Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phong cách tản văn báo chí của ngô tất tố (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.15 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN BÙI KHIÊM

PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ
CỦA NGÔ TẤT TỐ

Ngành:

Báo chí học

Mã số:

9.32.01.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn

Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Báo chí và Tuyên truyền



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn

Chủ tịch Hội đồng:
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng ….. năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia, Hà Nội
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn, nhà báo xuất sắc từ trước Cách
mạng tháng Tám. Thân thế và sự nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự chú ý
của nhiều đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, phê bình và các thế hệ học viên, sinh
viên. Với khoảng 400 công trình, có thể nói, việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố khá
đồ sộ. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều về lĩnh vực văn học,
riêng các nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của ông còn khá khiêm tốn và vẫn
còn những khoảng trống nhất định, như: (1) Vấn đề thể loại tác phẩm báo chí
của Ngô Tất Tố còn nhiều cách gọi khác nhau như bút chiến, tiểu phẩm, tạp văn,
tản văn; (2) Vấn đề phong cách của Ngô Tất Tố trong lao động sáng tạo; (3) Từ
trước đến nay, phần lớn các công trình nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của Ngô
Tất Tố đều trên dựa cơ sở khảo sát hơn 100 tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố

được công bố từ năm 1975. Từ năm 2005 đến 2011, các nhà nghiên cứu đã công
bố khoảng 1350 tác phẩm báo chí được xác định là của Ngô Tất Tố. Từ thực tế
đó cho thấy, việc tổ chức nghiên cứu dựa trên cơ sở khảo sát tổng thể di sản báo
chí của Ngô Tất Tố là cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và
phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được
phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức kết
cấu và ngôn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo chí
Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ: xác
lập cơ sở lý thuyết về đối tượng nghiên cứu; nhận diện các đặc trưng về phong
cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua các bình diện như nội dung,


2
hình thức và ngôn ngữ; đánh giá ý nghĩa lịch sử của tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố và bài học đối với người làm báo hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố được thể hiện thông qua các tư liệu, tài liệu liên quan đến sự nghiệp
của Ngô Tất Tố nói chung và các tác phẩm tản văn báo chí của ông nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là khảo sát những tác phẩm tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố đã được in trong: “Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố”; “Ngô Tất
Tố tiểu phẩm báo chí”; “Ngô Tất Tố tác phẩm”… và một số tác phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố đăng báo trước năm 1945 có thể tiếp cận được từ các nguồn khác.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

- Luận án được xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí; vận dụng lý luận báo chí, lý
luận văn học; một số kết quả nghiên cứu về lịch sử báo chí; thể loại tác phẩm
báo chí; hoạt động sáng tạo báo chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận án được dựa trên nền tảng của hệ thống lý
luận về báo chí học. Đồng thời luận án cũng sử dụng các phương pháp cụ thể
như: phương pháp nghiên cứu lịch sử; phân tích và tổng hợp, thống kê, phân loại
văn bản học và khái quát hóa để phân tích, đánh giá về phong cách tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố.
5. Giả thuyết nghiên cứu
5.1. Những tìm tòi thể nghiệm về tản văn báo chí là những đóng góp của
Ngô Tất Tố trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam.
5.2. Là một nhà cựu học, làm báo trong bối cảnh giao thời Đông - Tây với
những biến động chính trị xã hội trước Cách mạng tháng Tám… đó là những
nhân tố hình thành phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.


3
5.3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa trong lịch sử
báo chí Việt Nam và những bài học đối với lao động nghề báo hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án nhấn mạnh một số phương pháp mới về lý luận như:
- Giới thuyết về tản văn báo chí, một số đặc trưng về thể loại; các yếu tố
chi phối, ảnh hưởng đến phong cách tác giả và tác phẩm tản văn báo chí.
- Nhận diện về phong cách của Ngô Tất Tố qua các bình diện nội dung,
hình thức và ngôn ngữ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cần
thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu và lao động nghề báo.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham khảo
và Phụ lục, luận án được kết cấu gồm có 5 chương: Chương 1. Lý luận chung về
phong cách tản văn báo chí; Chương 2. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất
Tố qua bình diện nội dung tác phẩm; Chương 3. Phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố qua bình diện hình thức và kết cấu tác phẩm; Chương 4. Phong cách
ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố; Chương 5. Phong cách tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố - ý nghĩa lịch sử báo chí và bài học nghề báo.


4
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Theo tổng hợp chưa đầy đủ, đến nay đã có khoảng 400 công trình nghiên
cứu về Ngô Tất Tố nhưng hầu hết là nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ông.
Năm 1939, trong một số bài báo giới thiệu tác phẩm “Tắt đèn” đã có
những nhận xét đầu tiên về phong cách làm báo của Ngô Tất Tố. Trên báo Thời
vụ, ngày 31/01/1939, Vũ Trọng Phụng giới thiệu: “Ngô Tất Tố là một nhà báo
về phái nho học và là một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho”; trên báo
Mới, số ra ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước cũng cho rằng, ở Ngô Tất Tố là một
nhà Nho, nhưng ông đã “vượt khỏi cả thế hệ của mình. Người môn đồ của
Khổng Mạnh này đã thở hít cái không khí xã hội của K. Marx như tất cả những
thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu”; Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã
nhận xét, Ngô Tất Tố là tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo: “… vào số những
nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào hạng
nhà Nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới”, đọc văn của ông
“người ta có cái cảm tưởng như đọc những câu văn dịch ở tiếng Pháp”.
Năm 1954, sau khi Ngô Tất Tố mất, đã có nhiều bài báo giới thiệu về Ngô
Tất Tố với niềm tiếc thương và kính trọng tài năng, đức độ của ông; tuy nhiên,
trong những bài báo đó đó chỉ gần như không đề cập đến sự nghiệp báo chí của
Ngô Tất Tố. Năm 1959, trong cuốn “Những nhà văn tiền chiến 1930 - 1945”, tác
giả Thế Phong đã cho rằng, Ngô Tất Tố “là nhà văn, nhà báo của bình cũ rượu

mới, có lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường, với những rung cảm
phong phú”.
Năm 1962, Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã báo cáo kết quả nghiên
cứu chung về Ngô Tất Tố. Trong công trình này, các tác giả đi sâu nghiên cứu về
loại văn “nói mà chơi” và nội dung tư tưởng, nghệ thuật viết báo của Ngô Tất
Tố. Theo đó, loại văn trong chuyên mục “Nói mà chơi” do Ngô Tất Tố chủ trì
được gọi là tiểu phẩm, là “những bài bình luận ngắn, gọn về xã hội, chính trị,
thời sự, văn nghệ, giáo dục…” và nhận xét “ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn luôn
biểu hiện một tinh thần chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ”.


5
Cũng trong năm 1962, trong bài “Ngô Tất Tố như tôi đã biết” trên tạp chí
Văn nghệ, Nguyễn Đức Bính có nhận định, Ngô Tất Tố “là nhà báo viết tạp
văn, cái mà Âu Tây gọi là tiểu phẩm, thời bình, một loại văn trên có nhiều nhà
văn có tài như Lỗ Tấn chẳng hạn đã xây dựng cả một sự nghiệp”; Ngô Tất Tố
“có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu
của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi thì duyên dáng, nhưng đặc biệt là dí
dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý
nhị”.
Năm 1973, trong cuốn “Lịch sử văn học Việt Nam”, Nguyễn Đăng Mạnh
đã nhận định, Ngô Tất Tố, là người đã phát huy được những yếu tố tích cực của
Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung Hoa nói chung; là người có tài
năng nhiều mặt, có sức sáng tạo phong phú, bền bỉ. Ông có đầy đủ điều kiện cốt
yếu về đức và tài để có thể trở thành một nhà báo, một nhà văn xuất sắc.
Năm 1975, Nhà xuất bản Văn học phát hành bộ “Ngô Tất Tố - tác phẩm”
do của Phan Cự Đệ chủ biên. Sau những kết quả đã công bố năm 1962, đây là
công trình tiếp tục giới thiệu toàn diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Về lĩnh vực
báo chí, lần đầu tiên Phan Cự Đệ công bố 110 bài báo của Ngô Tất Tố được viết
trong khoảng thời gian 1929 - 1943.

Năm 1983, trong bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố” trên tạp
chí Văn học, Lê Thị Đức Hạnh cho rằng, những tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố “rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và hình
tượng, thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo nên một sức thuyết
phục mạnh”. Lối viết báo của Ngô Tất Tố giản dị, tự nhiên; sử dụng nhiều hình
ảnh sinh động, cụ thể, châm biếm, song vẫn giữ vững tính nghiêm túc và tính
chiến đấu mạnh mẽ.
Năm 1993, Hội Nhà báo Việt Nam và Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo
khoa học nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố với sự tham gia của
nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận tại Hội thảo đã khẳng định tầm vóc của Ngô
Tất Tố, một nhà văn, nhà báo lớn của thế kỷ XX.


6
Phan Quang, lúc đó là Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã nhận định: “nói
đến sự nghiệp báo chí Ngô Tất Tố, không ít người nghĩ ngay đến tiểu phẩm của
ông… Đó là những áng văn xuất sắc còn lại mãi với thời gian”. Theo Phan
Quang, phong cách viết báo của Ngô Tất Tố luôn mới mẻ về văn phong, về cách
vào đề, dẫn dắt sự việc cho đến cách kết thúc vấn đề.
Trong bài “Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố”, tác giả Trương Chính cho
rằng, Ngô Tất Tố đã luôn cố gắng để thay đổi từ văn phong của các nhà Nho
thường chuộng văn biền ngẫu, sang lối văn mới “ngắn, sắc, xoay chuyển nhanh,
câu thường đặt theo lối phá cách. Đó là văn phong của báo chí phương Tây…”.
Ngô Tất Tố không lạm dụng từ Hán - Việt mà sử dụng rất nhuần nhuyễn; sử
dụng nhiều điển cố nhưng đúng chỗ, đúng lúc; ông viết như nói, không trau
chuốt; đả kích, châm biếm không phải cho sướng miệng, mà là để tố cáo, vạch
trần một cách nghiêm chỉnh.
Trong chuyên đề “Ngô Tất Tố một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn”,
Phong Lê đã nhận định, Ngô Tất Tố là một chân dung lớn và tiêu biểu, là người
thúc đẩy cho cả hai nhu cầu cách mạng và canh tân, người đáp ứng cả hai

phương diện nội dung và hình thức của văn chương theo hướng cách mạng và
hiện đại. Phong Lê khái quát, những tri thức sâu sắc về văn hóa dân tộc và văn hóa
phương Đông cổ truyền là những nhân tố cơ bản tạo nên cốt cách riêng của Ngô
Tất Tố.
Năm 1998, trong chuyên đề “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất
Tố”, Hà Minh Đức gọi những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là “tiểu phẩm
văn học và báo chí”. Đó là những tác phẩm khai thác những chuyện có thật,
những con người có địa chỉ rõ ràng… nhưng không phải để ca ngợi mà là đấu
tranh, “cho công bằng xã hội, cho quyền sống của con người. Phẩm chất ấy thể
trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút”.
Năm 2000, trong cuốn “Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh”, tác giả Tạ
Ngọc Tấn đã đưa ra một số nhận định: Những năm 30 của thế kỷ trước, khi mà
báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm đã khẳng định vai trò vị trí của


7
mình là một thể loại báo chí có uy lực, “tác giả tiểu phẩm để lại dấu ấn đặc biệt
sâu đậm trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố”. Theo Tạ Ngọc Tấn, dấu ấn
đặc biệt ở những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố chính là sự kết hợp giữa
những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học,
giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật; có sự
kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận, tự sự, thông tin và nghệ
thuật truyền thống.
Năm 2004, Hội đồng Khoa học và Công nghệ thành phố Hà Nội đã
nghiệm thu Đề tài khoa học “Di sản báo chí Ngô Tất Tố - ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển báo chí Thủ đô” do Phan Cự Đệ chủ
nhiệm. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn, thực hiện trên cơ
sở khảo sát 1.350 tác phẩm đăng báo, phần lớn mới xác định được là của Ngô
Tất Tố.



8
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN
VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
1.1. Giới thuyết về tản văn
1.1.1. Lý luận về tản văn
Theo “Từ điển tiếng Việt”, tản văn có hai ý nghĩa, thứ nhất đó là cách
phân biệt giữa văn xuôi và văn vần theo cách phân loại của văn học cổ; thứ hai
là cách xác định một thể loại tác phẩm văn học ngoài thể truyện, thơ và kịch.
Người Pháp gọi tản văn là “feuilleton”, từ này có nguồn gốc từ tiếng
Latinh có nghĩa là bài văn nhỏ.
Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tản văn có nhiều dạng
thức phong phú với những tên gọi cụ thể khác nhau, như: tạp văn, tạp cảm, tiểu
phẩm, đặc tả, đoản văn, thời đàm, phiếm luận, nhàn đàm… Về cơ bản, đó là
những bài văn ngắn có đề tài, lập ý, kết cấu, bố cục, cách thể hiện… tự do, qua đó
thể hiện được mục đích, ý nghĩa, tình cảm của người viết.
1.1.2. Lý luận về tản văn báo chí
Theo “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, tản văn là văn xuôi nghệ thuật
nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận; hay gồm
thể được định danh khá ngẫu hứng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp
trở, đoản văn.. Theo Phạm Thành Hưng, tác giả cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền
thông”, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đặc dụng và đơn giản hơn khi người làm
báo “không ý thức được”, hoặc “không quan tâm” tới tác phẩm của mình được
viết theo thể loại nào, bởi đó là thể loại báo chí tự do, ngẫu hứng theo những đặc
trưng riêng về loại hình. Các nhà nghiên cứu không đưa ra đánh giá về sự khác
nhau giữa tản văn văn học và tản văn báo chí. Tản văn báo chí là thể văn trữ tình
nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí. Trên thực tế, hai khái niệm này không có sự
khác nhau. Có chăng là các cách gọi tên khác nhau của các nhà nghiên cứu mà
thôi.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận án

cho rằng: Tản văn báo chí là một thể loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản văn báo


9
chí cơ bản thể hiện những đặc trưng chủ yếu của tản văn. Tản văn báo chí thuộc
nhóm chính luận nghệ thuật với kết cấu ngắn gọn và linh hoạt, có nội dung phê
phán, đả kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái trong cuộc sống
đương đại mang hơi thở thời sự dưới một thủ pháp uyển chuyển và hình tượng
rất gần với văn học. Đặc điểm phổ quát của tản văn báo chí là sự hiện diện trực
tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn của thông
tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn,
trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết.
1.2. Lý luận về phong cách và phong cách báo chí
1.2.1. Quan điểm về phong cách của phương Tây và Trung Quốc
Người Hi-La đã dùng chữ stylos (Hi Lạp), stylus (La Mã) để chỉ dụng cụ
viết, về sau người Pháp thay đổi dùng chữ style để chỉ nét chữ, rồi chỉ đặc điểm
về mặt hình thức như ngôn ngữ và văn thể của tác phẩm văn học.
Viện sỹ M.B. Khrapchenkô (Liên Xô) trong cuốn “Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển văn học” đã cho rằng: “Phong cách được hiểu như
những thủ pháp biểu hiện, cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ
pháp thuyết phục và thu hút độc giả”.
Theo tác giả Lưu Hiệp (Trung Quốc) trong cuốn “Văn tâm điêu long” cái
quan trọng của phong cách của mỗi tác giả là cá tính sáng tạo, cá tính sáng tạo
khác nhau thì dẫn đến phong cách khác nhau; Lỗ Tấn, nhà tạp văn nổi tiếng
Trung Quốc thì cho rằng, phong cách một mặt là nơi hội tụ, biểu hiện cá tính
sáng tạo của nhà văn.
1.2.2. Quan điểm về phong cách ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ phong cách trong báo chí, văn học đã xuất hiện từ
đầu thế kỷ XX với ý nghĩa là “lối văn”, “giọng văn”, “bút pháp”…
Trong công trình nghiên cứu “Dẫn luận phong cách học”, Nguyễn Thái

Hòa đã định nghĩa: “Phong cách là những đặc trưng trong hoạt động lời nói
được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngôn ngữ hay một
cộng đồng, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác”. Theo


10
đó, nhà báo nổi tiếng và thành công nhờ tạo cho mình một phong cách viết
riêng. Mặc dù bản chất của báo chí là sự thật, thông tin sự thật nhưng việc tạo
nên một cách viết, một giọng văn ấn tượng cũng là một điều hết sức cần thiết.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận án
cho rằng: Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể nhận
diện từ toàn bộ sáng tác của họ thông qua các yếu tố nội dung, hình thức, ngôn
ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách. Chỉ những
nhà báo có tài năng nghệ thuật, có bản lĩnh, biết sử dụng các phương tiện hình
thức trong một thể thống nhất theo một kiểu riêng để thể hiện đạt hiệu quả điều
mình muốn nói mới tạo ra phong cách riêng.
1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới phong cách tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố
1.3.1. Những nhân tố chủ quan
Ngô Tất Tố sinh năm 1894 trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Lộc
Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông
Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc làng quê của Ngô Tất Tố tồn tại nhiều hủ
tục nặng nề. Sau này, tuy Ngô Tất Tố rời quê ra Hà Nội viết báo, viết văn nhưng
ông thường xuyên trở về quê. Chính việc gần gũi với làng quê như vậy đã giúp
cho Ngô Tất Tố có dịp tìm hiểu rất nhiều phong tục, tập quán, văn hóa làng quê,
đồng thời thấy rõ sự bóc lột đè nén của thực dân, phong kiến, địa chủ, cường hào
đối với người nông dân cũng như những hủ tục sau những lũy tre làng.
Ngô Tất Tố là người có lòng yêu nước thiết tha. Trong thời kỳ Mặt trận
dân chủ, Ngô Tất Tố đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, đứng trên lập trường
dân chủ, tố cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và tha thiết đòi cải

thiện đời sống cho nhân dân lao động.
Tố chất của một nhà văn, nhà Nho viết báo đã tạo cho Ngô Tất Tố phong
cách tiếp cận hiện thực ở những góc nhìn khác nhau, từ đó có cách lý giải, đánh
giá vấn đề theo quan điểm tiến bộ. Điều này tạo nên một Ngô Tất Tố nhà văn -


11
nhà Nho - nhà báo không thể trộn lẫn với các nhà văn, nhà báo là trí thức Tây
học cùng thời.
Ngô Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo, tạp chí, sáng tạo hơn
1.350 tác phẩm báo chí với nhiều bút danh khác nhau đã được xác định là của
Ngô Tất Tố. Số lượng tác phẩm báo chí đồ sộ ấy được chưng cất từ quá trình trải
nghiệm hoạt động báo chí đầy nhiệt huyết, nên người đọc dễ dàng cảm nhận
được phong cách sáng tạo rất riêng biệt của Ngô Tất Tố qua những tản văn của
ông.
1.3.2. Những nhân tố khách quan
Ngô Tất Tố bước chân vào làng báo trong bối cảnh Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất kết thúc. Hậu quả để lại đối với tất cả các nước tham chiến, trong đó
có nước Pháp bị thiệt hại nặng nề về người và của với hàng chục triệu người
chết, hàng trăm tỷ đôla bị ngốn vào chi phí chiến tranh [119]. Bối cảnh đó cùng
với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga… đã mở ra một cục diện
thế giới mới với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, phong
trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên thế
giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa tạo ra
những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng tiến
bộ vào Việt Nam. Từng bước, phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở
thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới dưới sự
lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Đây cũng là thời kỳ phong trào đấu tranh yêu
nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, dưới nhiều hình thức khác

nhau và in đậm dấu ấn của những giai cấp, những tầng lớp xã hội tiến hành
những cuộc đấu tranh đó.
Cũng trong giai đoạn này, phải kể đến những hoạt động xuất sắc và công
lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô cũng như tại các nước láng
giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin,


12
lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, tổ
chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt Nam cũng như
đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không
thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh đạo của Quốc tế
Cộng sản.
Trong thời kỳ này, báo chí có sự thay đổi rõ rệt về nội dung và hình thức.
Sự phát triển của chữ quốc ngữ là một tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển
của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây cùng với sự phát
triển của đô thị đã đem lại một luồng không khí mới cho văn chương, học thuật,
sự thay đổi rõ rệt về báo chí, sinh hoạt văn học cũng như công chúng. Đây cũng
là một giai đoạn sôi động trong lịch sử báo chí và văn học Việt Nam với những
cách tân về thể loại, ngôn ngữ, hình thức và quan niệm về sáng tác. Từ những
tác phẩm báo chí, văn học còn in đậm dấu ấn của phong cách cổ, tính quy phạm
và ước lệ trong phương thức biểu hiện, những tác phẩm báo chí và văn chương
đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại với sự đóng góp của đông đảo các cây bút
với nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, luận án đã phân tích, làm rõ một số nội dung sau đây:
(1) Tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn,
tùy bút, tiểu phẩm... và các tiểu thể loại được định danh khá phong phú, đa dạng,
như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp trở...
Tản văn báo chí là thể loại báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật, có

kết cấu ngắn gọn, dung lượng nhỏ, tự do, có thủ pháp đa dạng, linh hoạt. Đặc
trưng loại hình của tản văn báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả; là
sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn trước thông tin sự kiện; là sự linh hoạt,
phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức thông tin, liên kết các chi tiết.


13
(2) Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể nhận
diện từ toàn bộ sáng tác của họ thông qua các yếu tố nội dung, hình thức, ngôn
ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách.
(3) Một số nhân tố có tính chi phối tới việc hình thành phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố như: truyền thống văn hóa quê hương và gia đình tinh
thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ và sự nỗ lực, cố gắng để thích ứng với thời cuộc;
bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí trong nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 2. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA
BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM
2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
2.1.1. Đề tài chính trị
Những năm đầu thập niên 1930, Ngô Tất Tố dùng ngòi bút của mình để
viết nhiều các vấn đề liên quan đến nghị trường, như bầu cử nghị viện, bầu viện
trưởng Viện dân biểu…; đấu tranh với những thủ đoạn của chính quyền thực dân
và bọn tay sai với những vấn đề “bảo hộ” và “trực trị”; truyền bá mê tín dị đoan;
bảo tồn quốc túy; phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung”…
Những năm 1936 - 1939, nhờ ảnh hưởng của phong trào quần chúng thời
Mặt trận dân chủ, Ngô Tất Tố đề cập trực tiếp đến những sự kiện chính trị quan
trọng trong nước và thế giới, như: phong trào Đông Dương đại hội; phong trào Mặt
trận Dân chủ của báo giới đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp; những cuộc đình
công khổng lồ của “lao động Đông Dương”; những cuộc biểu tình của nông dân
Thanh Hóa; những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ của nông dân Bạc Liêu…
2.1.2. Đề tài văn hóa, xã hội

Hầu hết các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có đề tài về các vấn đề văn
hóa, xã hội. Đó là những vấn đề liên quan đến bản chất của những kẻ danh trí
thức, thầy lang, bọn bồi bút, tay sai của chế độ thực dân; về những vấn đề liên
quan đến đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, gia phong, gia pháp; về vai trò của
người phụ nữ trong gia đình, phẩm hạnh, tiết nghĩa trong quan hệ vợ chồng… về


14
những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, vạch mặt bọn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng
để trục lợi; đả kích những thói hư tật xấu trong đời sống xã hội.
2.1.3. Đề tài quốc tế
Ngay khi bắt đầu bước chân vào làng báo và hoạt động báo chí chuyên
nghiệp, ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn bám sát và phản ánh kịp thời tình hình
thời sự quốc tế, những sự kiện lớn trên thế giới như: tình hình Trung Quốc sau
chiến tranh “nha phiến”; tình hình cách mạng ở Đài Loan; tình hình quân sự của
Nhật Bản vào năm 1927; tình hình Xiêm La và mối quan hệ giữa Xiêm La với
Trung Quốc; tình hình Hồi giáo, Gia Tô giáo và Do Thái giáo ở Palestine, nơi
phát nguyên của đạo Hồi và đạo Gia Tô…
2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Với nguồn tin phong phú, nhưng điểm quan trọng tạo nên phong cách
riêng của Ngô Tất Tố thể hiện qua những tản văn báo chí của ông chính là ở chỗ
ông khai thác, lựa chọn và sử dụng được rất nhiều chi tiết. Những chi tiết đó có
thể tựu chung lại theo ba nhóm chính:
Nhóm chi tiết về nhân vật: những nhân vật trong tản văn báo chí của ông
thường được phản ánh ở những mặt tiêu cực, chính vì vậy từ ngoại hình, diện
mạo đến tính cách được miêu tả với những chi tiết cũng rất tiêu cực với ngôn
ngữ châm biếm, đả kích.
Nhóm chi tiết về sự kiện: Những sự kiện là linh hồn được thể hiện tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố, là những yếu tố quan trọng được miêu tả chi tiết nhằm
thu hút sự quan tâm của người đọc. Do vậy, sự kiện nào cũng được Ngô Tất Tố

phản ánh với những chi tiết sống động nhất, đầy đủ nhất, phù hợp với mục đích,
yêu cầu của nội dung tác phẩm.
Nhóm chi tiết về sự việc: sự việc hướng người đọc quan tâm tới bản chất
của sự kiện, hiện tượng bằng cách miêu tả, phân tích, diễn giả, trong đó có
những chi tiết mang tính chất cụ thể và thực chứng. Do vậy, Ngô Tất Tố đã khai
thác có hiệu quả những chi tiết rất cụ thể có tính chất minh họa và làm rõ bản
chất của sự việc, hiện tượng được phản ánh.


15
2.3. Những nhân vật trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn
và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về rất nhiều nhân vật trong xã hội.
Có thể khu biệt các nhân vật đó theo ba nhóm:
- Những “ông Tây” thực dân: từ các quan thống sứ, toàn quyền, bộ trưởng
thuộc địa… đến những ông Tây “nhà đoan”, anh lính lê dương mạt hạng…
- Những nhân vật trong chính quyền tay sai, bộ máy phong kiến: đó là
những vị “dân biểu”, “cụ thượng”, “ông phó Quỳnh”, “chú Khán ngốc”…
- Những nhân vật của bình dân trong xã hội: cô Tây Hoét, cụ lang bần,
những anh “nho” phủ huyện, những người lao động bình dị và nghèo khổ ở làng
quê hoặc nơi phố phường…
2.4. Dự báo và hướng nhận thức trong tản văn của báo chí Ngô Tất Tố
2.4.1. Dự báo về những vấn đề chính trị
Ngô Tất Tố đã dành một số lượng đáng kể những tản văn báo chí của
mình để lên án, vạch trần nạn tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu của các tầng lớp quan
lại trong chính quyền thực dân trước Cách mạng tháng Tám; đồng thời ông cũng
đề ra một số giải pháp nhằm cần thực hiện với mong muốn làm cho xã hội tốt
đẹp hơn.
2.4.2. Dự báo về những vấn đề xã hội

Trong những tản văn báo chí của mình, Ngô Tất Tố đã có những đề xuất,
dự báo về các vấn đề văn hóa, giáo dục và y tế; trong đó có việc đi sâu phân tích
những giá trị, những nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc như các lễ hội,
các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều vùng miền…
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ, các nội dung:
1. Đề tài tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có thể tập trung theo 3 nhóm: chính
trị, xã hội và quốc tế. Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có một số đề tài khác như luận


16
bàn về nghiệp vụ báo chí, văn chương, về đạo đức và phẩm chất của người làm
báo…
2. Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng
lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám với những chi tiết biếm họa sinh động, sâu sắc, đề cập đến không ít
nhân vật trong xã hội, những kẻ thực dân phong kiến, bọn tay sai, bọn làm giàu
bất chính…
3. Ngô Tất Tố có những dự báo mang tính nhận thức cao: (1) Dự báo về
những vấn đề chính trị, về chế độ quản lý như phòng chống tham nhũng, tham ô
hối lộ; (2) Dự báo về những vấn đề xã hội như tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế…
Chương 3. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ NGÔ TẤT TỐ QUA
BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM
3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Đa số đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được đặt theo hướng khơi
gợi người đọc nhu cầu tìm hiểu thực chất của sự kiện, hiện tượng mà ông đề cập.
- Có những đầu đề mạnh mẽ, đánh vỗ mặt vào đối thủ, như: Bãi nước bọt
trên mặt ông tuần phủ; Cớ sao mình lại lạt lẽo với cái mặt của mình.
- Có những đầu đề bình dị, chỉ thông báo một tin tức, một sự kiện, mang
tính chất thông tin, như: Bắc Ninh cầu cứu; Biểu tình ở Thanh Hóa…

- Một số đầu đề được đặt theo tình thế tương phản của đối tượng với cảnh
ngộ hoặc những người trong cuộc, như: Chúa trùm đảng áo nâu sẽ xuống địa
ngục; Dạ dày Nam không tốt bằng dạ dày Bắc…
Nhìn chung, cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thu hút
người đọc, gợi trí tò mò để tìm hiểu chuyện nhưng không mang tính giật gân.
Cho dù chỉ ra những sự tương phản nhưng đều phù hợp với sự kiện, hiện tượng
mà tác phẩm phản ánh; phù hợp với bản chất của đối tượng.


17
3.2. Sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
Nội dung của một tác phẩm báo chí thường có ba phần: Phần mở đầu vào
đề, diễn giải và kết luận. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cũng tuân thủ theo bố
cục này.
3.2.1. Phần mở đầu
Ngô Tất Tố có khả năng linh hoạt trong việc vào đề, có khi ông vào đề
một các thân mật, bằng cách các cách xưng hô khác nhau; có khi lôi kéo sự chú
ý của người đọc bằng những động từ hết sức bình dị. Ngô Tất Tố sử dụng những
từ ngữ cảm thán, châm biếm hoặc bộc lộ thái độ hài hước tạo được sự thích thú
ở người đọc ngay từ những câu đầu tiên của tác phẩm.
Trong một số tác phẩm, Ngô Tất Tố có cách vào đề gián tiếp giàu chất
văn học, khiến người đọc cảm thấy thú vị với những thành ngữ, tục ngữ, phong
dao được Ngô Tất Tố sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
3.2.2. Diễn giải
Trong phần này, bao giờ Ngô Tất Tố cũng có những cách lập luận chặt
chẽ, xoáy sâu vào vấn đề và đẩy vấn đề lên cao, qua đó bộc lộ thái độ của mình;
bằng cách thắt nút, gỡ nút, bằng đặt tình huống và giải quyết tình huống quyết
đoán, linh hoạt Ngô Tất Tố đã đưa người đọc đến những vấn đề hết sức thời sự
và thú vị.
3.2.3. Kết luận

Phần kết luận mỗi tản văn của Ngô Tất Tố là những lời bình vừa sâu sắc,
vừa mang tính chất định hướng, mở ra một lối giải quyết nào đó, tản văn của
ông không bao giờ có cái nhìn tuyệt vọng. Mục đích của nó không chỉ là sự công
kích những cái xấu mà còn muốn cải tạo những cái xấu đó để góp phần làm đẹp
cho xã hội.
3.3. Sức thuyết phục logic của tản văn báo chí Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố đã sử dụng một số phương pháp để thực hiện việc liên kết về
nội dung trong các tác phẩm báo chí của mình.
3.3.1. Diễn dịch


18
Để liên kết các yếu tố nội dung và hình thức trong các tản văn báo chí của
mình, Ngô Tất Tố thường dùng phương pháp diễn dịch. Theo đó, Ngô Tất Tố
đưa ra một nhận định chung nhất, rồi từng bước dẫn ra những trường hợp cụ thể
để chứng minh cho nhận định chung, nhằm nâng cao sức thuyết phục logic
những thông tin mà mình phản ánh trong tác phẩm đó.
3.3.2. Quy nạp
Đây là phương pháp người ta thường đưa ra những trường hợp cụ thể
trước, sau đó mới rút ra một kết luận có tính chất phổ quát. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu cho thấy, Ngô Tất Tố rất ít khi sử dụng phương pháp này.
3.3.3. Loại suy
Phương pháp lập luận loại suy là phương pháp tác giả sử dụng để so sánh,
đối chiếu hai sự kiện xa cách nhau trong không gian và thời gian nhưng lại
giống nhau về hiện tượng hoặc về bản chất. Đây là phương pháp mà Ngô Tất Tố
sử dụng khá phổ biến trong các tác phẩm báo chí của mình.
Tiểu kết Chương 3
Trong Chương 3, luận án đã phân tích, đánh giá về hình thức và các cách thức
liên kết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, qua đó, làm rõ một số nội dung:
- Đầu đề trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố không có sự bó buộc, cậu

nệ, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung của tản văn.Trong nghệ thuật xây dựng
đầu đề, Ngô Tất Tố có sự thay đổi linh hoạt cú pháp trong cách đặt, khiến cho
đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố vừa bảo đảm yêu cầu đối với một tác
phẩm báo chí vừa bảo đảm tính mới mẻ, giàu sức cuốn hút.
- Các dạng thức kết cấu trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố với các nội
dung: Cách thức và nghệ thuật đặt vấn đề; Diễn giải nội dung; Kết luận nội
dung. Trong đó, phần kết luận, Ngô Tất Tố thường khái quát vấn đề và đưa ra lời
bình sâu sắc, tạo được cảm nhận sâu sắc trong lòng độc giả. Sức thuyết phục
logic của tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được thể hiện qua phương pháp diễn
dịch, quy nạp và loại suy. Trong đó, ông chủ yếu sử dụng phương pháp diễn dịch
và loại suy.


19
Chương 4. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA
NGÔ TẤT TỐ
4.1. Sử dụng từ ngữ linh hoạt
4.1.1. Sử dụng từ Hán - Việt
Là một nhà Nho, Ngô Tất Tố đã phát huy những ưu thế từ tri thức Hán
học và vốn văn hóa phương Đông để sử dụng có hiệu quả lớp từ Hán - Việt; khai
thác được tiềm năng to lớn của từ Hán Việt, sử dụng có hiệu quả trong các tác
phẩm báo chí của mình.
4.1.2. Sử dụng từ thuần Việt
Bên cạnh các từ Hán - Việt, Ngô Tất Tố khai thác và sử dụng có hiệu quả
các lớp từ thuần Việt. Trong đó, sử dụng khá nhiều lớp từ nôm na thông tục
nhưng có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thế, gắn chặt với những ngữ
cảnh nhất định. Lời ăn tiếng nói hàng ngày, phương ngữ cũng được ông khai
thác triệt để; khéo léo kết hợp ngôn ngữ dân mộc mạc, bình dân với sự châm
biếm sắc sảo tạo nên một giọng điệu trào phúng đặc sắc.
4.2. Đổi mới cách diễn đạt truyền thống

4.2.1. Sử dụng giai thoại, điển tích
Qua khảo sát “Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố”, chúng tôi thấy, trong số
1144 tản văn được khảo sát có tới 213 tác phẩm có sử dụng điển tích (chiếm
18%). Hầu hết các giai thoại, điển tích được được vận dụng vào các tác phẩm
báo chí của ông với những tình huống nội dung cụ thể. Ngô Tất Tố sử dụng các
điển tích, giai thoại đó có tác dụng soi sáng các sự kiện, thông qua sự đối sánh
thời đại xưa và cuộc sống xã hội hiện tại.
4.2.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ
Ngô Tất Tố cũng hết sức quan tâm khai thác và vận dụng những cách diễn
đạt truyền thống của dân tộc. Đây là một trong những nét đặc sắc trong ngôn
ngữ tản văn báo chí Ngô Tất Tố. Đó là những thành ngữ, tục ngữ, ca dao, những
lời nói có tính châm ngôn, những áng thơ văn quen thuộc…
4.3. Sử dụng ngôn ngữ trào phúng, châm biếm, giàu tính chiến đấu.


20
4.3.1. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại
Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thường có chủ đề rõ ràng và đơn giản.
Điều quan trọng đối với ông là chủ đề ấy phải gắn được với một mâu thuẫn mang
tính trào phúng, một tình thế có tính hài hước. Sự nhạy bén đối với loại mâu thuẫn
này, chính là đặc điểm của óc quan sát, trí tưởng tượng của Ngô Tất Tố luôn luôn
được lọc qua một tấm lăng kính đặc biệt, đó là thứ nhãn quan riêng về thế giới mà
Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “nhãn quan trào phúng”, giúp nhà báo nhìn đâu
cũng thấy những chuyện nực cười.
4.3.2. Sử dụng lối so sánh ví von, ám chỉ
Ngô Tất Tố thường tận dụng mọi hình thức so sánh, ví von, ám chỉ như
những thủ pháp nghệ thuật để phản ánh sự vật, hiện tượng. Hình thức so sánh
được sử dụng phổ biến nhất trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đó là việc dùng
những sự kiện, nhận vật trong quá khứ để phản ánh những nhân vật sự kiện
trong hiện tại, “lấy xưa để nói nay”.

Tiểu kết Chương 4
Trong Chương 4, luận án đã đi sâu phân tích làm rõ những nội dung sau:
- Ngô Tất Tố có một phong cách ngôn ngữ riêng, một thế giới nghệ thuật
riêng giàu tinh thần sáng tạo, đó là phong cách vừa truyền thống, vừa hiện đại.
- Ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố còn mang dấu vết của ngôn
ngữ Nho gia, song lại đậm đà sắc thái ngôn ngữ nông thôn; vận dụng thành ngữ,
phương ngữ, cách phối hợp các phương thức biểu đạt, cách kết cấu câu văn...
- Nghệ thuật châm biếm của Ngô Tất Tố rất linh hoạt, phong phú, có khi
một câu hỏi tu từ cũng thể hiện thái độ châm biếm.


21
Chương 5
Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGHIỆP VỤ LÀM BÁO
RÚT RA TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH
TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
5.1. Ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu về tản văn báo chí Ngô
Tất Tố
5.1.1. Từ những bài học về nghề làm báo của Ngô Tất Tố đến trách
nhiệm của người làm báo hôm nay
Nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy,
những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, sát hợp với việc cụ thể hóa
những nội dung Nghị quyết của Đảng trên các bình diện tôn chỉ, mục đích; tính
chân thật, tính chiến đấu, tính nhân dân và tính đa dạng của báo chí. Những kết
quả đó cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của
người làm báo trong hoạt động báo chí hôm nay. Điều đó thể hiện cụ thể qua
những yêu cầu: Người làm báo phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động
của cơ quan báo chí; đề cao tính chân thật trong hoạt động báo chí và đề cao
tính nhân dân trong hoạt động báo chí; đề cao tính chiến đấu của báo chí và bảo
đảm thích ứng với tính đa dạng của báo chí trong tình hình mới

5.1.2. Học tập phong cách viết tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, nâng
cao chất lượng các chuyên mục trên mặt báo
Từ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, chúng ta có thể học được tinh thần
đấu tranh không khoan nhượng bằng một nghệ thuật châm biếm sắc sảo và một
niềm tin mãnh liệt vào tương lai tốt đẹp. Những kiến thức sâu rộng, sự am hiểu
cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trước thời cuộc được thể hiện trong
những tản văn đầy tính chiến đấu của Ngô Tất Tố mãi mãi là những bài học quý
báu cho mỗi nhà báo hôm nay.


22
5.2. Một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết quả nghiên cứu
phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
5.2.1. Bài học từ ý thức về nghề làm báo
Trong quá trình lựa chọn các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để
phản ánh, các nhà báo phải dựa trên nguyên tắc vì lợi ích của dân tộc, của nhân
dân để có sự định hướng đúng đắn và rõ ràng. Đó là ý thức, là trách nhiệm cao
nhất đối với mỗi nhà bào trong hoạt động sáng tạo của mình.
5.2.2. Bài học về dũng khí của người làm báo
Nghiên cứu sâu hơn về phong cách được thể hiện qua những tản văn báo
chí của ông, chắc hẳn các thế hệ cầm bút hôm nay sẽ rút được cho mình bài học
về dúng khí của người làm báo. Dũng khí đó thể hiện bình diện nội dung, hình
thức và ngôn ngữ, nhưng trước hết là ở nội dung với những phẩm chất cụ thể.
5.2.3. Bài học về tính hiện đại và dân tộc trong ngôn ngữ tản văn báo
chí của Ngô Tất Tố
Qua kết quả nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
cho thấy, đặc tính thâm thúy và sắc sảo thể hiện rõ nét trong ngôn ngữ tản văn
báo chí của ông. Đặc tính đó bắt nguồn sâu xa từ vốn tri thức rất thâm hậu của
một bậc túc Nho, được trưng cất và chắt lọc qua một trí tuệ sắc sảo, mẫn tiệp,
với công lao khổ luyện mà thành văn tài.

Tiểu kết Chương 5
Trong Chương 5, chúng tôi đã phân tích những nội dung sau:
Một là, về ý nghĩa nghiên cứu phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố:
Nghiên cứu về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố cho thấy,
những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, sát hợp với việc cụ thể hóa
những nội dung của Nghị quyết của Đảng trên các bình diện tôn chỉ, mục đích;
tính chân thật, tính chiến đấu, tính nhân dân và tính đa dạng của báo chí. Những
kết quả đó cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao tinh thần trách nhiệm
của người làm báo trong hoạt động nghề báo hôm nay.
Hai là, một số bài học rút ra từ kết quả nghiên cứu về phong cách tản văn
báo chí của Ngô Tất Tố


23
Trong quá trình lựa chọn các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để
phản ánh, các nhà báo phải dựa trên nguyên tắc vì lợi ích của dân tộc, của nhân
dân để có sự định hướng đúng đắn và rõ ràng. Những phẩm chất đó, có thể học
được qua việc nghiên cứu phong cách hoạt động sáng tạo của Ngô Tất Tố: 1)
Nhà báo phải trung thực với ngòi bút của mình; 2) Nói đến báo chí là nói đến
những vấn đề có tính thời cuộc.
KẾT LUẬN
1. Thể loại tản văn báo chí là một thể loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản
văn báo chí cơ bản thể hiện những đặc trưng chủ yếu của tản văn. Tản văn báo
chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật với kết cấu ngắn gọn và linh hoạt, có nội
dung phê phán, đả kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái trong cuộc
sống đương đại mang hơi thở thời sự dưới một thủ pháp uyển chuyển và hình
tượng rất gần với văn học. Đặc điểm phổ quát của tản văn báo chí là sự hiện
diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn
của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt, phóng túng trong cách
hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết.

2. Một số nhân tố chi phối và ảnh hưởng phong cách tản văn báo chí của
Ngô Tất Tố bao gồm: 1) Quê hương giàu truyền thống văn hóa; gia đình nhà
Nho nghèo nhưng hiếu học đã góp phần hình thành nhân cách của một người có
tinh thần yêu nước, yêu nhân dân, cảm thông với người lao động nghèo khổ; 2)
Bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí những thập niên đầu thế kỷ XX.
3. Tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có 3 đề tài chính: 1) Đề tài chính trị; 2)
Đề tài văn hóa xã hội; 3) Đề tài quốc tế. Nhờ những lối quan sát hiện thực một
cách tỉ mỉ, cẩn trọng, thấu đáo mảnh đất mà mình chọn làm địa điểm để phát
hiện được những chi tiết, những góc cạnh khác nhau của nội dung vấn đề cần
phản ánh. Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng
lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về các loại nhân vật trong xã hội,
những kẻ thực dân phong kiến, bọn tay sai bồi bút, bọn tư sản, bọn làm giàu bất
chính… Ngô Tất Tố qua những tản văn của ông đã có những dự báo về những
vấn đề chính trị như phòng chống tham nhũng, tham ô hối lộ; về những vấn đề


×