Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.92 KB, 31 trang )

Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

BÀI TIỂU LUẬN
THẨM QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

1 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

LỜI NÓI ĐẦU
Xử phạt vi phạm hành chính là một dạng hoạt động áp dụng luật Hành chính, là
quá trình các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật, tính chất,
mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ…để ban
hành các quyết định xử phạt. Mặc dù vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã
hội không cao như tội phạm nhưng nó diễn ra thường xuyên trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội nên việc xác định một cách hợp lý các chủ thể có thẩm quyền xử phạt sẽ
vừa đảm bảo xử lý kịp thời, nhanh chóng, không bỏ sót vi phạm vừa không tạo ra sự tùy
tiện trong xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy mà việc xác định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trở nên rất quan trọng.
Và hiện nay, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định chủ yếu trong
Luật Xử lý vi phạm hành chính (được thông qua vào ngày 20/06/2012 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/07/2013) và các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng
lĩnh vực quản lý nhà nước.


2 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH
1. Vi phạm hành chính
1.1. Khái niệm
1.1.1. Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật
Trong lịch sử phát triển của pháp luật về vi phạm hành chính, đã có ba pháp
lệnh và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 điều chỉnh vấn đề này, do
đó, cần khảo sát khái niệm “vi phạm hành chính” thể hiện trong các văn bản
đó.
1.1.1.1. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 định nghĩa trực
tiếp khái niệm “vi phạm hành chính” tại khoản 2, Điều 1: “Vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính.”
1.1.1.2. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 không định nghĩa
trực tiếp khái niệm “vi phạm hành chính”, mà quy định gián tiếp thông
qua khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” tại khoản 2, Điều 1: “Xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành
vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính.”
1.1.1.3. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 cũng không định
nghĩa trực tiếp khái niệm “vi phạm hành chính”, mà quy định gián tiếp
thông qua khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” tương tự như Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1995 tại khoản 2 Điều 1: “Xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý
3 of 31



Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.”
1.1.1.4. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 định nghĩa trực tiếp khái
niệm “vi phạm hành chính” tại khoản 1, Điều 2: “Vi phạm hành chính là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.”
Qua bốn định nghĩa ta thấy, cơ bản chúng có nội dung tương tự nhau, chỉ có Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
định nghĩa trực tiếp khái niệm “vi phạm hành chính”, còn hai Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 1995 và năm 2002 chỉ có thể hiểu khái niệm “vi phạm hành chính”
gián tiếp thông qua định nghĩa khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính”. Về từ ngữ
chỉ có một số thay đổi không ảnh hưởng đến tính thống nhất của quan niệm chung. Cả
bốn định nghĩa này đã thể hiện được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành
chính là: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi, và được pháp luật quy định là
vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm hành chính. Định nghĩa này cũng đề cập
đến yếu tố chủ thể của vi phạm hành chính.

1.1.2. Một số hạn chế của các khái niệm trên
1.1.2.1. Trong công thức “xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước” hay “vi
phạm quy tắc quản lý nhà nước” hay “vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước” thì “vi phạm quy tắc/quy định” là chỉ tính trái pháp
luật của hành vi, “quản lý nhà nước” là chỉ khách thể của hành vi. Nhưng
không rõ “quản lý nhà nước” được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp.
Điều này rất quan trọng, vì ngay cả theo nghĩa hẹp thì cũng đã rất chung
chung. Đó có thể là bất cứ vi phạm pháp luật nào. Vì vậy, chỉ cần nói
“trái pháp luật” là đủ.

1.1.2.2. Các công thức “mà không phải là tội phạm” hay “mà không phải là
tội phạm hình sự”, “mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”
4 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

không khác gì nhau, đều rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính tưởng lầm rằng mình có quyền đánh giá các hành vi vi
phạm pháp luật nào là vi phạm hành chính hay tội phạm, mà xem nhẹ
việc tuân thủ những căn cứ pháp luật. Mặt khác, một khái niệm của
ngành luật này không nên định nghĩa qua khái niệm của ngành luật khác.
Vì vậy, mệnh đề này cần bỏ trong định nghĩa. Việc đánh giá hành vi nào
là vi phạm hành chính hay là tội phạm chỉ thuộc thẩm quyền của nhà làm
luật.
1.1.3. Một số cách định nghĩa khác
1.1.3.1. Điều 2.1. Bộ luật Xử phạt hành chính của nước Cộng hòa Liên bang
Nga năm 2001 định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành động (hoặc
không hành động) của thể nhân hoặc pháp nhân, trái pháp luật, có lỗi
và bị Bộ luật này hoặc các luật của Cộng hòa Liên bang Nga quy định
phải chịu trách nhiệm hành chính.”
1.1.3.2. Điều 3, Luật về xử phạt hành chính của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa năm 1996 định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm trật
tự hành chính của công dân và pháp nhân hoặc các tổ chức khác, bị áp
dụng các hình thức phạt hành chính được quy định bởi pháp luật theo
quy định của Luật này và các hình thức xử phạt này được giao cho các
cơ quan hành chính áp dụng theo thủ tục do Luật này quy định.”
1.1.3.3. Pháp lệnh của Hội đồng bang Milaca, Minnesota thuộc tiểu bang
Minnesota (Hoa Kỳ) định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành vi vi
phạm quy định của Pháp lệnh này và phải chịu các hình thức xử phạt

hành chính theo quy định…”.
1.1.3.4. Và một định nghĩa nữa, theo tôi là khá đầy đủ, khoa học của
PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt:
“Vi phạm hành chính là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái
pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm
hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước
5 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của Nhà nước, tổ chức và cá nhân,
xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của con người, của công
dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính”.
1.2. Các dấu hiệu và yếu tố cấu thành pháp lý
1.2.1. Mặt khách quan
1.2.1.1.

Hành vi

Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật bất kỳ trước hết
phải là hành vi, nó chỉ được thực hiện bởi hành vi. Hành vi có thể được
thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
1.2.1.2.

Tính trái pháp luật của hành vi

Vi phạm hành chính phải là hành vi trái pháp luật. Đó là những hành vi
xâm phạm những quy định pháp luật nói chung được chế định trách
nhiệm hành chính bảo vệ, là những hành vi bị pháp luật hành chính cấm,

hoặc không thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật
hành chính buộc phải thực hiện.
1.2.1.3.

Thời gian, địa điểm, phương tiện, phương pháp thực hiện hành vi

Hành vi nào cũng phải diễn ra trong một thời gian, địa điểm nhất định và
được thực hiện bằng phương pháp nhất định.
1.2.1.4. Hành vi đó phải được một văn bản pháp luật quy định là vi phạm
hành chính và phải phải chịu trách nhiệm hành chính.
1.2.2. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà vi phạm đó xâm hại. Khách thể
của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật hành chính bảo vệ. Khách thể là yếu tố quan trọng quy định tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật. Các loại khách thể của vi phạm
hành chính rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu của Nhà
6 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

nước, của tổ chức và quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự
quản lý.
1.2.3. Chủ thể
Chủ thể của vi phạm hành chính, theo định nghĩa “vi phạm hành chính” tại
khoản 1 Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, là cá nhân hoặc tổ
chức. Điều 5, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 cụ thể hơn những chủ thể
này:
1.2.3.1.


Cá nhân

1.2.3.1.1.

Người dưới 14 tuổi

1.2.3.1.2.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

1.2.3.1.3.

Người từ đủ 16 tuổi trở lên

1.2.3.1.4.
Cán bộ, công chức, viên chức và người có thẩm quyền (Điểm
e khoản 1 Điều 10, Luật xử lý vi phạm hành chính)
1.2.3.1.5.

Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân

1.2.3.2.

Tổ chức

1.2.3.3.

Cá nhân, tổ chức nước ngoài

1.2.4. Mặt chủ quan

1.2.4.1. Lỗi
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của vi phạm hành chính. Mỗi một hành vi trái
pháp luật không có nghĩa đã là hành vi vi phạm pháp luật, nếu chưa xác
định được lỗi, tức là yếu tố chủ quan, là thái độ, động cơ, ý chí của người
vi phạm đối với hành vi của mình.
1.2.4.2.

Động cơ, mục đích vi phạm

7 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Động cơ, mục đích vi phạm là yếu tố cũng được tính đến khi xem xét
mặt chủ quan của nhiều vi phạm hành chính để quyết định các hình thức
và mức xử phạt cụ thể.
2. Xử phạt vi phạm hành chính
2.1. Khái niệm
2.1.1. “Xử phạt” là hành vi quyền lực áp đặt lên đối tượng vi phạm buộc họ phải
gánh chịu hậu quả bất lợi thể hiện ở việc gây cho họ những thiệt hại các
quyền về vật chất, tinh thần hoặc quyền tự do (chủ yếu trong chế tài hình sự)
so với tình trạng ban đầu vốn có của họ.
2.1.2. Như vậy, “xử phạt vi phạm hành chính” là hành vi quyền lực áp đặt lên đối
tượng vi phạm hành chính buộc họ phải gánh chịu hậu quả bất lợi thể hiện ở
việc gây cho họ những thiệt hại các quyền về vật chất, tinh thần hoặc quyền
tự do so với tình trạng ban đầu vốn có của họ được quy định trong pháp luật
hành chính.
2.1.3. “Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả” tuy cũng là hành vi quyền lực áp
đặt lên đối tượng vi phạm buộc họ phải gánh chịu hậu quả bất lợi, nhưng thể

hiện ở việc họ phải khôi phục lại trật tự ban đầu vốn có không thuộc về họ mà
họ đã làm thiệt hại hay sai lệch, mặc dù việc khôi phục này có thể gây tốn
kém hơn cho người vi phạm so với việc xử phạt. Thường thì việc xử phạt vi
phạm hành chính sẽ đi đôi với các biện pháp khắc phục hậu quả.
2.2. Những nguyên tắc chung
Khoản 1 Điều 3, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định:
2.2.1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị
xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được
khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
2.2.2. Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp
luật;
8 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

2.2.3. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
2.2.4. Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp
luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành
chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
2.2.5. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người
đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
2.2.6. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ

chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
2.3. Các hình thức xử phạt hành chính
Bao gồm hình thức phạt chính và hình thức phạt bổ sung.
2.3.1. Khái niệm
2.3.1.1. “Hình thức phạt chính” được áp dụng một cách độc lập, nghĩa là đối
với mỗi vi phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức phạt chính mà
không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo.
2.3.1.2. “Hình thức phạt bổ sung” không được áp dụng một cách độc lập, mà
bao giờ cũng được áp dụng kèm theo một hình thức phạt chính nào đó.
2.3.2. Căn cứ pháp luật
Được quy định từ Điều 21 đến Điều 27 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

9 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
3.1. Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
3.1.1. Theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, quyền xử phạt vi phạm hành
chính được trao cho:
3.1.1.1.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện, tình (Điều 38);

3.1.1.2.

Những người thuộc các cơ quan:

3.1.1.2.1.


Công an nhân dân (Điều 39);

3.1.1.2.2.

Bộ đội biên phòng (Điều 40);

3.1.1.2.3.

Cảnh sát biển (Điều 41);

3.1.1.2.4.

Hải quan (Điều 42);

3.1.1.2.5.

Kiểm lâm (Điều 43);

3.1.1.2.6.

Thuế (Điều 44);

3.1.1.2.7.

Quản lý thị trường (Điều 45);

3.1.1.2.8.

Thanh tra chuyên ngành (Điều 46);


3.1.1.2.9.
Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, Cảng vụ đường thủy
nội địa (Điều 47);
3.1.1.2.10.

Cục quản lý lao động ngoài nước (Điều 50);

3.1.1.2.11. Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, cơ quan khác
được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (Điều 51);
3.1.1.3. Tòa án nhân dân các cấp (Điều 48) và Cơ quan thi hành án dân sự
(Điều 49).

10 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

3.1.2. Tham khảo pháp luật quốc tế liên quan đến các chủ thể có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính
3.1.2.1. Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính của Cộng hòa Liên bang Nga
Bộ luật được Duma quốc gia thông qua ngày 20/12/2001 và được Hội
đồng Liên bang phê chuẩn ngày 26/12/2001. Bộ luật được chia thành 26
chương, 530 điều. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy
định tại Chương XXIII, bao gồm các chức danh danh/cơ quan sau:
3.1.2.1.1.
Thẩm phán (các thẩm phán hòa giải ngoài tòa án) tại Điều
23.1.
3.1.2.1.2.

Các ủy ban chuyên trách về người chưa thành niên và bảo vệ
quyền của người chưa thành niên.
3.1.2.1.3.
Các cơ quan hành pháp liên bang, các tổ chức, bộ phận cấu
thành và cơ quan theo lãnh thổ của các cơ quan hành pháp liên bang
cũng như các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền xử lý các vụ vi
phạm hành chính đó căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ được quy
định cho các cơ quan đó bởi các đạo luật liên bang hoặc các văn bản
quy phạm pháp luật của Tổng thống Liên bang Nga hoặc Chính phủ
Liên bang Nga.
Đối với từng hành vi vi phạm hành chính, Bộ luật quy định rõ thẩm
quyền xử phạt của mỗi chức danh gắn với từng hành vi vi phạm hành
chính.
Những người đứng đầu các cơ quan công quyền có quyền xử lý các
vụ vi phạm hành chính bao gồm:
Những người đứng đầu các cơ quan hành pháp liên bang
tương ứng và các tổ chức của các cơ quan đó, cấp phó của
những người này;

11 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Những người đứng đầu các bộ phận cấu thành và cơ quan
theo lãnh thổ của các cơ quan hành pháp liên bang tương ứng
và cấp phó của họ;
Những người có chức vụ khác thực thi các chức năng kiểm
tra hoặc giám sát phù hợp với các đạo luật liên bang hoặc các
văn bản quy phạm pháp luật của Tổng thống Liên bang Nga

hoặc Chính phủ Liên bang Nga.
Như vậy, số lượng các cơ quan/người có thẩm quyền xử phạt trong Bộ luật
Xử lý vi phạm hành chính của Cộng hòa Liên bang Nga 2001 rất lớn. Bộ
luật này cũng quy định cấp phó có thẩm quyền xử phạt. Đối chiếu các quy
định về thẩm quyền xử phạt của dự án Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
của Việt Nam với Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính của Cộng hòa Liên
bang Nga 2001 cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền xử phạt của
Việt Nam khá tương đồng với Liên bang Nga cả về số lượng cũng như các
chức danh có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật Việt
Nam thì cấp phó không phải là chức danh có thẩm quyền xử phạt đương
nhiên như pháp luật Nga, mà chỉ được tiến hành xử phạt khi được cấp
trưởng ủy quyền.
3.1.2.2. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 1996 của Trung Quốc
Luật Xử lý vi phạm hành chính của Trung Quốc được thông qua ngày
17/8/1996, có hiệu lực từ ngày 01/10/1996, có 8 chương và 64 điều. Các
cơ quan tiến hành xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Chương
III. Điều 15 của Luật:
“Xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan quản lý về xử phạt vi
phạm hành chính tiến hành xử phạt theo quy định của pháp luật”. Theo
đó, các cơ quan/chức danh có thẩm quyền bao gồm: Hội đồng Nhà nước
hoặc UBND cấp tỉnh, thành phố, vùng tự trị được Hội đồng Nhà nước ủy
quyền có thể chỉ định một cơ quan hành chính thực hiện quyền xử phạt
hành chính của các cơ quan hành chính có liên quan. Trường hợp hạn
chế quyền tự do của công dân chỉ do cơ quan công an thực hiện.
12 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Bên cạnh đó, Trung Quốc còn cho phép các cơ quan hành chính trong

phạm vi quyền hạn luật định có thể ủy quyền cho các tổ chức có đủ điều
kiện thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính. Cơ quan hành chính
được ủy quyền phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trong việc
thực hiện xử phạt vi phạm hành chính và hậu quả do các hành vi đó gây
ra. Trong phạm vi được ủy quyền, các tổ chức được ủy quyền phải thực
hiện việc xử phạt hành chính nhân danh cơ quan ủy quyền và không
được ủy quyền lại cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào khác thực hiện việc
xử phạt hành chính. Theo đó, cơ quan được ủy quyền phải bảo đảm đủ
các điều kiện sau:
 Là cơ quan được thành lập theo quy định của pháp luật, đang
quản lý điều hành các hoạt động công cộng;
 Có đội ngũ cán bộ có trình độ hiểu biết pháp luật, các quy định
và hoạt động trong lĩnh vực liên quan;
 Có khả năng tổ chức và tiến hành việc thanh tra, kiểm tra
chuyên môn tương ứng hoặc xác định về hành vi vi phạm pháp
luật khi cần thiết.
Việc xử phạt hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính có thẩm
quyền tại địa phương hoặc do UBND cấp trên nơi xảy ra vi phạm xử lý, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi có tranh chấp về thẩm quyền
xử phạt hành chính, vụ việc sẽ được chuyển lên cho cơ quan hành chính
cấp trên xem xét, quyết định.

Nhìn chung, xu hướng của pháp luật về vi phạm hành chính là tăng dần số chủ thể
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đó là điều hợp lý, vì vi phạm hành
chính đa dạng, ngày càng phát triển, tăng về lượng, phức tạp về nội dung, do xã
hội phát triển, nhiều quan hệ xã hội mới nảy sinh ở mọi ngóc ngách, mọi ngành,
lĩnh vực cuộc sống, nên đòi hỏi phải có nhiều cơ quan và người giải quyết, nhất là
những cơ quan chuyên ngành có chuyên môn về ngành tương ứng. Việc thay đổi,
13 of 31



Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

phát triển các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cũng đi theo sự
thay đổi, phát triển của bộ máy nhà nước, nhất là bộ máy hành chính và sự thay
đổi, phát triển của các luật chuyên ngành. Tuy nhiên, xu hướng này không phải vô
giới hạn, mà chỉ những cơ quan, người được Luật trao quyền mới có quyền xử
phạt vi phạm hành chính.

3.2. Mức phạt tiền tối đa của các chủ thể có quyền xử phạt
3.2.1. Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
Theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, mức phạt tiền tối đa mà các chủ
thể có thể áp dụng được tăng lên so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002. Khung phạt tiền từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng được nâng
lên thành từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đối với cá nhân, từ 100.000 đồng
đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức (khoản 1 Điều 23). Đó là chưa kể
cách phạt theo số lần, tỷ lệ phần trăm của giá trị, số lượng hàng hóa, tang vật
vi phạm, đối tượng bị vi phạm hoặc doanh thu, số lợi thu được từ vi phạm
hành chính (khoản 2 Điều 23). Từ Điều 38 đến Điều 51, Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012 quy định chi tiết mức phạt tiền tối đa của các chủ thể có
quyền xử phạt
3.2.2. Một số hạn chế
3.2.2.1. Thẩm quyền xử phạt của cấp cơ sở, của người trực tiếp thi hành
công vụ được quy định rất thấp; ví dụ chiến sỹ Công an nhân dân, Bộ đội
biên phòng, công chức Hải quan, kiểm lâm viên, công chức Thuế, kiểm
soát viên thị trường, thanh tra viên, chấp hành viên thi hành án dân sự…
chỉ được phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 500.000 đồng (khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 42, khoản 1 Điều 43, khoản 1 Điều 44,
khoản 1 Điều 45, khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 49 Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012); cảnh sát viên Cảnh sát biển được phạt cảnh cáo, phạt

tiền đến 1.500.000 đồng (khoản 1 Điều 41 Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012)… nên nhiều vi phạm phải chuyển lên cấp trên để xử phạt vì
14 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

vượt quá thẩm quyền của người trực tiếp thi hành công vụ, như vậy
không đảm bảo nguyên tắc nhanh, gọn trong xử phạt vi phạm hành
chính, đặc biệt đối với những điều kiện làm việc đặc thù như ở ngành
kiểm lâm, cảnh sát biển, thị trường...
3.2.2.2. Việc quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt còn bất hợp lý
ở chỗ một số ngành có nhiều chức danh có thẩm quyền xử phạt như công
an, nhưng một số ngành, lĩnh vực, việc xử phạt chỉ giao cho thanh tra
viên và Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở, cấp Bộ nhưng số biên chế
của thanh tra Bộ và Sở thường không nhiều, việc thanh tra, phát hiện và
xử phạt các hành vi vi phạm bị hạn chế.
3.3. Phân định thẩm quyền
Sự đa dạng của các chủ thể được trao quyền xử phạt vi phạm hành chính đòi hỏi
sự phân định rạch ròi thẩm quyền xử phạt của mỗi chủ thể, định rõ người chịu
trách nhiệm xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp cụ thể để tránh
chồng chéo, bảo đảm kỷ luật nhà nước và pháp chế.
3.3.1. Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
Điều 52, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định:
3.3.1.1. “1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của những người
được quy định tại các điều từ 38 đến 51 của Luật này là thẩm quyền áp
dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; trong trường
hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền xử
phạt cá nhân và được xác định theo tỉ lệ phần trăm quy định tại Luật
này đối với chức danh đó.

Trong trường hợp phạt tiền đối với vi phạm hành chính trong khu vực nội
thành thuộc các lĩnh vực quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 23 của Luật này,
thì các chức danh có thẩm quyền phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành
chính do Chính phủ quy định cũng có thẩm quyền xử phạt tương ứng với mức
tiền phạt cao hơn đối với các hành vi vi phạm hành chính do Hội đồng nhân
dân thành phố trực thuộc trung ương quy định áp dụng trong nội thành.”
15 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

3.3.1.2. “2. Thẩm quyền phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều này được
xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với
từng hành vi vi phạm cụ thể.”
3.3.1.3. “3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều từ 39
đến 51 của Luật này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh
vực, ngành mình quản lý.
Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều
người, thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên thực
hiện.”
3.3.1.4. “4. Trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi
phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác
định theo nguyên tắc sau đây:
a) Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối
với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành
chính thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
b) Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm

hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối
với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi
phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm
quyền xử phạt;
c) Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi
phạm.”
3.3.2. Nhận xét
16 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

3.3.2.1. Mặc dù đã cụ thể hơn các pháp lệnh trước, Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012 vẫn còn giữ quy định không khoa học có từ Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính 1989: “Trong trường hợp vi phạm hành chính
thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt vi phạm
hành chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Đây là một hạn chế đáng
tiếc so với lý luận cơ bản về thẩm quyền. Đáng lẽ, nên đặt ra nguyên tắc
“mỗi một hành vi vi phạm hành chính chỉ được giao cho một chủ thể xử
lý và những trường hợp ngoại lệ cũng phải được quy định rõ”.
3.3.2.2. Khoản 4 (phần 3.3.1.4 trong văn bản này) chỉ là cụ thể hóa nguyên
tắc kỹ thuật trong trường hợp xử phạt “một người thực hiện nhiều hành
vi vi phạm hành chính” quy định tại đoạn 4 điểm d) khoản 1 Điều 3 Luật
xử lý vi phạm hành chính 2012.
3.3.2.3. Phần còn lại chiếm đa phần nội dung Điều 52 chỉ là những quy định
làm cơ sở cho Chính phủ thực hiện thẩm quyền của mình hoặc là những
việc đương nhiên.
3.3.3. Điều 53: “Thay đổi tên gọi của chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm

hành chính”
Đây là điều mới có tính kỹ thuật, khẳng định kỹ thuật lập pháp đã có nhiều
tiến triển, khẳng định nếu có sự thay đổi tên gọi của chức danh thì thẩm
quyền xử phạt vẫn thuộc về chức danh đó dựa trên hoàn cảnh thực tế nhiều cơ
quan, chức danh có thẩm quyền đang dần hoàn thiện, tái cơ cấu, đổi tên.
3.4. Giao quyền xử phạt
3.4.1. Căn cứ pháp lý là Điều 54 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
Những người có thẩm quyền được liệt kê tại Điều này có thể giao cho cấp
phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và phải chịu trách
nhiệm về việc giao quyền đó. Việc giao quyền được thực hiện thường xuyên
hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ
phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi
phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành
17 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền
không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người nào khác.
3.4.2. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta nên tham khảo Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính
của Cộng hòa Liên bang Nga 2001 (như đã đề cập ở mục 3.1.2.1.) quy định
cấp phó là chức danh có thẩm quyền xử phạt đương nhiên nhằm giảm sự
phức tạp về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng như thời gian thực hiện
xử phạt vi phạm hành chính.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Bất cập của pháp luật
Việc xử phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt được quy định chặt chẽ tại
Chương II của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Tuy nhiên, vẫn có những vấn đề bất

cập mà các nhà làm luật cần nhìn nhận:
1.1. Thứ nhất, quy định thẩm quyền của Luật xử lý vi phạm hành chính có tính chất
“khung” quá lớn, phụ thuộc hoàn toàn vào các nghị định của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vực, do đó Luật quy định thẩm quyền
nhưng có được xử phạt trên thực tế hay không phải do nghị định quy định, nói
cách khác không phải chức danh nào được Luật trao quyền cũng được ra quyết
định xử phạt ở các lĩnh vực quản lý nhà nước, mà thẩm quyền này còn phụ thuộc
vào hình thức, mức xử phạt đối với hành vi vi phạm cụ thể và từng lĩnh vực quản
lý nhà nước cụ thể; tức là thẩm quyền xử phạt của mỗi chức danh cụ thể được xác
định trong nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối
với từng lĩnh vực hoặc hoạt động mới là thẩm quyền chính xác nhất.
Luật xử lý vi phạm hành chính đã có sự phân công rõ ràng, quy định thẩm quyền
của cơ quan Tòa án, nhưng chỉ quy định thẩm quyền, còn các hành vi vi phạm cụ thể và
mức phạt thì ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội (theo dự kiến nếu Pháp lệnh “xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng” được thông qua). Bên
cạnh đó, khi Thẩm phán phụ trách vụ việc phá sản, Chánh án và Chánh Tòa TAND các
cấp được trao quyền xử phạt vi phạm hành chính thì Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy
18 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình đã được ban hành cụ thể hóa thẩm quyền này. Cụ thể, theo Chương 6
Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì Thẩm phán phụ trách vụ việc phá sản và một số Chánh
án, Chánh tòa được xử phạt các hành vi vi phạm thuộc nhóm vi phạm về giải quyết vụ
việc phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, cụ thể như hành vi: hành vi cản trở, gây khó
khăn trong việc thực hiện quyền nộp đơn; hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ nộp đơn;
hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ cung cấp tài liệu, xuất trình giấy tờ; hành vi vi
phạm trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; hành vi vi phạm quy

định về hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản;
hành vi vi phạm quy định về thời hạn và nghĩa vụ kiểm kê tài sản; hành vi vi phạm quy
định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng nơi doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục
thanh lý có tài khoản; hành vi vi phạm quy định về thông báo về tình trạng phá sản; hành
vi vi phạm quy định về nghĩa vụ của nhân viên, người lao động liên quan đến thủ tục phá
sản; hành vi vi phạm quy định về điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh, hành vi vi phạm quy định về giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh; hành vi vi phạm quy định về tham gia hội nghị chủ nợ.
Tuy nhiên, vì hiện tại Chính phủ chỉ quy định các hành vi vi phạm hành chính
trong giải quyết vụ việc phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã nên các chức danh có thẩm
quyền xử phạt được quy định cụ thể của cơ quan TAND không bao gồm các chức danh
quản lý thuộc Tòa án quân sự các cấp.
Như vậy, thẩm quyền xử phạt của TAND thì hiện tại vẫn còn một số chức danh
chưa thực hiện thẩm quyền xử phạt trên thực tế như quy định của Luật xử lý vi phạm
hành chính vì chưa có nghị định của Chính phủ quy định cụ thể về hành vi vi phạm thuộc
thẩm quyền xử phạt của các chức danh này.
Liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, có một thực trạng đang hiện hữu. Theo khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương” tức Chủ tịch Ủy ban nhân dân
được quản lý mọi ngành, mọi lĩnh vực trên phạm vi địa phương theo thẩm quyền được
phân cấp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân không được trao quyền
trên một số lĩnh vực. Ví dụ, Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính
19 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu quy định
thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực cơ yếu chỉ trao quyền xử phạt cho Thanh tra cơ yếu và

Trưởng ban cơ yếu của Chính phủ với tư cách là cơ quan quản lý chuyên ngành mà
không trao quyền xử phạt cho Chủ tịch UBND các cấp; tương tự Nghị định số
109/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định xử phạt trong lĩnh vực về giá, phí, lệ phí và
hóa đơn chỉ trao quyền xử phạt cho cơ quan thuế mà không trao quyền xử phạt cho Chủ
tịch UBND các cấp (Chủ tịch UBND các cấp chỉ có thẩm quyền xử phạt về giá, không có
thẩm quyền xử phạt về phí, lệ phí và hóa đơn). Chính điều này đã dẫn đến một số bất cập
có thể kể đến như: trường hợp một số cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính, trong đó có vi phạm thuộc lĩnh vực cơ yếu hoặc về phí, lệ phí và hóa đơn.
Theo nguyên tắc, trường hợp này sẽ được chuyển cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp,
tuy nhiên Chủ tịch UBND lại không có thẩm quyền xử phạt các lĩnh vực đó thì sẽ chuyển
cho chủ thể nào xử phạt? Mà nếu xé vụ việc trên cho mỗi bên xử phạt mỗi cách thì trái
luật.
1.2. Thứ hai, mặc dù Luật đã tăng cường thẩm quyền xử phạt của nhiều chức danh
nhưng một số chức danh thiết nghĩ là cần thiết trên thực tế nhưng Luật vẫn chưa
quy định, ví dụ như: người chỉ huy tàu bay, tàu biển, tàu hỏa khi các tàu này đã
rời sân bay, bến cảng, ga (hiện Luật chỉ trao quyền lập biên bản vi phạm hành
chính cho người điều khiển phương tiện máy bay, tàu biển khi máy bay, tàu biển
rời khỏi sân bay, bến cảng và trao quyền tạm giữ hành chính); Hiệu trưởng trường
phổ thông không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi:
bán rượu, bia, các chất kích thích khác có nồng độ cồn từ 14 độ trở lên tại các
trường phổ thông hay hành vi uống bia rượu trong các trường phổ thông.
1.3. Thứ ba, việc liệt kê các chức danh có thẩm quyền xử phạt vừa có điểm tích cực
nhưng cũng không tránh khỏi hạn chế. Ưu điểm lớn nhất của cách quy định liệt kê
là rõ ràng, chính xác, đích danh và do đó sẽ đảm bảo được nguyên tắc “việc xử
phạt phải đảm bảo đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật”, việc xác định trách
nhiệm vì thế cũng có cơ sở hơn. Tuy nhiên, hạn chế của cách quy định này là
không nhỏ, đó là sẽ có thể xuất hiện những chức danh mới và cần thiết phải có
thẩm quyền xử phạt để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn (có thể do
thay đổi tên gọi hoặc thành lập mới một cơ quan hay một bộ phận của cơ quan),
khi đó chỉ còn cách thay đổi Luật xử lý vi phạm hành chính mà chắc chắn phải

20 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

thay đổi thường xuyên vì nhu cầu cải cách hành chính liên tục và mạnh mẽ như
hiện nay, còn nếu không sẽ phát sinh tình trạng các luật chuyên ngành khác quy
định thẩm quyền xử phạt trái với thẩm quyền được quy định trong Luật xử lý vi
phạm hành chính. Mặc dù Luật có đưa ra quy định dự phòng tại Điều 53 “Trường
hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này
có sự thay đổi về tên gọi thì chức danh đó có thẩm quyền xử phạt.” nhưng người
áp dụng pháp luật nói chung không có quyền suy đoán mà chỉ căn cứ vào thực
trạng câu chữ của các văn bản pháp luật nên việc quy định rõ ràng vẫn là điều cần
thiết.
1.4. Thứ tư, nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả chưa rõ ràng.
Quy định các nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, không chỉ là căn cứ, cơ sở để Chính phủ dựa vào xây dựng nên các quy định
về thẩm quyền đối với từng hành vi vi phạm hành chính trên các lĩnh vực trong nghị định
mà còn là căn cứ pháp lý có giá trị áp dụng trực tiếp trong trường hợp nghị định quy định
không rõ ràng hoặc trái với các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Luật xử lý vi phạm
hành chính. Chính vì vậy, việc xây dựng các nguyên tắc xác định và phân định thẩm
quyền trong Luật xử lý vi phạm hành chính phải rõ ràng, cụ thể nhằm tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ, vững chắc trong hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm quyền. Tuy
nhiên, các quy định tại Điều 52 vẫn còn một số vấn đề chưa thực sự rõ ràng, chi tiết, khó
có thể suy luận một cách trực tiếp hay gián tiếp. Cụ thể:
1.4.1. Thứ nhất, khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định nguyên
tắc xác định thẩm quyền đối với từng chức danh được xác định theo tỷ lệ
phần trăm khi xử phạt cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Đối với
tổ chức, thẩm quyền xử phạt này được xác định là gấp hai lần thẩm quyền xử

phạt đối với cá nhân. Tuy nhiên, thẩm quyền xử phạt tăng gấp đôi này lại chỉ
được xác định trong trường hợp phạt tiền mà không đề cập tới các trường hợp
khác, điển hình như việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Đối chiếu quy định về phạm vi thẩm quyền xử phạt của các chức danh có
thẩm quyền xử phạt theo tỷ lệ phần trăm, ta thấy thẩm quyền của một số chức
danh có thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
21 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

được xác định theo giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm tương ứng với
phạm vi thẩm quyền phạt tiền. Ví dụ, điểm c khoản 1 Điều 38 Luật xử lý vi
phạm hành chính quy định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã có quyền
“tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá
mức xử phạt tiền được quy định tại điểm b khoản này” tức được tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính đến 10% mức phạt tiền tối đa trong các
lĩnh vực (tương tự như vậy xác định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp
huyện). Vậy trường hợp thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã được xử
phạt tăng lên gấp hai lần đối với tổ chức (tức 20% mức phạt tiền tối đa trong
các lĩnh vực) thì thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính có được tăng lên tương xứng gấp hai lần hay không? Vấn đề này chưa
được nhắc đến trong khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính. Về
nguyên tắc, nếu luật không quy định thì có nghĩa không được quyền mà
không một cá nhân nào được phép tự suy luận. Tuy nhiên, điều này lại không
hợp logic trong việc lực chọn phương pháp để xác định giới hạn của thẩm
quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
tương xứng với thẩm quyền xử phạt tiền của các chức danh. Do đó, thiết nghĩ,
điều này phải được quy định trong luật rõ ràng để làm căn cứ chuẩn xác cho
các chủ thể áp dụng pháp luật giải quyết quan hệ cụ thể phát sinh.

1.4.2. Thứ hai, khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định nguyên
tắc phân định thẩm quyền xử phạt “trong trường hợp vi phạm hành chính
thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thì việc xử phạt vi phạm hành
chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Sự ghi nhận nguyên tắc này là
minh chứng cho việc thừa nhận có thực trạng chồng chéo, trùng lắp thẩm
quyền và đây được xem là giải pháp cho tình trạng chồng chéo, trùng lắp
thẩm quyền của các chủ thể trong đó có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, điều
này có thể dẫn đến thực trạng các chủ thể tranh giành nhau trong việc xử phạt
để giành lợi ích hoặc đùn đẩy trách nhiệm xử phạt cho nhau. Do đó, đây
không phải là một giải pháp hay để xử lý thực trạng này. Để xử lý triệt để, cần
phải quy định chặt chẽ, rõ ràng thẩm quyền quản lý (kể cả thẩm quyền được
phân cấp) của các chức danh trên từng lĩnh vực, tránh sự chồng chéo, trùng
lắp thẩm quyền quản lý. Một khi đã giải quyết ổn thỏa ở khâu xác định phạm
22 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

vi thẩm quyền quản lý sẽ dẫn đến sự rõ ràng, minh bạch ở khâu xác định thẩm
quyền xử lý vi phạm.
Chẳng hạn, tại khoản 1 điều 52 quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền đối với từng
chức danh được xác định theo tỷ lệ phần trăm khi xử phạt cá nhân thực hiện hành vi vi
phạm hành chính. Đối với tổ chức, thẩm quyền xử phạt này được xác định là gấp hai lần
thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân. Tuy nhiên, thẩm quyền xử phạt tăng gấp đôi này lại
chỉ được xác định trong trường hợp phạt tiền mà không đề cập tới các trường hợp khác,
điển hình như việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Đối chiếu quy định
về phạm vi thẩm quyền xử phạt của các chức danh có thẩm quyền xử phạt theo tỷ lệ phần
trăm, ta thấy thẩm quyền của một số chức danh có thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm được xác định theo giá trị của tang vật, phương tiện vi
phạm tương ứng với phạm vi thẩm quyền phạt tiền. Ví dụ, điểm c khoản 1 Điều 38 Luật

xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã có quyền
“tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức xử
phạt tiền được quy định tại điểm b khoản này” tức được tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính đến 10% mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực (tương tự như vậy xác
định thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện). Vậy trường hợp thẩm quyền của Chủ
tịch UBND cấp xã được xử phạt tăng lên gấp hai lần đối với tổ chức (tức 20% mức phạt
tiền tối đa trong các lĩnh vực) thì thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính có được tăng lên tương xứng gấp hai lần hay không? Vấn đề này chưa được nhắc
đến trong khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính. Về nguyên tắc, nếu luật không
quy định thì có nghĩa không được quyền mà không một cá nhân nào được phép tự suy
luận và hành động theo suy luận của mình. Tuy nhiên, điều này lại không hợp logic trong
việc lựa chọn phương pháp để xác định giới hạn của thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tương xứng với thẩm quyền xử phạt tiền
của các chức danh. Do đó, thiết nghĩ, điều này phải được quy định trong luật rõ ràng để
làm căn cứ chuẩn xác cho các chủ thể áp dụng pháp luật giải quyết quan hệ cụ thể phát
sinh.
Vấn đề thứ hai đặt ra trong quy định này là tại sao lại phạt tiền tổ chức gấp hai lần so với
cá nhân trong khi mặc định tổ chức có thể có từ ba người trở lên? Thiết nghĩ trong một tổ
chức, khi có hành vi vi phạm hành chính thì cách xử phạt tiền gấp hai lần so với cá nhân
là không thỏa đáng. Vì thứ nhất, một khi trong một tổ chức xuất hiện hành vi vi phạm
23 of 31


Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

hành chính, nếu là hành vi của cá nhân thì tại sao không xử lí vi phạm hành chính đối với
cá nhân đó mà phải xử lí vi phạm hành chính đối với cả tổ chức? Nếu là hành vi chung
của mọi cá nhân trong tổ chức thì tại sao không chia theo số lượng cá nhân vi phạm mà
nhân lên số tiền phạt cho thỏa đáng đối với cả tổ chức hoặc một phương án nào đó thỏa
đáng hơn mà lại nhân hai so với số tiền phạt cá nhân? Vì nếu mọi cá nhân trong tổ chức

vi phạm hành chính có liên quan đến tổ chức thì mục đích cuối cùng là vì lợi ích của tổ
chức nói chung và lợi ích của mỗi cá nhân trong đó nói riêng.
Tại khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định nguyên tắc phân định
thẩm quyền xử phạt “trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều người thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Sự
ghi nhận nguyên tắc này là minh chứng cho việc thừa nhận có thực trạng chồng chéo,
trùng lắp thẩm quyền và đây được xem là giải pháp cho tình trạng chồng chéo, trùng lắp
thẩm quyền của các chủ thể trong đó có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, điều này có thể
dẫn đến thực trạng các chủ thể tranh giành nhau trong việc xử phạt để giành lợi ích hoặc
đùn đẩy trách nhiệm xử phạt cho nhau. Do đó, đây không phải là một giải pháp hay để xử
lý thực trạng này. Thiết nghĩ, để xử lý triệt để, cần phải quy định chặt chẽ, rõ ràng thẩm
quyền quản lý (kể cả thẩm quyền được phân cấp) của các chức danh trên từng lĩnh vực,
tránh sự chồng chéo, trùng lắp thẩm quyền quản lý. Một khi đã giải quyết ổn thỏa ở khâu
xác định phạm vi thẩm quyền quản lý sẽ dẫn đến sự rõ ràng, minh bạch ở khâu xác định
thẩm quyền xử lý vi phạm. Khoản 3 điều 52 quy định “Trong trường hợp vi phạm hành
chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt vi phạm hành chính do
người thụ lý đầu tiên thực hiện”, nghĩa là khi hành vi của người vi phạm thuộc phạm vi
xử lí của nhiều người thì người thụ lý đầu tiên được quyền xử lí? Cũng trong điều 52 tại
điểm c) khoản 4 quy định “c) Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.”, vậy nghĩa là khi hành vi
của người vi phạm thuộc phạm vi xử lí của nhiều người thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền xử phạt tại nơi xảy ra vi phạm? Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là rốt cuộc thẩm
quyền xử lí vi phạm hành chính thuộc về ai khi hành vi vi phạm thuộc phạm vi xử lí của
nhiều người? Thiết nghĩ, cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong thẩm quyền xử lí vi
phạm hành chính để tránh tình trạng chồng chéo thẩm quyền như vậy.
Tại điều 54 của Luật xử lý vi phạm hành chính quy định về Giao quyền xử phạt như sau:
24 of 31



Tiểu luận môn Luật Hành chính – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38; các
khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 39; các khoản 2, 3 và 4 Điều 40; các khoản 3, 4, 5, 6
và 7 Điều 41; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 42; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 43; các
khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 44; các khoản 2, 3 và 4 Điều 45; các khoản 2, 3 và 4 Điều
46; Điều 47; khoản 3 và khoản 4 Điều 48; các khoản 2, 4 và 5 Điều 49; Điều 50
và Điều 51 của Luật này có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính.
2. Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường xuyên hoặc
theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi,
nội dung, thời hạn giao quyền.
3. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về
quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp
luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người
nào khác”.
Vậy, đối với Ủy ban nhân dân các cấp, khi Chủ tịch UBND các cấp muốn giao
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho cấp phó thì sẽ giao cho cấp phó nào
trong khi trong một UBND lại có từ 2 đến 3 cấp phó? Chủ tịch UBND sẽ giao
thẩm quyền cho cấp phó theo ý chí cá nhân khi luật chưa quy định cụ thể về trình
tự cũng như điều kiện mà cấp phó cần có để được giao thẩm quyền?
Trên đây là một trong những vấn đề bất cập mà thiết nghĩ trên lý thuyết pháp luật có thể
sẽ thấy ổn nhưng đến khi triển khai áp dụng vào thực tiễn cuộc sống lại gặp nhiều vấn đề
khi luật chưa quy định rõ ràng, cụ thể trong khi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính lại
lấp lững giữa những người được quy định có thẩm quyền cũng như được giao thẩm
quyền. Thiết nghĩ cần có một số phương pháp sửa đổi, bổ sung để luật được hoàn chỉnh
hơn.

2. Thực tiễn
Mặc dù đã được quy định cụ thể trong Luật, tuy nhiên trên thực tế vẫn có nhiều

trường hợp xác định không đúng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
25 of 31


×