Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

bảo hiểm bắt buộc tại thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.36 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Lao động là hoạt động gắn với sự hình thành, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Thông qua hoạt động lao động con người đã cải biến thế
giới khách quan để tạo ra của cải vật chất và sáng tạo nên những giá trị tinh
thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống luôn chứa
đựng những rủi ro có khả năng làm suy giảm hoặc mất sức lao động của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động, thất nghiệp, già yếu….Chính vì vậy, hệ
thống an sinh xã hội ra đời như là một cơ chế để phòng tránh và khắc phục
những rủi ro của con người.
Khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển thì vấn đề an sinh xã
hội ngày càng được chú trọng. Đó là hệ thống chính sách nhiều tầng để tất cả
các thành viên trong xã hội tương trợ, giúp đỡ ở mức độ hợp lý khi bị giảm,
mất thu nhập hoặc gặp khó khăn hoạn nạn trong cuộc sống. Ở Việt Nam, các
quy định nhằm mục đích an sinh xã hội đã xuất hiện rất sớm nhưng trong thời
gian gần đây vấn đề an sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn. An sinh xã hội
vừa là mục tiêu hướng tới của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, vừa là những nội dung, những định hướng, những hoạt động cụ thể
của các chính sách này. Những định hướng chiến lược này nhằm hướng tới
một nền an sinh xã hội cho toàn dân, bền vững với đa tầng, đa lớp và đa hình
thái, phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới hiện đại.
Trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội thì pháp luật bảo hiểm xã hội
bắt

buộc là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Luật Bảo hiểm xã hội 2014

được Quốc hội thông qua đã đánh dấu một bước tiến rất lớn về khung pháp
lý của hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng và pháp luật về


an sinh xã hội nói chung. Luật đã đi vào cuộc sống được 4 năm, tuy nhiên
thực tiễn thực hiện cùng các quy định của pháp luật vẫn còn nhiều điểm tồn
tại.


Thanh Hóa là một tỉnh Bắc trung bộ. Thanh Hóa đang chú trọng phát
triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân do vậy, số lượng các
doanh nghiệp cũng như các đơn vị có sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh ngày
càng tăng lên. Một trong những vấn đề mà người lao động đặc biệt quan
tâm đó là bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng.
Việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc thời
gian qua trên địa bàn tỉnh thanh hóa ngoài những thành tựu đã đạt được cũng
đã bộc lộ không ít những vướng mắc, tồn tại. Điều này đòi hỏi nhu cầu cần
tiếp tục nghiên cứu để tìm cách tháo gỡ vướng mắc, góp phần hoàn thiện
pháp luật để BHXH bắt buộc thực sự đi vào đời sống. Xuất phát từ lý do trên,
em đã chọn vấn đề “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi
hành trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của
mình.
2.

Tình hình nghiên cứu

Còn ở đề tài nghiên cứu, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của
pháp luật về BHXH bắt buộc, luận văn tập trung chủ yếu vào thực tiễn thực
hiện pháp luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó có những
đánh giá và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc,
thông qua đó cũng giúp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Như vậy, đây sẽ là một vấn đề nghiên
cứu rất mới.
BHXH không phải là vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm cả

các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Ở phạm vi, mức độ khác nhau đã
có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật về bảo hiểm xã
hội bắt buộc nói chung và các chế độ nói riêng, cụ thể:
- Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện
chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ.


- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS.Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số
bình luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí
Luật học.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa
đổi Điều 60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật.
- Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm
hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí chính trị.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), “Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật bảo
hiểm y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an ninh xã hội”,
Tạp chí Cộng sản.
- TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một
số quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Những bài viết này tuy đã đề cập đến một số chế độ của bảo hiểm xã
hội bắt buộc và Luật BHXH năm 2014 như chế độ bảo hiểm thai sản, chế độ
bảo hiểm xã hội hưu trí song chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập các điểm
mới hoặc về cách hiểu, cách áp dụng các quy định của luật BHXH…
Còn ở đề tài nghiên cứu, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của

pháp luật về BHXH bắt buộc, luận văn tập trung chủ yếu vào thực tiễn thực
hiện pháp luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó có những
đánh giá và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc,
thông qua đó cũng giúp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Bởi vậy, đây sẽ là một vấn đề nghiên cứu


mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về BHXH bắt buộc, các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc và thực
tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả BHXH trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
trên những khía cạnh sau:
-

Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc

-

Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc

và chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của các quy định đó
-


Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên

địa bàn tỉnh Thanh Hóa
-

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH

bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về
BHXH bắt buộc mà cụ thể là Luật BHXH năm 2014 cùng các văn bản hướng
dẫn và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
. Pháp luật nước ngoài về BHXH bắt buộc cũng được nghiên cứu trong
luận văn song chỉ ở mức độ nhất định.
-

Phạm vi nghiên cứu:

bảo hiểm xã hội bắt buộc là một lĩnh vực rộng có thể được nghiên cứu
dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau với mức độ tiếp cận khác nhau.
Trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu dưới góc độ pháp lý và cụ


thể ở một số khía cạnh như đối tượng tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc,
các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc và xử lý các vi phạm pháp luật về BHXH
bắt buộc…


5.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với
từng lĩnh vực của đề tài như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
logic... cũng được sử dụng.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn đã làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về BHXHBB,
nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định của pháp
luật về BHXHBB.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về BHXH
bắt buộc, đặc biệt các cơ quan BHXH, các doanh nghiệp… trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan
tâm đến pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về BHXH bắt buộc nói riêng.
7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia thành 3 chương. Cụ thể:
-


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và

pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc


-

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm

xã hội bắt buộc
-

Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc ở tỉnh Thanh Hóa và một số kiến nghị


Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.1.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và
được dự báo trước, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ
có thể xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn
hán, hỏa hoạn...), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe

máy...), tai nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc,
rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn
cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy
mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục những biến cố rủi ro đó.
Chúng ta đang tồn tại trong một xã hội có nhà nước mà nhà nước thì
điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật do vậy, những biện pháp phòng
ngừa, né tránh và hạn chế rủi ro được con người chủ động thể chế hóa thành
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức
và mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ thực hiện.
Thông thường có hai nhóm biện pháp khắc phục rủi ro là các biện pháp
chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải
chấp nhận khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm cho mình. Họ
có thể chủ động lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những
tổn thất do biến cố rủi ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ
chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường hợp không lập quỹ dự trữ, dự
phòng trước.
Bảo hiểm là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những người cùng tham


gia bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống nhất và
quy định trước, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế xã hội của những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là
công cụ quan trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy
ra rủi ro.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho
mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an
toàn xã hội, đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
BHXH đã được nhiều nhà khoa học đề cập và nghiên cứu một cách sâu
sắc dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. BHXH đã xuất hiện và phát

triển theo cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Hệ
thống bảo hiểm xã hội hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức dưới thời thủ
tướng Bismark với cơ chế ba bên (Nhà nước – giới chủ - giới thợ) cùng đóng
góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp rủi ro. Đến
nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và
coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong hệ thống
an sinh xã hội.
Trước hết, để hiểu được BHXH bắt buộc là gì thì cần tìm hiểu về bảo
hiểm xã hội nói chung. Bảo hiểm xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều
môn khoa học khác nhau như kinh tế, xã hội, pháp lý... Do đó, hiện nay còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về BHXH, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên
cứu của các nhà khoa học.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân viên chức khi không làm việc vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu,
bị tai nạn lao động.[23, tr39]
Từ điển Giải thích từ ngữ Luật học thì xác định, BHXH là bảo hiểm
cho thu nhập của người lao động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ


chức quản lý. Đặc trưng cơ bản để phân biệt BHXH với các hình thức bảo
hiểm khác là sự kết hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện
chính sách bảo đảm xã hội của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa
những người lao động để ổn định cho họ và gia đình họ trong và sau quá
trình lao động. [25, tr85]
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về BHXH như sau:
BHXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông
qua một loạt

các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về


kinh tế và xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập gây
ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, và chết;
đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Như vậy, BHXH có thể được hiểu theo cách khái quát như sau: BHXH
là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động
như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi
già hoặc chết; gắn với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình
thành bởi các bên tham gia đóng góp, nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống
của người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH thường được thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện. BHXH bắt buộc là một hình thức đảm bảo về thu nhập cho
người lao động (và một số trường hợp là thành viên gia đình) trong những
trường hợp rủi ro nhất định. Việc đảm bảo này được thực hiện trên cơ sở
nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia đóng góp của các đối tượng nhất định nhằm
tạo lập nguồn chi trả. Các đối tượng này không có quyền lựa chọn có được
tham gia hay không tham gia mà họ buộc phải tham gia BHXH khi thuộc
các trường hợp pháp luật đã quy định. Còn đối với BHXH tự nguyện các chủ
thể có quyền tham gia hoặc không tham gia, việc tham gia không mang tính
bắt buộc


Từ đó , có thể hiểu BHXH bắt buộc như sau: BHXH bắt buộc là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động (và
trong một số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp rủi ro hoặc
biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân nhất
định gây ra (như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già
yếu hoặc chết) trên cơ sở nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia của người sử dụng
lao động và người lao động do nhà nước tổ chức thực hiện.
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc

-

Đối với người lao động

Mục đích chủ yếu của BHXH bắt buộc là bảo đảm thu nhập cho NLĐ
và gia đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất
thu nhập. Vì vậy, BHXH bắt buộc có vai trò rất lớn đối với NLĐ, đó là điều
kiện cho NLĐ được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn, thai sản…Đồng
thời, BHXH bắt buộc cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm
tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro
trong lao động sản xuất (tai nạn, thất nghiệp…) và trong đời sống NLĐ (ốm
đau, tuổi già…) được khống chế, khắc phục hậu quả ở mức độ cần thiết.
Tham gia BHXH bắt buộc còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi
tiêu cá nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự
phòng cần thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động…góp phần ổn định
cuộc sống cho bản thân và cho gia đình. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật
chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp
khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai
nạn, tuổi già…NLĐ tham gia BHXH bắt buộc được đảm bảo về thu nhập ổn
định ở mức độ cần thiết nên thường có tâm lý yên tâm, tự tin trong cuộc
sống. Nhờ có BHXH bắt buộc, cuộc sống của những thành viên trong gia đình
NLĐ, nhất là trẻ em, những người tàn tật... cũng được đảm bảo an toàn.
-

Đối với người sử dụng lao động


Bảo hiểm xã hội bắt buộc giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, các
doanh nghiệp ổn định hoạt động thông qua việc phân phối các chi phí cho
NLĐ một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi NLĐ ốm đau, tai nạn

không có nguồn thu nhập, không có chi phí thuốc men…đời sống của họ bị
ảnh hưởng thì quan hệ lao động, chất lượng, hiệu quả lao động trong doanh
nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo. BHXH bắt buộc góp phần làm cho lực lượng
lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản xuất, kinh doanh được hoạt động
liên tục, hiệu quả, các bên của quan hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn.
Bảo hiểm xã hội tạo điều kiện cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ,
không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời NLĐ, đến
khi già yếu. BHXH bắt buộc làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu
sắc, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
-

Đối với xã hội

Bảo hiểm xã hội có tác dụng đối với xã hội là tạo ra cơ chế chia sẻ rủi
ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố tình đoàn kết, gắn bó giữa các
thành viên trong xã hội. Chính điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
BHXH. Mặc dù không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng BHXH
bắt buộc là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất
cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc còn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã
hội của mỗi quốc gia. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống
nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH bắt buộc cũng chậm phát triển ở mức
tương ứng. Khi kinh tế càng phát triển, đời sống của NLĐ được nâng cao thì
nhu cầu tham gia BHXH bắt buộc của họ càng lớn. Thông qua hệ thống
BHXH bắt buộc, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của Nhà nước cũng
ngày càng được nâng cao thể hiện bằng việc mở rộng đối tượng tham gia, đa
dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở
phát triển các chế độ BHXH...



Hoạt động BHXH bắt buộc cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu
tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc
biệt, với bảo hiểm hưu trí, nguồn vốn tích lũy trong thời gian dài, kết dư
tương đối lớn, có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động
vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia BHXH, cơ quan
BHXH bắt buộc và nền kinh tế nói chung.
1.2.

Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc

Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc là những vấn đề,
những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động của
bảo hiểm xã hội [20, tr 38]. Là một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục
đích xã hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động
bảo hiểm, vừa phải thực hiện các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHXH bao gồm:
Thứ nhất, mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng bảo
hiểm xã hội.
Tham gia BHXH là một trong các phương thức đảm bảo quyền bình
đẳng cho NLĐ trên phương diện xã hội, nhất là trong điều kiện BHXH có sự
bảo trợ của Nhà nước.Vì vậy ngày nay, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của
NLĐ, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Quyền tham gia và hưởng
BHXH không thể bị phân biệt về khu vực, ngành nghề, thành phần kinh tế,
giới tính, có tham gia quan hệ lao động hay không…Tuy nhiên, NLĐ được
tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào, trong những trường hợp nào hay nói
cách khác là khả năng được chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu còn tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ quản lý rủi ro trong mỗi quốc gia.
Thứ hai, mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng
bảo hiểm và chia sẻ cộng đồng.
Mức đóng BHXH có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức



hưởng BHXH. Tuy nhiên, do mục đích ASXH chi phối, trong điều kiện có sự
bảo trợ của Nhà nước đối với quỹ BHXH, thì mức đóng quỹ BHXH và mức
hưởng từ BHXH thường bị khống chế ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm
bảo công bằng và đảm bảo ngân sách Nhà nước không phải bảo trợ cho những
mức bảo hiểm quá cao, ảnh hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Ngoài ra,
trong một số trường hợp, mức hưởng BHXH còn phải dựa trên thời gian đóng
BHXH, thường được áp dụng với các chế độ bảo hiểm dài hạn.
Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH của NLĐ phải được tính toán hợp
lý trong tương quan với rất nhiều yếu tố. Việc xác định mức đóng, hưởng
BHXH hợp lý là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo tính hấp dẫn và tính
bền vững của BHXH.
Khi tham gia BHXH, NLĐ được đảm bảo một khoản thu nhập khi bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Khoản thu nhập thay thế
này nói chung cao hơn so với khoản phí BHXH mà họ đã đóng góp. Để làm
được điều này, BHXH phải thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít, có nghĩa là
lấy số đông người tham gia đóng góp để bù cho số ít người không may gặp
rủi ro. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BHXH thì sự san sẻ
rủi ro càng được thực hiện dễ dàng hơn.
Thứ ba, Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội.
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội. Vì vậy, Nhà nước thống nhất quản lý là yêu cầu khách quan đối với việc
tổ chức thành công BHXH, nhằm đảm bảo cho giới lao động trong toàn quốc
đều có thể tham gia BHXH, thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Với
tư cách là đại diện chính thức và quản lý xã hội, Nhà nước phải có trách
nhiệm thực hiện các chính sách xã hội, quản lý các hoạt động BHXH để đảm
bảo ổn định và công bằng xã hội.
Bên cạnh đó, BHXH còn là một yếu tố quan trọng để hình thành và
phát triển thị trường lao động. Nếu BHXH được Nhà nước quản lý thống



nhất, ổn định sẽ tạo điều kiện cho NLĐ dịch chuyển quan hệ lao động từ đơn
vị này đến đơn vị khác, từ khu vực này sang khu vực khác…theo yêu cầu của
thị trường mà quyền lợi bảo hiểm của họ không bị ảnh hưởng.
Để đạt được mục tiêu của BHXH, Nhà nước ban hành chính sách, pháp
luật về BHXH điều chỉnh trực tiếp, chi tiết các quan hệ bảo hiểm này, các quy
định về cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm. Nhà nước cũng thành lập tổ chức
BHXH, quản lý toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động BHXH thống nhất
trong cả nước. Các cơ quan hữu quan cũng thực hiện việc kiểm tra, thanh tra,
xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về BHXH; tổ chức các hoạt động nghiên
cứu khoa học về BHXH, thống kê, quản lý các thông tin liên quan đến
BHXH.
Đặc biệt, Nhà nước không chỉ đóng quỹ bảo hiểm cho các lao động làm
việc trong khu vực Nhà nước như một chủ sử dụng lao động mà còn là người
bảo trợ cho quỹ bảo hiểm trong các trường hợp cần thiết. Nhà nước còn quan
tâm đến các biện pháp bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo an toàn về tài chính để
NLĐ được hưởng BHXH trong mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, bảo hiểm xã hội phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục
tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
Bảo hiểm xã hội ngoài mục đích chính đảm bảo thu nhập cho NLĐ còn
phải tính đến lợi ích của NSDLĐ và lợi ích xã hội, kết hợp các mục tiêu kinh
tế và mục tiêu xã hội. Trong thực tế, không chỉ NLĐ mà các bên trong quan
hệ BHXH đều nhận được những lợi ích nhất định khi tham gia quan hệ này.
Trong đó, mỗi chủ thể vừa hướng tới lợi ích chung để phát triển BHXH
bền vững, vừa có gắng để lợi ích của mình đạt được ở mức cao nhất. Nếu
NSDLĐ không tham gia BHXH cho NLĐ thì có thể sẽ phải chi phí lớn khi
xảy ra TNLĐ, dịch bệnh…Nếu Nhà nước không tổ chức tốt BHXH thì không
đạt được ASXH và ảnh hưởng tới cả các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc
gia.



Tuy nhiên, nếu quy định NLĐ được hưởng bảo hiểm ở mức cao, trong
thời gian dài thì có thể dẫn đến NSDLĐ phải đóng bảo hiểm ở mức cao. Điều
đó làm tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh
dẫn đến việc làm, thu nhập của NLĐ đều bị ảnh hưởng. Nếu ngân sách nhà
nước bảo trợ quỹ BHXH ở mức độ cao thì đời sống của người hưởng bảo
hiểm được bảo đảm nhưng lại ảnh hưởng đến các phương diện khác của quản
lý xã hội. Đối với NLĐ, nếu đóng phí bảo hiểm thấp thì phần thu nhập chi cho
nhu cầu hàng ngày sẽ nhiều hơn nhưng khi ốm đau, tuổi già lại chỉ được đảm
bảo thu nhập ở mức độ thấp (và ngược lại).
Tương tự như vậy là việc đầu tư quỹ BHXH, nếu lĩnh vực đầu tư mang
lại nhiều lợi nhuận thì rủi ro cho quỹ có thể sẽ lớn, nếu chú trọng việc đảm
bảo an toàn trong hoạt động đầu tư thì thường lãi suất thu được sẽ thấp…
Như vậy, trong việc xây dựng chính sách, quy định các chế độ BHXH
cụ thể và trong quản lý, điều hành hệ thống BHXH cần phải tìm ra giải pháp
để kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia, kết hợp lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài của các đối tượng và xã hội tại mỗi quốc gia.
1.3.

Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Dưới góc độ pháp lý thì “Bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của
Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong lĩnh vực
bảo đảm trợ cấp nhằm ổn định đời sống cho người lao động khi họ gặp
những rủi ro, hiểm nghèo trong quá trình lao động hoặc khi già yếu không
còn khả năng lao động”[27, tr312,313].
Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy,
BHXH bắt buộc là vấn đề của mỗi quốc gia. Từ cuối thế kỷ thứ XIX chính

quyền nhiều bang ở Đức bắt tay với giới thợ thuyền lập quỹ ốm đau do chính
những người thợ đóng góp bắt buộc để tương trợ cho những người bị ốm đau.


Đây là lần đầu tiên đánh dấu sự ra đời của loại hình BHXH bắt buộc. Người
có công đầu trong việc xây dựng và ban hành pháp luật BHXH thuộc về Tể
tướng Đức Bismac (Bismarck). Chính ông đã đưa ra quan điểm: “Bảo hiểm
xã hội là sự tương trợ của cộng đồng đối với người lao động, trên cơ sở gắn
liền với nghĩa vụ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và
trách nhiệm của xã hội (tức là của Nhà nước).”
Năm 1883, đạo luật đầu tiên về BHXH ở Đức ban hành, nhằm trợ cấp
cho NLĐ bị ốm đau. Năm 1884 mở rộng thêm dạng trợ cấp rủi ro nghề
nghiệp, sau này gọi là trợ cấp TNLĐ, BNN. Đến năm 1889 thì phát triển thêm
dạng trợ cấp tuổi già và trợ cấp tàn tật. Pháp luật BHXH của Đức quy định
việc tổ chức quản lý thực hiện BHXH gồm 3 bên, là đại diện NLĐ, đại diện
NSDLĐ và Nhà nước. Cả 3 bên đều có trách nhiệm đóng góp một phần vào
quỹ BHXH và cùng quản lý. Mọi người làm công ăn lương đều bắt buộc phải
đóng góp BHXH, không phân biệt thợ lành nghề hay thợ phổ thông, thợ
trẻ hay thợ già, thợ là nam hay nữ. Từ đây, NLĐ được bảo hộ về mặt pháp lý
từ phía Nhà nước mỗi khi họ gặp rủi ro hay già yếu.
Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã có pháp luật BHXH về
BHXH bắt buộc. Mục đích của pháp luật BHXH bắt buộc ở các nước đều
giống nhau là sự bảo vệ cho NLĐ khi gặp phải rủi ro, bất hạnh do bị ngừng
hoặc giảm thu nhập thì được nhận trợ cấp để sinh sống. Phạm vi và đối tượng
áp dụng của pháp luật BHXH bắt buộc được mở rộng dần. Thông thường, các
nước thực hiện BHXH cho công chức Nhà nước và quân đội trước, rồi đến
công nhân các xí nghiệp do Nhà nước quản lý, sau đó đến người làm công ăn
lương do tư nhân thuê mướn và mở rộng đến những dạng lao động khác.
Các dạng trợ cấp cũng được bổ sung dần, nhằm che chắn toàn diện
những “rủi ro” có thể xảy ra đối với NLĐ. Như trên đã nêu, đạo luật BHXH

đầu tiên trên thế giới ở Đức mới chỉ thực hiện dạng trợ cấp ốm đau, sau đó
các dạng trợ cấp TNLĐ, BNN, tàn tật (mất sức lao động), già yếu (hưu trí)


mới lần lượt được quy định. Nước Nga là quốc gia đầu tiên quy định loại trợ
cấp cho phụ nữ góa bụa và có con nhỏ (trợ cấp tiền tuất) khi công chức chết.
Sau đó, ở các nước khác cũng thực hiện loại trợ cấp này. Đến năm 1911,
Vương quốc Anh là nước đầu tiên có luật về bảo hiểm thất nghiệp. Rồi một số
nước khác ở Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ cũng thực hiện trong thập kỷ 30….
Đứng trước yêu cầu phát triển và hoàn thiện pháp luật về BHXH của
nhiều nước và trước sự thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngày 28/6/1952, Tổ chức ILO
đã thông qua Công ước số 102 về BHXH bao gồm 9 dạng trợ cấp. Trong
Công ước quan trọng này đã định ra một cơ cấu thống nhất và có phối hợp về
BHXH giữa các nước thành viên của ILO. Tuy nhiên, Công ước cũng giành
một số các lựa chọn có tính chất ngoại lệ cho việc vận dụng đối với những
nước chưa phát triển về kinh tế và y tế trong một thời gian thích hợp.
Như vậy, với quan niệm mở rộng dần các chế độ BHXH theo hướng
tăng quyền lợi của NLĐ, các chế độ trợ cấp BHXH được phát triển dần từ
một đến chín loại để khắc phục những rủi ro xảy ra đối với NLĐ. Cho đến
năm 2006 trên thế giới đã có 172 nước có hệ thống pháp luật về BHXH
[7,tr6].
Để thực hiện BHXH bắt buộc đối với số đông NLĐ, thì vấn đề mấu
chốt là phải huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và cần phải có kế
hoạch cân đối việc thu và chi BHXH. Lịch sử phát triển của pháp luật BHXH
trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước quy định ba nguồn đóng góp vào quỹ
BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước. Một số nước xã hội chủ
nghĩa trước đây thì quy định hai nguồn đóng góp là cơ quan, đơn vị và Nhà
nước, còn NLĐ không phải đóng góp. Cá biệt có nước dùng tiền thu thuế để
trợ cấp BHXH. Ngoài phần đóng góp của các chủ thể vào quỹ BHXH bắt
buộc thì quỹ còn có khoản thu khác như lãi suất do dùng tiền BHXH để đầu

tư.
Và trên hết, để thực hiện được mục đích của BHXH bắt buộc thì pháp


luật của các nước đều quán triệt quan niệm phải tăng cường vai trò mọi mặt
của Nhà nước đối với BHXH bắt buộc, mọi hoạt động liên quan đến BHXH
bắt buộc do Nhà nước thống nhất quản lý. Vai trò của Nhà nước thể hiện
trước hết ở việc Nhà nước trực tiếp ban hành các quy định về BHXH bắt
buộc, trực tiếp tổ chức ra bộ máy thực hiện BHXH và kiểm tra việc thực hiện
BHXH bắt buộc. Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ phát
triển của đất nước mà Nhà nước hoạch định chính sách quốc gia về BHXH
bắt buộc. Với tư cách là người chủ sở hữu lớn nhất, Nhà nước có trách nhiệm
đóng góp và hỗ trợ quỹ BHXH bắt buộc. Trong những trường hợp cần thiết,
Nhà nước còn áp dụng những biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng giá trị của
quỹ BHXH bắt buộc.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm pháp luật về BHXH
bắt buộc như sau: Pháp luật về BHXH bắt buộc là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đóng góp và chi trả các chế độ
BHXH bắt buộc.

Mặc dù BHXH bắt buộc phụ thuộc vào điều kiện và quan

niệm của mỗi quốc gia, song nhìn chung pháp luật về BHXH bắt buộc là một
bộ phận quan trọng nhất của pháp luật BHXH. Nếu có một chính sách đúng
đắn thì BHXH đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định tình hình chính
trị của đất nước và sự phát triển nền kinh tế quốc dân, ngược lại, nếu không
có định hướng đúng thì nó sẽ tác động tiêu cực tới tình hình chính trị, kinh tế,
sự tiến bộ xã hội .
1.3.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy
định khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật
BHXH bắt buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung
như đối tượng tham gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc.
- Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.


Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng
nhất của bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao
và sự “che chắn” của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước, lực lượng lao
động thường chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối tượng trực
tiếp của BHXH bắt buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước nên phạm vi, đối tượng áp dụng các
chế độ BHXH có khác nhau. Có nước chỉ thực hiện BHXH đối với công
nhân, viên chức Nhà nước, ví dụ như Lào; có nước áp dụng với cả NLĐ làm
công ăn lương, ví dụ như Philippin, Thái Lan; có nước hầu như áp dụng cho
mọi người lao động, ví dụ như ở Liên Xô cũ, Australia. Ngày nay, xu thế
chung của nhiều nước là mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến mọi lao
động.
Ngoài đối tượng trực tiếp là NLĐ được áp dụng các chế độ BHXH, thì
khi NLĐ chết, các thân nhân của NLĐ như vợ (hoặc chồng), bố, mẹ đã hết
tuổi lao động hoặc con chưa đến tuổi lao động cũng được hưởng trợ cấp. Chế
độ trợ cấp này ở các nước gọi là chế độ tiền tuất.
Trong BHXH, nếu NLĐ tham gia quan hệ lao động thuộc đối tượng
bảo hiểm bắt buộc thì NSDLĐ có nghĩa vụ phải tham gia đóng phí bảo hiểm
cho những lao động đó. Do vậy, NSDLĐ cũng chính là đối tượng áp dụng của
BHXH bắt buộc.
Trên thực tế, tùy theo nhu cầu tham gia bảo hiểm và trình độ quản lý rủi
ro của từng hệ thống bảo hiểm mà đối tượng tham gia có quy mô lớn hay nhỏ.
Ở những nước phát triển, lao động làm công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao

động, Nhà nước có khả năng quản lý rủi ro xã hội ở mức độ cao thì có quy mô
đối tượng tham gia BHXH lớn. Ngoài ra, còn có hình thức bảo hiểm tự
nguyện cho các đối tượng khác. Đại diện cho nhóm các quốc gia này có thể
kể đến Anh, Đan Mạch, Hà Lan… Tại Anh, “ Chế độ bảo hiểm quốc gia là
chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu hướng phủ toàn bộ dân cư thường trú tại


Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập và người không làm
việc”[28, tr351,352].
Theo đó, những người được bảo hiểm được chia thành 4 loại: Loại 1:
Loại này liên quan đến người làm công ăn lương mà thu nhập hàng tuần vượt
quá sàn 57 bảng; Loại 2 và 4: Các loại này liên quan đến những NLĐ
độc lập chịu một sự đóng góp hàng tuần ấn định. NLĐ độc lập mà thu nhập
vượt quá một sàn nào đó phải trả tiền đóng bảo hiểm bổ sung với danh nghĩa
của loại 4; Loại 3: Đối tượng liên quan trước hết là những người không thuộc
các loại khác hoặc việc đóng góp thường xuyên không đủ để có các quyền đối
với một số trợ cấp có sự tham gia đóng góp.
Tại Hà Lan lại song song tồn tại hai hệ thống BHXH, một cho riêng
người làm công ăn lương và hai là áp dụng cho toàn bộ dân cư. Mặt khác, tồn
tại các trợ cấp xã hội không có sự đóng góp. BHXH của những người làm
công ăn lương bảo đảm chi phí duy nhất cho những người làm công ăn lương
và những người giống như vậy. Để được thụ hưởng BHXH này, phải có một
HĐLĐ, ít nhất giống như người làm công ăn lương. Đó là trường hợp người
học nghề, những NLĐ tại nhà hoặc trong các phân xưởng được bảo hiểm.
Những NLĐ thật sự độc lập không giống người làm công ăn lương và
công chức có chế độ riêng. Người làm công ăn lương mà thu nhập dưới một
trần tham gia phải thuộc chế độ ZFW (bảo hiểm ốm đau). Trần này hiện nay
là 58.950 florin một năm [29, tr408] (tất cả thu nhập được tính). Chế độ ZFW
cũng đảm bảo những người nhận trợ giúp xã hội. Vượt lên trần, những người
làm công ăn lương không thể lựa chọn để tham gia tự nguyện vào chế độ

ZFW, nhưng có thể gia nhập một chế độ tư nhân bảo hiểm ốm đau. Mặc dù
không có một nghĩa vụ nào, hầu hết tất cả những người liên quan đã làm như
vậy. Bảo hiểm quốc gia bảo đảm chế độ bảo hiểm cho tất cả những người
sống ở Hà Lan, cũng như những người không thường trú với điều kiện họ
đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế về lương.


Qua nghiên cứu thực tiễn quy định về đối tượng áp dụng của một số
nước trên thế giới cho thấy với đối tượng áp dụng rộng lớn, cùng với hệ thống
trợ cấp toàn diện, BHXH bắt buộc thực sự phục vụ đời sống con người, góp
phần bảo đảm cho xã hội an toàn, phát triển.
- Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Khi nói về các chế độ BHXH bắt buộc, giáo trình Bảo hiểm xã hội của
Trường Đại học Lao động – Xã hội cho rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là các
trường hợp được bảo hiểm do Nhà nước quy định cho người hưởng bảo hiểm,
theo các mức hưởng và thời gian hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo
hiểm phát sinh”[23, tr49].
Thực tế khi nghiên cứu về các chế độ BHXH bắt buộc, có tác giả lại
cho rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hoá chính sách bảo hiểm xã
hội, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội đối với người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các quy
định được pháp luật hoá về đối tượng, điều kiện để được hưởng, mức hưởng,
thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng chế độ bảo hiểm xã
hội cụ thể” [33, tr13].
Theo tác giả, quan điểm sau về cơ bản đã bao trùm đầy đủ các nội dung
của chế độ BHXH bắt buộc và có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn và
thực hiện các chế độ BHXH. Chế độ BHXH bắt buộc được cụ thể hoá dưới
dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ…Vì thế, khi
thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi
của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng đắn và tính nhất quán trong toàn

bộ hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc.
Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm
1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau:
1.

Chăm sóc y tế


2.

Trợ cấp ốm đau

3.

Trợ cấp thất nghiệp

4.

Trợ cấp tuổi già

5.

Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

6.

Trợ cấp gia đình

7.


Trợ cấp sinh đẻ

8.

Trợ cấp khi tàn phế

9.

Trợ cấp tiền tuất (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).

Chín chế độ trên hình thành một hệ thống chế độ BHXH. Tuỳ theo điều
kiện kinh tế, xã hội mà mỗi nước tham gia Công ước thực hiện khuyến nghị
đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ.
Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
tuổi già, trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền tuất. Khi đã
được pháp luật quy định, nội dung của các chế độ BHXH thường bao gồm
việc xác định mục đích thực hiện chế độ, xác định đối tượng bảo hiểm, điều
kiện được trợ cấp, xác định mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Cho tới
nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đã ban hành hệ thống pháp luật về
ASXH, trong đó có BHXH bắt buộc và không ngừng hoàn thiện hệ thống các
chế độ trợ cấp.
Hiện nay, việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc trên thế giới có thể
chia thành hai mô hình chính nằm trong hệ thống ASXH: mô hình Bismarck
(Đức, Pháp) và mô hình Mỹ, Anh. Mô hình Bismarck được áp dụng khá phổ
biến ở các nước Tây Âu (Đức, Pháp) hay Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan) do
Tể tướng Đức Bismarck là người sáng lập. Trong mô hình này BHXH được
coi là trụ cột trong hệ thống ASXH. Mục tiêu là hầu hết các thành viên trong
xã hội đều được “bao bọc”, nên diện bao phủ rất rộng. Bao gồm chăm sóc y tế
(BHYT), trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề



nghiệp, trợ cấp tuổi già (hưu trí), trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn phế và trợ cấp
mất người nuôi dưỡng. Trong đó, Thụy Điển là một trong những quốc gia có
các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đầy đủ theo khuyến nghị của ILO tại
Công ước 102. Chế độ BHXH Thụy Điển bao gồm chế độ chung dựa vào nơi
cư trú và trợ cấp gắn với công việc [31,tr432-439].
Không giống như mô hình ASXH của các nước Bắc Âu, mô
hình ASXH của Mỹ, Anh lại đề cao trách nhiệm cá nhân, Nhà nước chỉ tập
trung cho những lực lượng yếu thế trong xã hội. Nhà nước chỉ đảm bảo những
mức trợ cấp thấp cho người dân và khuyến khích họ tham gia các dịch vụ bảo
hiểm tư nhân. Vì theo quan điểm không tạo gánh nặng cho ngân sách nhà
nước, tạo tư tưởng lười biếng do lợi ích bị cào bằng, mức trợ cấp của Nhà
nước thường chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được hưởng trợ cấp.
Trong trường hợp muốn hưởng cao hơn, người dân phải tự tham gia các sản
phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Đối với chính sách BHXH, Nhà nước
đảm bảo rất hạn chế trong phạm vi một số chế độ, chứ không phải toàn bộ
chín chế độ như theo mô hình Bismarck. Ví dụ, tại Mỹ, Nhà nước chỉ cung
cấp trợ giúp cho các chế độ BHXH bao gồm trợ cấp hưu trí, trợ cấp mất
người nuôi dưỡng, trợ cấp mất sức lao động, bảo hiểm y tế; còn lại, bảo hiểm
TNLĐ, bảo hiểm thất nghiệp người dân bắt buộc tự phải mua bảo hiểm tư
nhân mà không có sự trợ giúp, bảo trợ của Nhà nước[11, tr20].
Như vậy, qua tìm hiểu hệ thống các chế độ về BHXH bắt buộc một số
nước trên thế giới cho thấy, mô hình Bismarck có những ưu thế vượt trội
trong việc bảo vệ quyền lợi của người dân. Hầu như toàn bộ người dân (người
lao động làm công ăn lương, lao động tự do, người thân của họ) đều được bảo
vệ bởi chính sách BHXH với chín chế độ thực hiện đầy đủ. Trong khi đó, các
nước đang phát triển phần lớn chỉ mới thực hiện được với người làm công, ăn
lương. Do vậy, những ưu việt mà hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc ở các
nước theo mô hình Bismarck, trong đó có Thụy Điển mang lại cho người dân



là những kinh nghiệm quý, rất đáng tham khảo.
Bổ sung thêm quy định về các chế độ theo quan điểm của ILO và pháp
luật các nước
-

Chế độ ốm đau

-

Chế độ thai sản

-

Chế độ tai nạn lao động, BNN

-

Chế độ hưu trí

-

Chế độ tử tuất

Đối với Việt Nam, trên cơ sở kế thừa những tri thức về BHXH của
thế giới, với điều kiện hiện tại, nước ta đã lựa chọn thực hiện các chế độ
BHXH bắt buộc, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp. Và, tùy điều kiện kinh tế,
xã hội trong từng thời kỳ mà Nhà nước có những điều chỉnh khác nhau đối
với hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc cho phù hợp như:


* Chế độ ốm đau
Ốm đau là rủi ro thường xảy ra nhất đối với người lao động. Khi gặp
các sự cố về ốm đau, bệnh tật nhưng không phải do tính chất của công việc
gây ra, làm mất khả năng làm việc dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập một
khoảng thời gian. Điều đó sẽ làm gián đoạn cuộc sống của người lao động và
gia đình họ.

* Chế độ thai sản
Giới nữ Việt Nam có hơn 45 triệu người, chiếm trên 50% dân số cả
nước và hơn 47% lực lượng lao động xã hội. Phụ nữ là nguồn nhân lực quan
trọng đã đang và sẽ tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội. Thực tế chứng minh phụ nữ Việt Nam đã đóng góp không nhỏ cho sự
nghiệp cách mạng 18 giải phóng dân tộc. Bên cạnh việc làm công tác xã hội,


người phụ nữ còn phải đảm đương công việc của gia đình với chiên chức làm
vợ, làm mẹ.

* Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Những rủi ro mà người lao động thường gặp phải trong hoạt động sản
xuất kinh doanh đó là: bị thương, bị nhiễm độc, bị bỏng... dẫn đến tình trạng
người lao động bị suy giảm khả năng lao động, bị tàn phế hoặc bị chết.
Nguyên nhân gây ra tai nạn có thể do lỗi của người lao động, lỗi của người sử
dụng lao động hoặc xảy ra trong quá trình người lao động làm việc

* Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí nhằm đảm bào một phần thu nhập cho người lao động
khi họ hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động. Chế độ
BHXH hưu trí là cơ bản nhất trong 5 chế độ BHXH bắt buộc.


* Chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo
nhất trong hệ thống BXHH. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người
chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình
do người lao động bị chết.
-

Quỹ BHXH bắt buộc

Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân
sách nhà nước, được hình thành từ việc đóng góp của các bên tham gia và các
nguồn thu khác, sử dụng chi trả cho bảo hiểm xã hội bắt buộc nêu trên.
Theo quy định tại Điều 88 Luật BHXH thì quỹ BHXH bắt buộc được
hình thành từ nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động
theo quy định của pháp luật; tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ; hỗ trợ
của Nhà nước; các nguồn thu hợp pháp khác.


×