việt Nam. Đặc biệt là đoạn trích “Kiều ở lầu ngưng bích”
của Nguyễn Du. Đoạn diễn tả trực tiếp tâm trạng, tình cảm sâu sắc, chân thực của Thúy Kiều.
a) Mở bài:
- Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du giai đoạn truy ện Nôm trong văn học
trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa vào truyện Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, tác phẩm có ta1xc giá trị lớm về nội
dung của như nghệ thuật.



-

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc, sau kh biết mình bị lừa vào lầu xanh
Kiều uất ức định tự vẫn.
- Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều.
b) Thân bài:
 Tâm trạng đau buồn của Thúy Kiều hiện lên qua bức tranh và cảnh vật ( 8 câu)
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
- Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều. Cảnh được quan sát từ xa
đến gần.Về màu sắc thì được miêu tả từ màu nhạt đến đậm.về âm thanh thì tác giả lại miêu tả từ
tĩnh đến động. Nỗi buồn thì tác giả mieu tả từ nỗi buồn man mác dần tăng lên nỗi lo âu, kinh sợ.
Ngọn gió cuốn mặt duềnh và “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” là cảnh tượng hải hùng ,
như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Nàng.
- Bằng hai câu hỏi tu từ: “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa? “ Hoa trôi man mác
biết là về đâu?, tác giả đã làm nổi bật lên tâm trạng của Thúy Kiều lo sợ cô đơn lẻ loi. Kiều nghĩ
đến tương lai mờ mịt, héo mòn của mình.
- Điệp từ “ Buồn trông” diễn tả nỗi buồn triền miên
- Một “cánh buồn thấp thoáng” nơi “cửa bể chiều hôm” gợi nỗi cô đơn
- Một cánh “hoa trôi man mác” tượng trưng cho số phận lênh đênh của Nàng
- Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu”, chân mây mặt đất thể hiện kiếp sống phong trần của người
con gái bất hạnh.

- Cuối cùng là ầm ầm tiếng sóng làm cho nàng lo sợ những tai họa như đang phủ xuống
cuộc đời nàng
c) Kết bài:
- Đoạn tri1cxh Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ hay nhất trong Truyện
Kiều. Bởi vì, qua đoạn trích, người đọc cảm nhận được tâm trạng buồn cô đôn, lẻ loi.
- Qua đoạn trích, người đọc thấy rõ nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc
thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc tình tình của Nguyễn Du.
- Học đoạn trích , ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ. Nhà thơ đã xót thương
cho một người con gái tài hoa mà bạc mệnh như nàng Kiều
*Tiêu chí về nội dung các phần bài viết:
a. Mở bài: (0,5 điểm)
- Mức tối đa (0,5 điểm): Học sinh biết cách dẫn dắt, giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn
đề nghị luận hay/tạo ấn tượng.
- Mức chưa tối đa (0,25 điểm): Học sinh biết cách dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị
luận phù hợp nhưng chưa hay, còn mắc lỗi về diễn đạt, dùng từ.
- Mức không đạt: Lạc đề, mở bài không đạt yêu cầu, sai cơ bản về kiến thức đưa
ra/hoặc không có mở bài.


b. Thân bài (3,0 điểm)
+ Mức tối đa:
* Giải thích ngắn gọn nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
* Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của đoạn thơ là mượn cảnh sắc
thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích. Bức tranh thiên nhiên cũng là bức tranh tâm trạng:
- Thiên nhiên mang những sắc thái khác nhau: khi mênh mông rợn ngợp,
khi héo úa, mờ mịt, lúc lại mạnh mẽ, dữ dội.
- Tâm trạng của Thúy Kiều:
Trước không gian mênh mông rợn ngợp, Kiều cảm thấy mình nhỏ bé, cô
đơn, lạc lõng.

Trước cảnh sắc héo úa, mờ mịt, Kiều lo lắng tuyệt vọng nghĩ về tương lai.
Khi thiên nhiên mạnh mẽ, dữ dội, Kiều lo lắng sợ hãi nghĩ về thân phận
mình.
- Cảnh được nhìn qua tâm trạng Thúy Kiều. Mỗi biểu hiện của cảnh phù
hợp với từng trạng thái của tình. Cảnh vừa như ẩn chứa nỗi niềm tâm tư,
cảm xúc của con người vừa khơi gợi nỗi buồn trong lòng người. Nỗi
buồn trong lòng người thấm vào cảnh vật. Nội tâm và ngoại cảnh có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau theo quan niệm: Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ. Cảnh và tình hòa quyện với nhau tinh tế và tự nhiên.
* Đặc sắc về hình ảnh, từ ngữ:
- Những hình ảnh ẩn dụ gợi liên tưởng tới cuộc đời và thân phận con
người.
- Điệp ngữ Buồn trông, các từ láy, vần bằng dàn trải thể hiện sâu sắc nỗi
buồn sầu lo lắng, triền miên của Thúy Kiều, tạo âm hưởng trầm buồn cho
cả đoạn thơ.
 Đoạn thơ thể hiện một cách cảm động cảnh ngộ và thân phận đau
thương của nàng Kiều, diễn tả thành công tâm trạng của Kiều đồng thời
cho thấy sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nỗi đau và
thân phận con người. Đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình
tuyệt bút nhất của Truyện Kiều.
+ Mức chưa tối đa: Nếu thiếu 1 trong các ý trên trừ điểm cho hợp lí.
+ Mức không đạt: Không làm bài hoặc làm sai.
c. Kết bài (0,5 điểm)
+ Mức tối đa: (0,5 điểm)
- Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đoạn thơ
- Nhận xét đánh giá về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa và nay.
+ Mức chưa tối đa (0,25 điểm): Thiếu 1 trong 2 ý trên.

0,25
2,0


0,5

0,25


+ Mức không đạt: Không làm bài hoặc làm sai.

Câu 5: (5 điểm)
Phân tích đoạn trích sau :
CẢNH NGÀY XUÂN
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài
sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông
hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như
nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy
bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh
thanh.
Nao nao dòng nước uốn
quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc
ngang.
(Nguyễn Du, Truyện
Kiều)
Ngữ văn 9, Tập1,NXBGDVN, 2010,
tr.84, 85)

Câu 5:
Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày khác nhau. Tuy nhiên, cần đảm bảo các yêu
cầu:
- Phân tích một đoạn thơ.
- Bài viết có kết cấu đầy đủ, rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Hành văn trong sáng, sinh
động.
Sau đây là một số gợi ý :
+ Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
+ Giới thiệu đoạn thơ và vị trí của nó.
+ Giới thiệu đại ý đoạn thơ: tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Kiều đi
chơi xuân.
+ Dựa theo kết cấu của đoạn thơ để phân tích.
* Phân tích 4 câu thơ đầu : khung cảnh ngày xuân với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
- 2 câu đầu vừa nói về thời gian, vừa gợi không gian: thời gian là tháng cuối cùng của
mùa xuân; không gian: những cảnh én rộn ràng bay liệng như thoi đưa giữa bầu trời
trong sáng.
- 2 câu sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân, với hình ảnh thảm cỏ non trải rộng
tới chân trời. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp

riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống; trong trẻo, thoáng đạt; nhẹ
nhàng, thanh khiết. Chữ điểm làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không
tĩnh tại.
* Phân tích 8 câu thơ tiếp : khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
- Tảo mộ: đi viếng mộ, quét tước, sửa sang phần mộ của người thân; một loạt từ 2 âm
tiết là tính từ, danh từ, động từ gợi lên không khí lễ hội rộn ràng, đông vui, náo nhiệt
cùng với tâm trạng của người đi dự hội.


- Hội đạp thanh : du xuân, đi chơi xuân ở chốn đồng quê. Cách nói ẩn dụ: nô nức yến
anh gợi lên hình ảnh những đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân, nhất là những nam
thanh nữ tú, những tài tử giai nhân. Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả
còn khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa.
* Phân tích 6 câu thơ cuối : khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng
nhưng không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần,
lặng dần theo bóng ngã về tây.
- Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng của hai cô gái tuổi thanh xuân với những cảm
giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn và những linh cảm về
điều sắp xảy ra sẽ xuất hiện : nấm mồ của Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng.
+ Đoạn trích thể hiện nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du: kết hợp bút pháp
tả và gợi, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để thể hiện cảnh ngày xuân với những đặc
điểm riêng, miêu tả cảnh mà nói lên được tâm trạng của nhân vật.
Đề 10: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9, tập I,
em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng nói
lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng
chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu hạnh
phúc...

Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều
là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong
kiến vùi dập, đoạ đày.
Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây.
Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi
kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người quốc sắc,kẻ thiên tài”, nhưng
cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ
hàn gắn được-tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc
nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.
Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về nhân phẩm. Nàng trở
thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ
như Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là:
“Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người
trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi
lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.
Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng.
Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để
trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.
Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi sinh tình
yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới cha mẹ với những tình cảm chân thực.
Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt
không nguôi vì một nổi là không được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Thuý
Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những


người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ
thường-mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền

sống.
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ Thuý Kiều- Kim
Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như
một chén rượu nồng, khiến người ta choáng váng đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng thoăn thoắt đi sang nhà
Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối
tình đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một
khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ động của hai người.
Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng
gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp bức vùng
lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:
“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.
Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên đòi quyền sống, đòi lẽ
công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong
nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác...
Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và
con người quyết định theo công lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)
Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương rất mực đề cao con
người, đề cao những khát vọng chân chính của con người- đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến.

Đề: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh diệu,
Nguyển Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân
vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân phận...toát ra từ diện mạo
của mỗi vẻ đẹp riêng”.

Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đàu của câu chuyện. Trong đoạn trích này, Nguyễn
Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của chị em Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế
và độc đáo, người đọc có thể nhận thấy tấm lòng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật
của mình. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình)
mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của
truyện.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với bốn câu thơ:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt cách” đến vẻ đẹp bên trong
tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:
“Vân xen trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, màu da,
mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của


văn học cổ trung đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách
thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức
chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân tình của Nguyễn du bổng rở nên sống động là nhờ đã chứa đựng
trong đó quan niệm về tài sá của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu
của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của nàng.
Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp và giàu sức gợi tả,
được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên
mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh
hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng.

Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ thuật của tác giả. Đó thực chất
chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật “tả khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của
Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt
vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngòi bút miêu tả tài hoa của Ng Du, hình ảnh nàng
Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”.
Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi non như sắc núi mùa xuân
“làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc
đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị ghen ghét
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp “sắc sảo mặn mà” khiến
thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Ng
Du đã không tiếc lời ca ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông minh, đa
tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
“ Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của nàng Kiều.
Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm “Tài hoa bạc mệnh” vào
đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút tài hoa, chắt lọc, trau
chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ
đẹp riêng, toát lên từ tính cách, từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn
người đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với
truyện Kiều và nghẹ thuật tả người đặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục,
trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc Ng.Du.


Đề : Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã
dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên cò mồi Mã Giám Sinh
và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng
Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao
mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng
là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều
tự bộc lộ tâm trạng của mình.


Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn
ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ
thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp
chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô
đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng
hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói với nhau được một lời,
nổi oan gia quá ư đột ngột:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát
khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha
mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu.
Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng
Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm.
Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi buồn của nàng thì như cố định.
Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định
mệnh không sao thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ
của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và
Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc
thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”
...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
...”Buồn trông ngọn nước mới sa”
...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây
trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết cuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió
cuốn”, “sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào

lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách buồng thấp thoáng phía xa
“Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.


Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc
đời, về số phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh thì cảnh
“nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là
về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào.
Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó.
Phải chăng như Nguyễn
Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận
được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai
lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh và tình
bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu
(3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được
nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà
thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc đời.

Đề : Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động diễn tả tâm trạng
buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
a. Giới thiệu xuất xứ đoạn trích dựa vào những hiểu biết về vị trí của nó trong văn bản và tác phẩm.
b. Phân tích các cung bậc tâm trạng của Kiều trong đoạn thơ :
- Điệp từ "Buồn trông" mở đầu cho mỗi cảnh vật qua cái nhìn của nàng Kiều : có tác dụng nhấn mạnh và gợi
tả sâu sắc nỗi buồn dâng ngập trong tâm hồn nàng.

- Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà bên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mác đến "nội cỏ
rầu rầu, tiếng sóng ầm ầm" đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều : sự cô đơn, thân phận trôi nổi lênh
đênh vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ. Đúng là
cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều : cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh
từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác lo âu đến kinh sợ. Ngọn giáo cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc
đời Kiều.
c. Khẳng định nỗi buồn thương của nàng Kiều cũng chính là nỗi buồn thân phận của bao người phụ nữ tài sắc
trong xã hội cũ mà nhà thơ cảm thương đau xót.

BÀi mẫu
Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam lỏng ở đấy, dùng “Mưu ma
chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau
đớn, nhục nhã, ê chề: gia đình bị mắc oan, phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về
làm lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ nhục và dở trò đánh đạp để ra uy. Từ tâm
trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngoài, do đó, những ghi nhận về cảnh là những ghi nhận về tình. Vì mối
quan hệ tình cảnh đó, người đọc càng hiểu sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.
Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với Mã. Thật ra Mã mua Kiều về
cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã nổi giận đùng đùng, đánh đập Kiều, bắt Kiều tiếp khách.
Phẫn uất khi bị lừa dối, bị hành hạ, Kiều quyết định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể “thất thoát”...Tú Bà



dựng th on khuyờn nh, d dnh v ha s tỡm mt ni xng ỏng cho nng v sau, Tỳ B a Kiu v
lu Ngng Bớch.
Sau nhng au n ờ ch, trong l loi, Kiu ngúng i tin tc ngi tỡnh Tng ngi di nguyt
chộn ng-tinh sng ...trụng mai ch. Nng ngh v cha m tui gi búng x Xút thng .....-qut
nng ......ú gi?
Chớnh trong tõm trng ngn ngang nhiu ni ú, Kiu nhỡn ra cỏi mờnh mụng ca bin c. T trong
cnh soi vo lũng mỡnh hin ti, Kiu gp li lũng mỡnh:
Bun trụng ca b chiu hụm
Thuyn ai thp thoỏng cỏnh bum xa xa?
Gia cỏi mờnh mụng ca tri bin, trong mu xanh xam xỏm ca ban chiu, cú nhng cỏnh bum lỳc
n lỳc hin: chic thuyn ra khi, chic thuyn hng v t lin. T ni tõm ang au kh, Kiu nh nhỡn
nhn t trong ai ú,Trong nhng chic thuyn t bin khi, trong tm mt xa khi ca cnh v con
ngi. ang trụng vng mt ni hi t m sao li cỏch bit, chia li lm vy?
Li th bỡnh d, nhng gỡ gi lờn trong õm hng ca cõu th - l ni khc khoi, xoỏy sõu vo lũng
Kiu:
Bun trụng ngn nc mi sa,
Hoa trụi man mỏc bit l v õu?
Trụng ngn nc ang cun cun chy, nhiu cỏnh hoa trụi dt. Cú tht l cỏnh hoa chng? Khụng
phi vy! Ngi c cm nhn c trong dũng nc ang cun cun chy kia nhiu cỏnh hoa trụi dt.
Cng cú th l cỏnh hoa, cng cú th l dũng nc cun cun thiu gỡ nhng bt bốo trụi ni. Trong cỏi mờnh
mụng vụ nh, cỏi cnh nc chy, hoa trụi l lng y gn hp vi thõn phn con ngi b nộm vo cnh
sng y bin ng, y bt cụng v bc ỏc - thõn phn Thuý Kiu, chỳng ta mi hiu c tõm trng ca
nng Kiu trong lỳc ny.
Li th rt gin d v hỡnh nh n d sc so v cuc i- cuc i ngi n b (nh ngi i thng
quan nim i hoa)
Nhiu ln Kiu cng t vớ mỡnh Hoa trụi, bốo dt ó nh. Bit duyờn mỡnh, bit phn mỡnh th thụi
Bun bó, Kiu li nhỡn vo ng ni:
Bun trụng ni c du du
Chõn mõy, mt t mt mu xanh xanh.
Mu mõy, mu c nht ho vo vi nhau thnh mt mu xanh xanh khú phõn bit. M lm sao phõn bit

c mu tri, sc mõy trong cnh chiu t, gia cỏi mờnh mụng, bỏt ngỏt trong lỳc tõm hn cũn nhiu
ngn ngang nh th. V cui cựng:
Bun trụng giú cun mt dunh
m m ting súng kờu quanh gh ngi
Trong cõu th, c lờn, ta nghe cú ting giú v ting súng bin ang m m kờu quanh ... nng
Kiu nh ang trong tõm trng lo lng, hong s tng nh khụng ngi trờn t lin na m nh ang ngi
gia bin khi, bn phớa m m ting súng. Ting súng õy, trong cõu th khụng phi l õm thanh ca
ting súng bỡnh thng: súng v, súng xụ, súng do dt, ... m ting súng kờu m m t phớa, ngm d bỏo
cn súng giú, bóo tỏp ca cuc i tht d di s p n vi Thuý Kiu, vi on trng mi lm nm lu
lc ang ch i nng.
on th ny hay khụng nhng vỡ ó khỏi quỏt c tõm trng ca nng Kiu khi lu Ngng Bớch
m cũn m ra nhng iu d bỏo v sau ca cuc i Kiu.
Nhng d bỏo m h ca tõm linh khụng lõu ó n vi Kiu. Tỏm cõu th cui ca on trớch Kiu lu
Ngng Bớch cng khng nh ngũi bỳt ti hoa ca Nguyn Du trong bỳt phỏp t cnh, t ni tõm nhõn vt ti
tỡnh, gi cm, li n tng sõu lng trong lũng ngi c xa v nay, thm óm tinh thn nhõn o sõu
sc.

: Đoạn văn
Trong Truyện Kiều có câu:
Tởng ngời dới nguyệt chén đồng
..
Hãy chép 7 câu thơ tiếp theo.
1. Đoạn thơ vừa chép diễn tả tình cảm của ai với ai?


2. Trật tự diễn tả tâm trạng nhớ thơng đó có hợp lí không ? Tại
sao ?
3. Viết một đoạn văn ngắn theo cách diễn dịch phân tích tâm
trạng của nhan vật trữ tình trong đoạn thơ trên.
Gợi ý :

2. Đoạn thơ vừa chép nói lên tình cảm nhớ thơng Kim Trọng và cha mẹ của Thuý
Kiều trong những ngày sống cô đơn ở lầu Ngng Bích.
3. Trật tự diễn tả tâm trạng nhớ thơng của Kiều: nhớ Kim Trọng rồi nhớ đến cha mẹ,
thoạt đọc thì thấy không hợp lí, nhng nếu đặt trong cảnh ngộ của Kiều lúc đó thì
lại rất hợp lí.
- Kiều nhớ tới Kim Trọng trớc khi nhớ tơi cha mẹ là vì:
+ Vầng trăng ở câu thứ hai trong đoạn trích gợi nhớ tới lời thề với Kim Trọng hôm nào.
+ Nàng đau đớn xót xa vì mối tình đầu đẹp đẽ đã tan vỡ.
+ Cảm thấy mình có lỗi khi không giữ đợc lời hẹn ớc với chàng Kim.
- Với cha mẹ dù sao Kiều cũng đã phần nào làm tròn chữ hiếu khi bán mình lấy tiền
cứu cha và em trong cơn tai biến.
- Cách diễn tả tâm trạng trên là rất phù hợp với quy luật tâm lí của nhân vật, thể
hiện rõ sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du, đồng thời cũng cho ta thấy rõ sự cảm
thông đối với nhân vật của tác giả.

: Đoạn văn
a. Cho câu thơ sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà

Hãy chép chính xác những câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp của
Thuý Kiều.
b. Em hiểu nh thế nào về những hình tợng nghệ thuật ớc lệ
thu thuỷ, xuân sơn? Cách nói làn thu thuỷ, nét xuân
sơn dùng nghệ thuật ẩn dụ hay hoán dụ? Giải thích rõ vì sao em
chọn nghệ thuật ấy?
c. Nói khi vẻ đẹp của Thuý Kiều, tác giả Nguyễn Du đã dự báo trớc cuộc đời và số phận của nàng có đúng không? Hãy là rõ ý kiến
của em?
Gợi ý:
a. Yêu cầu HS phải chép chính xác các câu thơ tả sắc đẹp của Thuý Kiều :
Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nớc nghiênh thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
b.
* Hình tợng nghệ thuật ớc lệ thu thuỷ, xuân sơn có thể hiểu là:
+ Thu thuỷ (nớc hồ mùa thu) tả vẻ đẹp của đôi mắt Thuý Kiều trong sáng, thể
hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ; làn nớc màu thu gợi lên thật sinh động vẻ
đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt.
+ Xuân sơn (núi mùa xuân) gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gơng mặt trẻ trung
tràn đầy sức sống.


+ Cách nói làn thu thuỷ, nét xuân sơn là cách nói ẩn dụ vì vế so sánh là đôi
mắt và đôi lông mày đợc ẩn đi, chỉ xuất hiện vế đợc so sánh là làn thu thuỷ, nét
xuân sơn
c. Khi tả sắc đẹp của Kiều, tác giả Nguyễn Du đã dự báo trớc cuộc đời và số phận
của nàng qua hai câu thơ:
Hoa ghen thua thắm, liễu gờm kém xanh
Vẻ đẹp của Thuý Kiều làm cho tạo hoá phải ghen ghét, phải đố kị: hoa ghen,
liễu hờn nên số phận nàng éo le, đau khổ, đầy trắc trở.

: Chép lại bốn câu thơ nói lên nỗi nhớ cha mẹ của Thuý Kiều
trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích và nhận xét về cách
dùng từ ngữ hình ảnh trong đoạn thơ.
* Gợi ý :
Yêu cầu :
- Chép chính xác 4 dòng thơ :
Xót ngời tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng ma,
Có khi gốc tử đã vừa ngời ôm.
Nhận xét cách ử dụng từ ngữ hình ảnh trong đoạn thơ : dùng những
điển tích, điển cố Sân Lai, gốc tử để thể hiện nỗi nhớ nhung và sự
đau đớn, dằn vặt không làm tròn chữ hiếu của Kiều. Các hình ảnh đó
vừa gợi sự trân trọng của Kiều đối với cha mẹ vừa thể hiện tấm lòng hiếu
thảo của nàng.
:Bằng những hiểu biết của em về Truyện Kiều, hãy trình bày
về nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ tính cách nhân vật của
Nguyễn Du.

I/ Tìm hiểu đề
- Đề yêu cầu phân tích một giá trị nghệ thuật nổi bật của nghệ thuật Truyện Kiều:
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Có thể nói trong văn học trung đại, không có một tác
giả thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nhân vật nh Nguyễn Du (theo Giáo s
Nguyễn Lộc).
- Chủ yếu sử dụng kiến thức trong các đoạn trích học, có thể vận dụng thêm một số
hiểu biết về các nhân vật trong truyện thông qua một vài câu miêu tả mỗi nhân vật.
- Căn cứ vào từng đoạn trích đã học mà khái quát lên đặc điểm bút pháp xây
dựng nhân vật của Nguyễn Du, để bố cục bài viết. Không nên phân tích cách viết
từng nhân vật, sẽ trùng lặp và thiếu sâu sắc.
II/ Dàn bài chi tiết
A- Mở bài:
- Sức hấp dẫn mạnh mẽ của Truyện Kiều chính là bởi nội dung sâu sắc tình đời đợc biểu hiện bằng hình thức nghệ thuật đạt đến trình độ mẫu mực của văn ch ơng
cổ điển.
- Một trong những thành công xuất sắc của Nguyễn Du là nghệ thuật miêu tả và
khắc hoạ tính cách nhân vật.
B- Thân bài :
1. Miêu tả ngoại hình rất độc đáo

Nguyễn Du khắc hoạ ngoại hình mỗi nhân vật hết sức cô đọng mà vẫn in dấu nét
mặt, bộ dạng của từng nhân vật, không ai giống ai.


- Thuý Vân, Thuý Kiều đều đẹp, nhng Vân thì:
Hoa cời ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nớc tóc tuyết nhừng màu da.
Còn Kiều thì :
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
- Cũng là trang nam nhi, Từ Hải là anh hùng cho nên chàng hiện ra oai phong lẫm
liệt:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mời thớc cao.
Kim Trọng là văn nhân, hiện ra thật nho nhã, hào hoa:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
- Cùng là những kẻ xấu xa, bỉ ổi, nhng Mã Giám Sinh thì : Mày râu nhẵn nhụi áo
quần bảnh bao ; còn Sở Khanh thì : Hình dung trải chuốt áo khăn dịu dàng.
Nhìn chung, Nguyễn Du miêu tả nhân vật chính diện theo bút pháp ớc lệ nhng có
sự sáng tạo nên vẫn sinh động ; tả nhân vật phản diện bằng bút pháp hiện thực nh
ngôn ngữ đời thờng cũng rất sinh động.
2. Miêu tả nội tâm tinh tế và sâu sắc
- Nguyễn Du thờng đặt nhân vật vào những cảnh ngộ có kịch tính để nhân vật
bộc lộ tâm trạng : Bị đẩy vào lầu xanh, định thoát chết để thoát nhục lại không
chết ; bị giam lỏng ở Lầu Ngng Bích, cha biết tơng lai lành dữ ra sao.
- Ông đặc biệt thành công trong miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ tự sự của
tác giả, qua độc thoại nội tâm và qua tả cảnh ngụ tình :
+ Tâm trạng của Kim Trọng và Thuý Kiều lần đầu tiên gặp nhau đợc miêu tả qua lời
kể của tác giả :

Ngời quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong nh đã mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn.
+ Tâm trạng nhớ ngời yêu của Thuý Kiều khi ở lầu Ngng Bích đợc bộc lộ qua tiếng
nói nội tâm của nàng.
+ Tâm trạng cô đơn, lo lắng của Kiều khi một mình ở lầu Ng ng Bích đợc miêu tả
qua cảnh thiên nhiên.
3. Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật sắc sảo
a) Khắc hoạ tính cách qua diện mạo, cử chỉ
- Thuý Vân: Với vẻ khuôn trăng đầy đặn, hoa cời ngọc thốt cho thấy tín cách đoan
trang, phúc hậu.
- Thuý Kiều : với đôi mắt nh làn thu thuỷ, nét xuan sơn toát lên tính cách thông
minh, đa cảm,
- Mã Giám Sinh : vẻ mặt mày râu nhẵn nhụi, trang phục quần áo bảnh bao, cử chỉ
ngồi tót sỗ sàng, cho thấy đó là kẻ trai lơ, thô lỗ.
- Hồ Tôn Hiến : cái vẻ mặt sắt cũng ngây vì tình tố cáo bản chất độc ác và dâm
ô của viên trọng thần.
b) Khắc hoạ tính cách qua ngôn ngữ đối thoại
- Lời lẽ Từ Hải thờng có tính khẳng định thể hiện rõ tích cách khẳng khái, tự tin:
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau
- Thuý Kiều nói với Thúc Sinh : nghĩa nặng nghìn non, Tại ai há dám phụ lòng cố
nhân, tỏ rõ nàng là con ngời trọng ân nghĩa.
- Hoạn Th liệu điều kêu xin : chút phân đàn bà, ghen tuông thì cũng ngời ta thờng
tình, thì đây quả là con ngời khôn ngoan, giảo hoạt,


C- Kết bài :
- Về phơng diện xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đạt những thành công mà cha

tác giả đơng thời nào theo kịp. Nhà thơ thờng miêu tả rất súc tích, chỉ cần một vài
câu thơ ông đã có thể khắc hoạ rõ nét ngoại hình và tính cách nhân vật. Nhng
tuyệt diệu nhất là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.
- Truyện Kiều sống mãi với thời gian phần lớn cũng là do những thành tựu nghệ thuật
này.

:Phõn tớch nhng thnh cụng v ngh thut miờu t cnh thiờn nhiờn trong on
trớch Cnh ngy xuõn.
Tỏc gi s dng bỳt phỏp ngh thut gi t. Ngay hai cõu u ó cho thy tỏc gi va nờu lờn thi
gian, va gi t khụng gian: ngy xuõn thm thot trụi mau, mi ú ó bc sang thỏng ba. Trong
thỏng cui cựng ca mựa xuõn, nhng cỏnh chim ộn vn rn rng bay ling nh thoi a gia bu
tri trong sỏng.
Ngh thut c t khi la chn mt s t ng, hỡnh nh nh c, cnh lờ, chõn tri, bụng hoa,... ó to
ra mt bc ho tuyt p v mựa xuõn:
C non xanh tn chõn tri,
Cnh lờ trng im mt vi bụng hoa.
Mu nn cho bc tranh xuõn l thm c non tri rng ti chõn tri. Trờn nn mu xanh non y im
xuyt mt vi bụng hoa lờ trng. Mu sc cnh xuõn ó cú s hi ho ti mc tuyt diu. Tt c u
gi lờn mt v p riờng ca mựa xuõn: mi m, tinh khụi, giu sc sng (c non), khoỏng t, trong
tro (xanh tn chõn tri), nh nhng, thanh khit (trng im mt vi bụng hoa). Ch im lm cho
cnh vt tr nờn sinh ng, cú hn ch khụng tnh ti.
Thnh cụng v cỏch dựng t ng ca tỏc gi:
S dng cỏc danh t cú th gi t s ụng vui ca nhiu ngi cựng n hi: ch em, yn anh,
ti t , giai nhõn .
S dng cỏc tớnh t th hin tõm trng ca ngi i hi: gn xa, nụ nc.
S dng nhng ng t gi t s rn rng, nỏo nhit ca ngy hi: sm sa, dp dỡu.
S dng nhiu tớnh t, danh t, ng t xut hin liờn tip gi lờn khụng khớ rn rng ca l hi:
gn xa, yn anh, ch em, ti t , giai nhõn, sm sa, dp dỡu.
S dng cỏch núi n d: nụ nc yn anh gi lờn hỡnh nh tng on ngi nhn nhp i chi xuõn
nh chim ộn, chim oanh bay rớu rớt.

Ngh thut t cnh ng tỡnh: t cnh thiờn nhiờn lỳc chiu t tan hi gi lờn ni bun man mỏc,
bõng khuõng, lu luyn ca con ngi.

:Nờu cm nhn ca em v khung cnh l hi trong tit Thanh minh c miờu t
trong on th Cnh ngy xuõn.


Trong ngày Thanh minh, cả hai hoạt động cùng được diễn ra một lúc:
Lễ tảo mộ: đi viếng mộ, quét tước, sửa sang lại phần mộ của người thân.
Hội đạp thanh: đi chơi xuân ở chốn đồng quê.
Một loạt tính từ, danh từ, động từ xuất hiện liên tiếp ( “gần xa”, “yến anh”, “chị em”, “tài tử ”, “giai
nhân”, “sắm sửa”, “dập dìu”) đã gợi lên không khí thật rộn ràng, đông vui, náo nhiệt của ngày hội.
Trong ngày hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp, các nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân đều có tâm trạng
vui vẻ, náo nức của người đi hội.
Qua cuộc du xuân của hai chị em Thuý Kiều, tác giả đã khắc hoạ một truyền thống văn hoá lễ hội xa
xưa của dân tộc: tiết Thanh minh, mọi người sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa áo quần để vui hội
đạp thanh. Người ta rắc những thoi vàng, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người thân đã
khuất.
Tóm lại, khung cảnh lễ hội trong ngày tiết Thanh minh rất mới mẻ, tinh khôi. Con người đều vui vẻ,
náo nức. Họ đi hội nhưng vẫn không quên những nét văn hoá xa xưa của dân tộc.

Bài mẫu
1.1Phân tích đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (Bài tuyển chọn)
Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh
tâm cảnh của kiều.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn che". Kiều đã trở thành
món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn,
nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích
Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:

"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó. "Khóa
xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót
cho thân phận nàng kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang
vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục.
Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn
xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng
vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang
trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không
một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều
chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp


và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín
của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến
Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiểu thui
thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đêm.
Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh
hoang vu, rợn ngợp và buồn vì ái tình riêng khiến lòng như bị xé:
"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy Kiều.
Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian
khổ sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng. Kiều nhớ về những người thân:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ".
Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong
lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu nữa còn xa xiết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế
nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, ssớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn
nhất của nàng lúc này là:
"Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ nàng đã hy
sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng
là kẻ phụ tình, tối hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều Nhớ chàng Kim trước là sự tinh
tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa
mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng
nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức
của trái tim rỉ máu. Kiểu đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng
để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho
thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu,
càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai.
Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong
nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xã, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn. Kiều đã tạm
để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung
thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều "xót":
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm".
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu lạc.
Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng
dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử"
đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi

quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng
thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách
mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người.
Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã
phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài
thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau
buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người
tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng
trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng của nhà
thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với


lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi
buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo
kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông
thấy là bể lúc chiều hôm:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung
cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa

như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê
nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước
mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt,
bị vùi dập ra sao:
"Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!"
Cách làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cách
hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.
"Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là "cỏ
non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn,
buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh
của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt,
cô quạnh này không biêé bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai
mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên
ầm ầm sau cơn gió:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau
đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi
như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh
được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động.
Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ
dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được
nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh
và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong
manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh
và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".

"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới xa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh".
"Buồn trông" là nhìn xưa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại


nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút
tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời
ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi
buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ
tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh
mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. "Buồn trông" trở thành điệp khúc của đoạn thơ
cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ
lên một bộ tớ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm
với hòa tấu phức điều của sóng biển, "sòng lòng", "sóng dời" đang vang lên những
tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội
nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng., yếu
đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai
lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ
người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình. Nguyễn Du đã chọn cách thể
hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút
với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và
tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng
mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm
thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.
.2. Phân tích tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du.
Bàilàm

Nửa
Bâng
(Tố

đêm
khuâng

qua
nhớ

Cụ

huyện
thương

Nghi
thân

nàng

Xuân
Kiều.
Hữu)

Hai câu thơ giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót
thương của ông đối với một nàng Kiều - hiện thân của một số phận bi đọa đày dưới thời phong kiến.
Ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau đó, tâm trạng của Kiều qua tám câu thơ tuyệt vời sau:
Buồn
Thuyền
Buồn

Hoa
Buồn
Chân
Buồn
Ầm

trông
ai

thấp
trông

trôi

man
trông

mây

mặt
trông

ầm

tiếng

cửa
thoáng
ngọn
mác

nội
đời
gió
sóng

bể
chiều
cánh
buồm
xa
nước
mới
biết

về
cỏ
rầu
một
màu
xanh
cuốn
mặt
kêu
quanh
ghế

hôm,
xa?
sa,
đâu?

rầu,
xanh.
duềnh,
ngồi…

Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn
Du trong miêu tả nội tâm nhân vật. Những dòng thơ lúc bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm tháng đi qua vẫn làm
say đắm lòng người. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương
bỗng
trào
lên
da
diết:
Buồn

trông

cửa

bể

chiều

hôm,


Thuyền

ai


thấp

thoáng

cánh

buồn

xa

xa?

Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng đang dần lịm tắt. Cảnh biển bao la một cánh buồm
chấp chơi gợi nỗi buồn day dứt quá. Cảnh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như không: "thấp
thoáng”, "xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình, mà còn gợi tình, gợi cảm. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh
của cánh buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi "góc bể chân trời” ?
Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh chim nhỏ nhoi trồng. Câu thơ của ông phảng
phất
phong
cách
diễn
đàn
của
ca
dao:
Chiều
Muốn

chiều
về


quê

ra
mẹ

đứng


bờ
không



sông
đò.

Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát khao nhưng vô cùng mệt mỏi: "Buồn
trông…”. Âm điệu lời thơ buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn đoá hoa nổi trôi,
bập
bềnh

định:
Buồn
Hoa

trông
trôi

man


ngọn
mác

nước
biết

mới


về

sa,
đâu?

Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, "Biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình
lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình ảnh "hoa trôi man mác” gợi
nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một đoá hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn hoa trôi
Kiều liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo
hoa tàn. Kiều lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong giông tố. Một ngày kia con chim
không tổ kia có chết rũ bên đường? Hình ảnh "hoa trôi" gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi lẽ dân
gian thường dùng hình ảnh "bèo dạt mây trôi" để nói về kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Những câu ca dao ấy
đã "phổ vào" hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ.
Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thuý Kiều. Xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm
một
màu
sắc
buồn
tẻ,
héo

tàn:
Buồn
Chân

trông
mây

mặt

nội
đất

cỏ
một

màu

rầu
xanh

rầu
xanh.

Vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trỉa, tạo cho ta cảm giác được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của
nhân vật trước cảnh vật mênh mông một màu buồn. Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi cảm ở mộ Đạm Tiên. Có
khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một ngôi mộ cụ thể mà thôi. Màu "xanh xanh" làm cho cỏ cây không
còn nét tươi sáng lại thêm vẻ "rầu rầu", làm cho sự sống càng thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh
héo
tàn
thêm.

Giữa
bốn
bề
phong
cảnh
tẻ
buồn
ấy,
Kiều
chợt
nghe,
chợt
thấy:
Buồn
trông
gió
cuốn
mặt
duềnhẦm
ầm
tiếng
sóng
kêu
quanh
ghế
ngồi.
Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ gợi thanh :"ầm ầm", "kêu". Hình ảnh những đợt sóng cuộc lên,
trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy "gió cuốn", nghe
"sóng kêu" bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng
hốt như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh

đầy dự báo đã mách bảo với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước.
Cả tám câu thơ đều "xoay tròn" trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với phép điệp ngữ kiên hoàn "Buồn trông...",
"Buồn trông..." các câu thơ không chỉ có âm điệu buồn, mà còn làm ta "chóng mặt" trước diễn biến tâm trạng


của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm
trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự thông cảm sâu sắc yêu thương Thuý Kiều biết bao!
Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hoà, thi sĩ Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức
tranh
tâm

tình
cảm
đầy
xúc
động,
mãi
mãi
làm
"say
lòng
người".

Đề: Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
* Gợi ý :
a. Mở bài : Giới thiệu chung về đoạn trích
- Cảm nhận chung về khung cảnh thiên nhiên được miêu tả trong đoạn trích
b. Thân bài : Khung cảnh ngày xuân
- Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân . Một bức tranh xuân tuyệt tác:

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. ”
- Ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt vải trong khung cửi -> không khí rộn ràng, tươi sáng của
cảnh vật trong mùa xuân; tâm trạng nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh quá. Như thế hai câu đầu vừa nói về
thời gian mà còn gợi tả không gian mùa xuân. Hai câu còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
“Cỏ non xanh tận chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
- Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh rợn -> gam màu nền của bức tranh ngày
xuân tươi đẹp. Sự phối hợp màu sắc của bức tranh thật hài hòa. Màu xanh non tượng trưng cho sự sinh sôi
nảy nở, cho sức sống đang lên , còn màu trắng là biểu tượng của sự trong trắng tinh khiết .
-> Ngày xuân ở đây thật khoáng đạt, mới mẻ, thanh tân, dạt dào sức sống trong một không khí trong lành,
thanh thoát. Từ “điểm” dùng ở đây làm cho bức tranh thêm sinh động, có hồn.
- Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng được miêu tả thật sinh động , náo nức:
“Gần xa nô nức yến oanh .
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên .
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
- Không khí rộn ràng đựơc thể hiện qua một loạt các từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình.Tất cả đều góp
phần thể hiện cái không khí lễ hội đông vui, một truyền thống tốt đẹp của những nước Á Đông.
" Tà tà ... bắc ngang".
- Cảm giác bâng khuâng nuối tiếc. Cảnh vật, không khí mùa xuân trong sáu câu này so với mấy câu
đầu đã có sự khác biệt. Mọi thứ đều đã lắng xuống, nhạt dần.
- Nắng xuân ấm áp hồng tươi vào buổi sớm giờ đây đã “nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp cầu bắc ngang
tuy vẫn giữ nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ nhàng, nhưng mặt trời ngả bóng về Tây,
bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc nuối, dòng nước uốn quanh.
- Cảnh chiều tan hội. Tâm trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Những từ láy “nao nao”, “tà tà”,

“thanh thanh” đâu chỉ tả cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng đãng, bâng khuâng, xuyến xao và tiếc
nuối…
c. Kết bài : - Nhận xét chung về cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong đoạn trích
- Nghệ thuật tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du.

Đề: Cảm nhận của em về tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
* Gợi ý:


a Mở bài: Giới thiệu chung về đoạn trích (Đoạn thơ hay nhất biểu hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự
sự, tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ độc thoại thể hiện nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều)
b. Thân bài:
* Tâm trạng của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
- Đó là tâm trạng cô đơn buồn tủi, đau đớn xót xa
- Nàng nhớ đến Kim trọng, thương chàng
- Nàng thương cha mẹ già thiếu người chăm sóc.
- Nàng nghĩ về hiện tại của bản thân thì thấy buồn dâng lớp lớp như tâm trạng ngổn ngang trước một
tương lai mờ mịt, bế tắc.
* Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du:
- Nhà thơ sử dụng ngoại cảnh để tả tâm cảnh.
- Vừa tạo ra sự đối lập Thiên nhiên rộng lớn- con người nhỏ bé cô đơn vừa tạo ra sự tuơng đồng :
cảnh ngổn ngang - tâm trạng ngổn ngang, cảnh mờ mịt nhạt nhoà - tâm trạng u buồn, bế tắc.
- Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ, các từ láy tạo nên sự trùng điệp như nỗi lòng của Kiều đang " Lớp
lớp sóng dồi"
C. Kết bài:
- Khẳng định nghệ thuật Vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
- Xót thương số phận tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.
- Căm ghét xã hội phong kiến xấu xa, thối nát, tàn bạo.


Đề Nêu cảm nhận của em về số phận của người phụ nữ việt nam dưới chế độ xã hội
phong kiến thông qua hình ảnh Vũ thị Thiết - (Chuyện Người con gái nam xương) và
Thuý Kiều - (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
* Gợi ý:
1. Mở Bài:
- Nhấn mạnh về số phận bất hạnh của người phụ nữ việt nam xưa.
- Giới thiệu hai tác phẩm Chuyện Người con gái nam xương- Nguyễn Dữ và Truyện Kiều - Nguyễn
Du).
2. Thân bài:
- Số phận bi kịch của người phụ nữ xưa:
+ Đau khổ, bất hạnh, oan khuất tài hoa bạc mệnh . Hồng nhan đa truân.
( - Không được sum họp vợ chồng hạnh phúc, một mình nuôi già, dạy trẻ, bị chồng nghi oan , phải tìm đễn
cái chết, vĩnh viến không thể đoàn tụ với gia đình chồng con… - Nàng vũ thị Thiết.
- Số phận vương Thuý Kiều: Bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ, phải bán mình chuộc cha, thanh
lâu hai lượt thanh y hai lần ( Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần phải vào lầu xanh, hai lần làm con ở) quyền
sống và quyền hạnh phúc bị cướp đoạt nhiều lần…).
+ Cảm thương xót xa cho cuộc đời của những người phụ nữ xưa. Căm giận xã hội phong kiến bất
công tàn bạo đã trà đạp lên nhân phẩm cuộc đời họ…
- Vẻ đẹp, nhân phẩm của họ:
+ Tài sắc vẹn toàn:
- Chung thuỷ son sắt (Vũ Thị Thiết)
- Tài sắc hiếu thảo nhân hậu, bao dung khát vọng tụ do công lý và chính nghĩa (Thuý Kiều).
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận bản thân. (Xót xa thương cảm) .
- Bày tỏ thái độ không đồng tình, lên án chế độ xã hội phong kiến bất công vô nhân đạo xưa).
- Khẳng định sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa hôm nay…

2.Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du (Bài hay)



Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình
ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian...

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong
nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có
một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn
học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao
thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm
phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:
Ngày xuân con én đưa thoi,
.........
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của "Truyện Kiều". Bút
pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình
dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây
phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là
khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ
cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng. Không gian, thời gian hiện
ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én
rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa
xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại
đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên toàn cảnh
vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa
thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu
năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên
nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã

cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh
non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt
mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm
của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa"
(Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi
thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu
sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi


sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện
được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho
cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc
màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là
người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có
thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du
đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn
Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét
bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người
đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn
Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa

sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách du
xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng
quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân
gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh
và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ
ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô
nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng
của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không
khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người
náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân",
Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông
mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai
thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối
"tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi
trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có
ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô
gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ
dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha
đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm


sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói
riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con

người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với
phong tục dân gian cổ truyền:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm
cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn hai trăm
năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay" thế
nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc
động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới
chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là
giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,
............
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn
dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ
không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ
nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo
thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình
man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà",
"thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con
người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc
cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt
Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao
nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu
luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui
chóng qua?


Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui
thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao
tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong
tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm
nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào
một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã
sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là
một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế
thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.


×