Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Định hướng ôn tập thi thăng hạng giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.84 KB, 4 trang )

KIẾN THỨC KĨ NĂNG CHUNG
I. TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Những vấn đề cơ bản về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục tiểu học gồm:
Tư duy, nhận thức; mục tiêu; chương trình, nội dung; phương pháp dạy học và đánh giá; đào tạo bồi dưỡng nhà giáo và
cán bộ quản lý; cơ chế quản lý.
Câu 2: Phát triển Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam được thực hiện theo cách tiếp cận nào?
Tiếp cận kết quả đầu ra
Câu 3: Theo HP năm 2013, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước nào sau đây?
Các cơ quan QLNN, các cơ quan HCNN, các cơ quan xét xử, các cơ quan kiểm sát
Câu 4: Nguồn gốc của động lực làm việc: Được tạo ra trong quá trình sống, học tập và lao động.
Câu 5: Điền từ thích hợp vào chỗ trống sau: “Điều 69 HP 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan …………… cao nhất của nước CHXHCN VN. QH thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước”. Quyền lực nhà nước
Câu 6: Xu thế phổ biến của giáo dục ở các quốc gia trên thế giới là: Phân luồng học sinh sau THCS và sau THPT.
Câu 7: Trong các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo, giải pháp nào dưới đây được xác định là giải pháp đột phá? Đổi mới
quản lí giáo dục.
Câu 8: Đặc điểm nào không phải là cơ sở để dạy học phân hóa: Đánh giá, phân loại năng lực sư phạm của giáo viên.
Câu 9: Trong các quyền sau đây, quyền nào thể hiện sự tham gia quản lý nhà nước, xã hội của công dân?
Quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước
Câu 10: Giai đoạn giáo dục cơ bản của nước ta hiện nay là bao nhiêu năm: 9 năm
Câu 11: Ý nào dưới đây thuộc nhóm năng lực tương tác hòa đồng với nhiều nhóm xã hội trong khung năng lực cốt lõi theo tổ chức
OECD: Có khả năng thiết lập quan hệ hợp tác với người khác.
Câu 12: Trong chính sách đảm bảo chất lượng, việc thực hiện đánh giá quốc gia về chất lượng học tập của học sinh và công khai kết
quả bao nhiêu lâu được thực hiện một lần. 5 năm
Câu 13: Trong chương trình GDPT mới, Hoạt động TN là hoạt động: Bắt buộc
Câu 14: Đâu không phải là hạn chế, bất cập của chương trình GDPT hiện hành:
Chưa hướng tới mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ để chuẩn bị các điều kiện cho học sinh bước vào cuộc sống
Câu 15: Cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Chính phủ
Câu 16: Ý nào dưới đây được nêu ra các nhiệm vụ chủ yếu trong Chỉ thị về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017-2018 của ngành giáo
dục. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và CBQL các cấp
Câu 17: Anh/ chị cho biết việc: “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban


Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước” là đề cập tới nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan nhà nước nào sau đây?
Chính phủ
Câu 18: Ý nào dưới đây thuộc nhóm năng lực hành động một cách tự chủ và sáng tạo trong khung năng lực cốt lõi theo tổ chức
OECD. Có khả năng hành động hiệu quả trong điều kiện, hoàn cảnh thay đổi
Câu 19: Động lực là: Các yếu tố bên trong và bên ngoài thúc đẩy cá nhân tiến hành hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của
bản thân.
Câu 20: Đổi mới chương trình giáo dục theo tiếp cận năng lực là:
Trả lời câu hỏi: HS sẽ làm được gì và làm như thế nào vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường?
Câu 21: Dạy học theo phân hóa trong là:
Chú ý tới các đối tượng riêng biệt, cá nhân hóa người học trên lớp, phù hợp với từng đối tượng để tăng hiệu quả dạy học.
Câu 22: Cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng và quyền là chủ của Nhân dân, do Nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên là: Hội đồng nhân dân
Câu 23: Phát triển chương trình theo tiếp cận năng lực là xu thế đang được nhiều quốc gia thực hiện, nhằm hình thành, phát triển ở
người học: Những năng lực, kĩ năng cần cho việc học suốt đời, cho cuộc sống hằng ngày, cần cho người công dân, cho cuộc
sống lao động.
Câu 24: Nguồn gốc của động lực làm việc: Được tạo ra trong quá trình sống, học tập và lao động.
Câu 25: Đặc điểm nào không thuộc vai trò của việc tạo động lực lao động của người giáo viên:
Quan hệ khéo léo với học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp.
Câu 26: Nội dung nào dưới đây không thuộc chính sách và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên phổ thông:
Tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển, đào tạo, cơ chế cấp học bổng, hỗ trợ học phí, tín dụng... cho học sinh
sinh viên người dân tộc thiểu số và thuộc diện chính sách xã hội.
Câu 27: Triết lí giáo dục mà UNESCO đã tuyên bố trên cơ sở 4 “trụ cột” là: Học để biết, Học để làm, Học để chung sống và Học
để khẳng định mình.
Câu 28: Trong các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo, giải pháp nào dưới đây được xác định là giải pháp then chốt? Phát triển
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục.


Câu 29: Điểm chung trong triết lí, tư tưởng GD của từng nước có khác nhau, song thường đề cập đến:
Hướng tới phát triển cá nhân người học; Giáo dục người công dân đa văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Câu 30: Động lực làm việc không quyết định: Hiệu quả và chất lượng của công việc.

Câu 31: Điền từ thích hợp vào chỗ trống sau: “Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện nguyên tắc: “…………..là thống nhất nhưng có
sự phân công, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” Quyền lực nhà
nước
Câu 32: Chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng thụ hưởng giáo dục và các vùng miền:
Chính sách hỗ trợ vùng khó khăn và chính sách dân tộc.
Câu 33: Thực hiện chủ trương “một chương trình, nhiều SGK” trong đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sắp tới, nhà trường
phải quyết định chọn sách dựa trên: Ý kiến của giáo viên bộ môn, có tham khảo ý kiến HS và cha mẹ học sinh.
Câu 34: Quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở bậc phổ thông là:
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học.
Câu 35: Trong đổi mới chương trình GDPT tổng thể, Bộ GD&ĐT chủ trương thực hiện một chương trình, nhiều SGK để: Giáo
viên chủ động, linh hoạt lựa chọn nguồn tài liệu đa dạng, phong phú phù hợp với đặc điểm học sinh, điều kiện nhà trường,
địa phương.
Câu 36: Đâu không phải là mục đích của đánh giá năng lực người học: Tập trung vào đánh giá để xếp hạng, phân loại HS;
Câu 37: Đâu không phải là đặc điểm của dạy học theo phân hóa ngoài:
Chú ý tới các đối tượng riêng biệt, cá nhân hóa người học trên lớp, phù hợp với từng đối tượng để tăng hiệu quả dạy học.
Thực hiện chủ yếu thông qua phương pháp dạy học.
Câu 38: Đâu không phải là đặc điểm của toàn cầu hóa trong giáo dục:
Giáo dục phải tạo ra vỏ bọc an toàn để học sinh không bị những ảnh hưởng tiêu cực từ toàn cầu hóa.
Câu 39: Tại sao phải dạy học tích hợp? Giúp tinh giản kiến thức, tránh sự lặp lại các nội dung ở các môn học khác . Giúp xác
lập được mối liên hệ giữa các tri thức, kĩ năng
Câu 40: Động lực là: Các yếu tố bên trong và bên ngoài thúc đẩy cá nhân tiến hành hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của
bản thân.
Câu 41: Để đổi mới giáo dục thành công, thì khâu then chốt chính là: Đổi mới tư duy, nhận thức, nâng cao năng lực của đội ngũ
giáo viên và đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.
Câu 42: Đặc điểm phát triển tình cảm của lứa tuổi học sinh Tiểu học là: Dễ xúc động, hay thay đổi, dễ khóc, dễ cười.
Câu 43: Nội dung của hoạt động trải nghiệm là: Vừa bắt buộc, vừa tự chọn
Câu 44: Động lực làm việc không quyết định: Hiệu quả và chất lượng của công việc.
Câu 45: Đâu không phải là cam kết của nhà nước về phát triển giáo dục: Cam kết hoàn thành phổ cập giáo dục TH.
Câu 46: Đâu không phải là đặc điểm của hoạt động TNST: Được hình thành tương ứng với một lĩnh vực khoa học nhất định.

Câu 47: Đặc điểm lao động đặc trưng của người giáo viên tiểu học là: Mang tính khoa học và sáng tạo.
Câu 48: Ý nào thể hiện chưa đúng nội hàm của đổi mới căn bản và toàn diện GD & ĐT:
Xóa bỏ hoàn toàn những cái cũ, để thay thế bằng những cái mới, phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại.
Câu 49: Nội dung nào dưới đây thuộc chính sách tạo cơ hội bình đẳng và chính sách phát triển giáo dục các vùng miền:
Có chính sách thỏa đáng thu hút nhà giáo cho vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Câu 50: Ý nào dưới đây thuộc nhóm năng lực sử dụng công cụ tương tác trong khung năng lực cốt lõi theo tổ chức OECD. Có khả
năng kiểm soát kiến thức và thông tin


II. TỰ LUẬN:
1. Phân tích giải pháp đổi mới giáo dục (Giải pháp then chốt và giải pháp đột phá).
Mục tiêu của chiến lược nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao toàn diện, gồm giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo,
năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học…
Ðánh giá về thực trạng đội ngũ nhà giáo, các nghiên cứu gần đây đều thống nhất ở một số nhận định như: hầu hết các nhà giáo
đều đạt chuẩn nghề nghiệp, nhưng còn một bộ phận chưa đạt yêu cầu về năng lực chuyên môn, nhất là năng lực sư phạm. Ðội ngũ
nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, nhất là thiếu hụt ở các vùng núi, vùng khó khăn; không đồng bộ về cơ cấu chuyên môn. Trong
thực tiễn giáo dục ở nhà trường, các nhà giáo còn làm việc dựa trên kinh nghiệm, chưa thật sự đổi mới phương pháp, đổi mới đánh
giá; chưa gắn kết hoạt động giảng dạy với thực tiễn đời sống; chưa tổ chức tốt các hoạt động dạy học, giáo dục. Ðáng chú ý, một bộ
phận nhà giáo có biểu hiện thiếu trách nhiệm và tâm huyết với nghề, thậm chí lối sống suy thoái về đạo đức, ảnh hưởng xấu tới uy
tín của nhà giáo trong xã hội...
Những nguyên nhân tạo nên bất cập về chất lượng nhà giáo cũng được xác định rõ là do hoạt động đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
chưa theo kịp những yêu cầu đổi mới giáo dục của đất nước và thế giới, hoặc do những bất cập về chế độ, chính sách, chưa tạo được
động lực phấn đấu vươn lên trong hoạt động nghề nghiệp. Những năm gần đây, không ít học sinh phổ thông có thành tích cao không
lựa chọn nghề giáo, dẫn đến tình trạng là đầu vào các trường sư phạm luôn thấp hơn các ngành khác. Theo chúng tôi, ngoài sự
không hấp dẫn về chế độ lương bổng còn có một nguyên nhân xã hội khác. Ðó là yêu cầu cao của xã hội đối với nhà giáo về chuẩn
mực đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tính chất và cường độ lao động mà lại rất thiếu những hoạt động, những ưu
đãi tôn vinh nghề giáo.
Cũng như các nước khác, giáo dục Việt Nam đang phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, với tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cũng như ảnh hưởng trực tiếp của nền kinh tế tri thức và các xu thế hội nhập quốc tế và

toàn cầu hóa. Ở Việt Nam, sự phân hóa trong xã hội về khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa
các vùng, miền ngày càng rõ rệt, gây nguy cơ dẫn đến sự thiếu bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, gia tăng khoảng cách về chất
lượng giáo dục giữa các vùng, miền và cho các đối tượng người học. Thực trạng đó đặt ra cho giáo dục Việt Nam những yêu cầu
phải đổi mới cả về lý luận cũng như những giải pháp thực tiễn phù hợp để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trong bối cảnh
mới. Ðể cải thiện tình hình và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cần đổi mới căn bản và toàn diện nội dung, chương trình,
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo để từng bước đáp ứng các yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau
năm 2015.
Về phương châm đổi mới, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ "đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt". Từ những nội dung trong Chiến lược có thể khẳng định rằng, Ðảng đã xác
định tiếp tục đẩy mạnh đổi mới giáo dục ở một tầm cao mới, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn và triệt để hơn nhằm tạo ra những chuyển
biến mới, thật sự hiệu quả và thiết thực về chất lượng giáo dục.
Vì vậy, dù đã có nhiều ưu tiên đối với nhà giáo, nhất là chế độ ưu đãi đào tạo nhưng cần có những chính sách mạnh mẽ hơn nữa
để thật sự đề cao nghề dạy học và có chính sách tôn vinh nghề dạy học và đội ngũ nhà giáo. Cụ thể là tôn vinh nghề giáo và nhà giáo
bằng nêu gương và khen thưởng xứng đáng cho những nhà giáo và các cơ sở giáo dục có thành tích. Tăng lương và có những chính
sách ưu đãi xứng đáng cho những người làm công tác giáo dục, nhất là các nữ nhà giáo và những người công tác ở vùng khó khăn.
Thực hiện chế độ chức danh nhà giáo và có chế độ lương lũy tiến theo chức danh, thâm niên và thành tích để khuyến khích các nhà
giáo đạt chuẩn và đạt các mức chuẩn cao trong nghề nghiệp. Giảm khối lượng công việc và số giờ làm việc, hoạt động và gánh nặng
hành chính cho lao động của đội ngũ nhà giáo, sao cho các giáo viên và cán bộ quản lý có thời gian được tự học, tự bồi dưỡng hay
đầu tư cho chuyên môn. Nhà trường phải là một môi trường dạy học chuyên nghiệp. Ðổi mới quản lý nhà trường theo hướng các
nhà trường và các giáo viên được trao quyền tự chủ, chịu trách nhiệm cao hơn và được chủ động, linh hoạt, sáng tạo hơn trong tổ
chức thực hiện chương trình và các hoạt động giáo dục. Trong đó, trọng tâm là đổi mới chất lượng chuyên môn và nghiệp vụ của đội
ngũ nhà giáo. Ðể làm tốt công tác này, cần làm rõ trách nhiệm đổi mới ở hai khâu chi phối trực tiếp đến chất lượng đội ngũ nhà giáo
là khâu đào tạo của các trường sư phạm và khâu bồi dưỡng của các cơ sở giáo dục phổ thông. Trong đó, các trường sư phạm cần đổi
chương trình đào tạo đi trước, đón đầu những đổi mới ở giáo dục phổ thông. Chất lượng đầu vào của các trường sư phạm cần được
nâng cao bằng các cơ chế tuyển sinh riêng, thông qua sơ tuyển hồ sơ để đánh giá các học sinh theo chuẩn đầu vào riêng. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ và các ưu đãi về điều kiện học tập cho các sinh viên. Trong quá trình đào tạo, chỉ giữ lại những sinh viên
phù hợp chương trình học tập hoặc có thể tiến bộ trong nghề sư phạm. Xây dựng các bộ chuẩn đào tạo giáo viên theo định hướng
năng lực. Hết giai đoạn đào tạo ở trường sư phạm nên có thêm giai đoạn đào tạo giáo viên tập sự với mục tiêu hình thành vững chắc
năng lực thực thi hành động nghề nghiệp cho các giáo viên tập sự: dạy học, giáo dục, tư vấn, đánh giá, đổi mới, tổ chức và quản lý.
Khâu bồi dưỡng lực lượng nhà giáo là công việc của các cơ sở quản lý giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Khâu này cần được

quan niệm là hoạt động thường xuyên, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vừa là quyền lợi của nhà giáo theo phương châm học suốt đời
Bên cạnh đó, Bộ GD và ÐT cần phát triển hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo xu thế hội
nhập quốc tế. Hiện nay ở Việt Nam hệ thống kiểm định do Hội đồng kiểm định quốc gia thực hiện cho nên mang tính tập trung hóa
cao. Vì thế, cần thiết phải xây dựng các cơ quan ủy thác thực thi dưới sự chỉ đạo của Hội đồng để tăng tính khách quan, công bằng,
độ tin cậy trong đánh giá và tránh những áp lực không cần thiết cho Hội đồng trong quá trình thực thi hoạt động kiểm định.
Nhà giáo là lực lượng quan trọng làm nên chất lượng giáo dục. Ðể nâng cao chất lượng giáo dục nhất thiết phải nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo, trong đó quan tâm phát triển đội ngũ giáo viên hướng tới sự phát triển bền vững, đáp ứng tốt những yêu cầu
nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2020. Muốn vậy, phải có những đổi mới thật sự trong đào tạo, bồi dưỡng và quản lý
đội ngũ nhà giáo theo định hướng chuẩn năng lực nghề nghiệp và đặc biệt là có những thay đổi, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế
độ, chính sách tuyển dụng và đãi ngộ nhà giáo...


2. Vận dụng triết lý giáo dục: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình trong việc thực hiện
nhiệm vụ của người GVTH.
Con người luôn luôn có nhu cầu học hỏi, mở mang tầm hiểu biết. Chính nhờ việc tích lũy và tìm tòi tri thức mà con người có sự
phát triển vượt bậc như ngày nay. Trong xã hội, những con người có hiểu biết rộng luôn được trọng vọng, những người cầu tiến,
ham học hỏi luôn được mọi người quý trọng, giúp đỡ. Tuy vậy, không phải ai cũng có thể hiểu hết được mục đích cũng như tầm
quan trọng của việc học. Chính vì vậy mà UNESCO – Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn hóa của Liên hiệp quốc đã đưa ra đề
xướng: “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” như một định hướng cho việc học tập của mọi
người.
“Học” là quá trình tiếp thu và tích lũy kiến thức. Chính từ quá trình này, chúng ta mới biết được những điều cần thiết làm hành
trang trong đời. Có học, chúng ta mới có đủ kiến thức để giải quyết những khó khăn và đạt được những thành công trong công việc.
Có tìm tòi về thế giới, chúng ta mới biết về những nền văn hóa mới, mới biết được cách tôn trọng sự khác biệt giữa các quốc gia, từ
đó, chúng ta mới có thể chung sống trong hòa bình, hòa hợp. Và có học, chúng ta mới có thể tạo được chỗ đứng riêng của mình,
khẳng định được bản thân trong xã hội. Đó chính là những tác động to lớn của việc học mà UNESCO muốn gửi gắm trong câu “học
để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Chẳng phải, đây là những điều chúng ta luôn mong muốn, luôn
đặt làm mục tiêu hàng đầu để phấn đấu, nỗ lực hay sao? Thông qua lời đề xướng, UNESCO đã mang đến cho chúng ta một thông
điệp: việc học sẽ mang lại những thay đổi to lớn cho cuộc đời mỗi con người và có thể là cả thế giới.
Kiến thức là một kho tàng bao la vô tận. Tất nhiên là không một ai có thể nắm giữ hết kho tàng ấy, bởi vì nó quá to lớn và luôn
luôn mở rộng không ngừng. Tuy vậy, con người chúng ta luôn có khao khát được chinh phục kho tàng này, dù việc đó chẳng dễ

dàng gì. Và chỉ có việc học mới có thể giúp chúng ta thực hiện ước mơ đó. Chúng ta có thể học từ nhiều nguồn, bằng nhiều cách
khác nhau. Không có một công thức nào, cũng không có giới hạn nào về thời gian và không gian cho việc học cả. Chúng ta có thể
học từ thầy cô, bạn bè, mọi người xung quanh; học từ những kinh nghiệm trong cuộc sống,… rồi lại mang những kiến thức đó áp
dụng vào cuộc sống, “làm giàu” cho bản thân ta cả về vật chất lẫn tinh thần và thậm chí giúp đỡ những người khác. Một đất nước có
nhiều công dân có trình độ, có tri thức sẽ phát triển rất nhanh và nhanh chóng trở thành một nước phát triển, giàu có, thịnh vượng.
Dân tộc ta có truyền thống hiếu học từ ngàn đời nay. Xưa kia, có không ít những vị Trạng nguyên nhà nghèo nhưng vẫn quyết
chí học hành, dùi mài kinh sử, gắng đem công sức, hiểu biết của bản thân ra xây dựng đất nước. Nhiều người trong số họ đã giúp đất
nước ta giữ vững độc lập, chủ quyền. Họ đã khẳng định được mình và được lịch sử vinh danh. Ngày nay, hàng ngàn học sinh trên cả
nước dù gặp khó khăn về vật chất nhưng vẫn cố gắng đi học vì họ biết rằng học tập là con đường duy nhất có thể thay đổi cuộc sống
của họ, giúp họ chứng tỏ được mình trong xã hội. Thậm chí, cả những người đã có địa vị, có được nhiều thành công trong công việc
vẫn phải học. Họ không nhất thiết phải đi học, song họ đã tự ý thức được tầm quan trọng của việc học đối với cuộc sống, với công
việc, với sự nghiệp của mình. Có lần, một tờ báo đăng một bài viết về lớp học tiếng Việt ở Đức, về việc học tiếng Việt, văn hóa Việt
của những người Đức chuẩn bị sang Việt Nam là việc. Không ai yêu cầu họ làm như vậy, nhưng họ biết đó là những điều cần thiết
cho cuộc sống của họ ở một đất nước mới với nền văn hóa khác biệt rất nhiều so với văn hóa Đức.
Học hành có ý nghĩa to lớn như vậy, song không phải ai cũng nắm bắt được mục đích của việc học. Có những bạn học sinh chây
lười, chán nản, bỏ bê học hành; lại có những bạn học hành qua loa, không nghiêm túc với hy vọng vượt qua được những kỳ kiểm tra
mà không chú ý đến việc học thực chất. Như vậy, làm sao các bạn có thể nắm bắt được những kiến thức cần thiết cho mai sau? Liệu
rồi đây, các bạn sẽ đương đầu với những thử thách trong cuộc sống như thế nào nếu không có một nền tảng tri thức vững chắc? Lại
còn những bạn học hành rất chăm chỉ, luôn luôn dành thời gian cho việc học mà quên mất thời gian cho thế giới bên ngoài. Có lẽ
các bạn quên rằng thế giới ấy luôn ẩn chứa những bài học bất ngờ mà sách vở không bao giờ có thể dạy cho các bạn được. Và cũng
chính thế giới ấy mới là nơi các bạn thực hành và trải nghiệm những kiến thức các bạn học được.
Học hành rất quan trọng, song cách học cũng như cách sắp xếp, cân bằng thời gian giữa học và thư giãn cũng rất quan trọng.
Nếu không biết phương pháp học phù hợp thì dù học rất nhiều song ta không tiếp thu được bao nhiêu, còn nếu không cân bằng được
thời gian ta sẽ bị quá tải, từ đó dẫn đến chán nản rồi cuối cùng là lười học. Một trò chơi nhỏ, một bản nhạc hay một bộ phim yêu
thích sẽ giúp ta xua tan căng thẳng, chuẩn bị cho việc tiếp thu những kiến thức mới.
“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là một điều đúng đắn, và lời đề xướng này càng có ý
nghĩa hơn nữa khi con người càng ngày càng phát triển hơn, tiến bộ hơn và chân trời tri thức ngày một rộng hơn. Trong tương lai,
khi toàn thế giới đã chuyển sang nền kinh tế tri thức, kiến thức sẽ là nhân tố chính để có được chỗ đứng trong xã hội. Nếu không
muốn bị bỏ lại phía sau nhân loại thì ta chỉ có một con đường là học mà thôi. Học để có thể tiến ra thế giới, “sánh vai cùng các
cường quốc năm châu” với một thái độ kiêu hãnh chứ không phải tự ti, rụt rè.

-----------------------------------------------



×