Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài thảo luận thứ 5 môn luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.13 KB, 19 trang )

Vấn đề 1: Xác định tổn thất về tinh thần được bồi thường.
Tóm tắt bản án số 08/2017/DS-ST:
Nguyên đơn bà Vũ Thị Nhị yêu cầu anh Vũ Minh Hiếu phải bồi thường thiệt hại cho bà,
số tiền là 80.440.000.Trong trường hợp anh Vũ Minh Hiếu không đủ tài sản để bồi
thường cho bà thì ông Vũ Kim Dư và Bà Nguyễn Thị Huyền phải bồi thường phần còn
thiếu. Gia đình anh Hiếu cho rằng anh không đánh bà Nhi và không đồng tình với đơn
khởi kiện. Phán xét của hội đồng xét xử thấy rằng việc xử buộc anh Vũ Minh Hiếu phải
bồi thường thiệt hại cho bà Nhị số tiền 80.440.000đồng . Trong trường hợp anh Vũ Minh
Hiếu không đủ tài sản để bồi thường cho bà thì ông Vũ Kim Dư và Bà Nguyễn Thị Huyền
phải bồithường phần còn thiếu là đúng pháp luật.
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS2005 về tổn thất tinh thần được
bồi thường?
Trả lời:
Trên thực tế, khi phát sinh thiệt hại không chỉ bao gồm thiệt hại vật chất hiện hữu mà còn
có cả thiệt hại về tinh thần. Các quy định về tổn thất tinh thần được bồi thường là:

Bộ luật dân sự 2005

Bộ luật dân sự 2015

Khoản 2 Điều 609. Thiệt hại về sức khỏe bị Khoản 2 Điều 590. Thiệt hại về sức khỏe bị
xâm phạm:
“2. Người xâm phạm sức khoẻ của người

xâm phạm:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường

khác phải bồi thường thiệt hại theo quy trong trường hợp sức khỏe của người khác
định tại khoản 1 Điều này và một khoản bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần quy định tại khoản 1 Điều này và một
mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh




bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi
thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các
mức tối đa không quá ba mươi tháng lương bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận
tối thiểu do Nhà nước quy định.”

được thì mức tối đa cho một người có sức
khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định.”

Khoản 2 Điều 610. Thiệt hại do tính mạng Khoản 2 Điều 591. Thiệt hại do tính mạng
bị xâm phạm:
“2. Người xâm phạm tính mạng của người

bị xâm phạm:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường

khác phải bồi thường thiệt hại theo quy trong trường hợp tính mạng của người
định tại khoản 1 Điều này và một khoản khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và
cho những người thân thích thuộc hàng một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu tinh thần cho những người thân thích thuộc
không có những người này thì người mà hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt
người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, hại, nếu không có những người này thì
người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp
thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng
bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền
các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về

được thì mức tối đa không quá sáu mươi tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
định.”

người có tính mạng bị xâm phạm không
quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định.”

Khoản 2 Điều 611. Thiệt hại do danh dự, Khoản 2 Điều 592. Thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại:

nhân phẩm, uy tín bị xâm hại:


“2. Người xâm phạm danh dự, nhân

“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường

phẩm, uy tín của người khác phải bồi trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy
thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 tín của người khác bị xâm phạm phải bồi
Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1
tổn thất về tinh thần mà người đó gánh Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp
chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tổn thất về tinh thần mà người đó gánh
tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
thoả thuận được thì mức tối đa không quá tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không
mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
quy định.”

người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm không quá mười lần mức lương

cơ sở do Nhà nước quy định.”

Đối với quy định bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần do thiệt hại về sức khỏe bị xâm
phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm ở BLDS 2005 và BLDS 2015 có một số điểm khác biệt chung rõ ràng về mặt
chủ thể thực hiện việc bồi thường, đặc biệt là về mức bồi thường tối đa tổn thất về mặt
tinh thần cho người bị thiệt hại.
- Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, người bồi thường ở BLDS 2005 là “người xâm phạm” đã
được thay bằng “người chịu trách nhiệm bồi thường”. Sự thay đổi này đã mở rộng các đối
tượng phải bồi thường, bao hàm cả các đối tượng không phải là người xâm hại nhưng lại
là đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực tế. Ví dụ như việc cha mẹ chịu
trách nhiệm bồi thường cho con cái chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự (Điều
606 BLDS 2005, Điều 586 BLDS 2015) hoặc trong trường hợp pháp nhân phải bồi
thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi đang thực hiện nhiệm vụ được pháp
nhân giao (Điều 618 BLDS 2005, Điều 597 BLDS 2015). Đặc biệt, sự thay đổi này còn
bao hàm cả vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tổn thất tinh thần được gây ra khi
chủ thể gây thiệt hại không phải “người xâm phạm” mà là do tài sản, vật nuôi, cây cối,
công trình xây dựng, nguồn nguy hiểm cao độ … thì chủ sở hữu là người phải chịu trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần.


- Thứ hai, so với BLDS 2005 thì ở BLDS 2015, mức phạt bồi thường thiệt hại ở các
trường hợp đều có chiều hướng tăng lên nhằm nâng cao sự mạnh mẽ và tính răn đe của
pháp luật. Cụ thể, ở các trường hợp có quy định bồi thường tổn thất về tinh thần, mức
phạt bồi thường khi các bên không có sự thỏa thuận có sự thay đổi như sau:
+ Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm được nâng
lên từ “mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định” đến
“mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”;
+ Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về tính mạng bị xâm phạm được nâng
lên từ “mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định” đến

“mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương
cơ sở do Nhà nước quy định”;
+ Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
hại được nâng lên từ “mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định” đến “mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không
quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Việc thay đổi căn cứ tính mức bồi thường thiệt hại là “mức lương tối thiểu” ở BLDS 2005
bằng “mức lương cơ sở” ở BLDS 2015 chỉ thay đổi về câu từ nhưng xét về tính chất thì
hai mức trên chỉ là căn cứ dựa vào để tính mức bồi thường thiệt hại cụ thể, mức lương cơ
sở hiện nay được quy định tại Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13 ngày
11/11/2015 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 là 1.210.000đ và được áp dụng từ
ngày 01/05/2016.
Câu 2: Theo pháp luật hiện hành tổn thất về tinh thần khitài sản đã bi xâm phạm có
được bồi thường hay không ?Vì sao?
Trả lời:
Cụ thể Điều 589 BLDS 2015. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
“Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:


1. Tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sảnbị mất, bị giảm sút;
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phụcthiệt hại;
4. Thiệt hại khác do luật quy định.”
Quy định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm chỉ liệt kê thiệt hại vật chất không đề cập tới
tổn thất về tinh thần.
Đối với thiệt hại về tài sản: Tổn thất về tinh thần khônghoàn toàn bị loại trừ khi tài sản bị
xâm phạm.
Bởi trên thực tế có những tài sản có giá trị rất lớn về tinh thần đối với một chủ thể như kỷ
vật của gia đình. Việclàm hư hỏng, mất mát tài sản có thể gây tổn thất về tinh thần cho
chủ sở hữu như mất ăn, mất ngủ, đau buồn….

Thiết nghĩ nếu tổn thất về tinh thần tồn tại thực tế thì nên được bồi thường. Ở nước ngoài,
chẳng hạn như Pháp, bên cạnh việc chấp nhận thiệt hại về vật chất, Tòa án không ít lần
buộc người xâm phạm tài sản phải bồi thường tổn thất về tinh thần khi ai đó làm chết
động vật gần gũi với người như chó, ngựa đua…
Ở Châu Âu, Tòa án Châu Âu về quyền con người đã cho rằng tổn thất về tinh thần có thể
tồn tại khi tài sản bị xâm phạm. Do vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà chúng ta chấp
nhận sự tồn tại tổn thất về tinh thần và cho người bị thiệt hại được quyền bồi thường.
Qua việc pháp luật không quy định việc bồi thường tổn thất về tinh thần là một điều còn
thiếu sót, cần được khắc phục. Hiện theo pháp luật hiện hành thì chưa có quy định.
Câu 3 Đoạn nào của án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về tổn thất tinh
thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?
Trả lời:


Đoạn cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về tổn thất tinh thần của BLDS 2015 trong
bản án số 08 là:
“ Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS2015......”
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án không áp dụng BLDS 2005 mà
áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần.
Trả lời:
Theo nhóm thảo luận thì việc Tòa án không áp dụng BLDS 2005 mà áp dụng luật 2015 vì
khi áp dụng BLDS 2015 thì mức phạt bồi thường thiệt hại ở các trường hợp đều có chiều
hướng tăng lên nhằm nâng cao sự mạnh mẽ và tính răn đe của pháp luật. Cụ thể, ở các
trường hợp có quy định bồi thường tổn thất về tinh thần, mức phạt bồi thường khi các bên
không có sự thỏa thuận có sự thay đổi.
Khi sử dụng BLDS 2015 thì về mặt chủ thể, người bồi thường ở BLDS 2005 là “người
xâm phạm” đã được thay bằng “người chịu trách nhiệm bồi thường”. Việc Tòa án áp dụng
BLDS 2015 mở rộng các đối tượng phải bồi thường, bao hàm cả các đối tượng không
phải là người xâm hại nhưng lại là đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực

tế.

Vấn đề 2: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi
tính mạng bị xâm phạm.
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi
tính mạng bị xâm phạm?
Trả lời:
Về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, Điều 591 BLDS 2015 xác định thiệt hại bao gồm:
“Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này. Chi phí


hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa
vụ cấp dưỡng, thiệt hại khác do luật quy định”.
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm
phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền
khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại
đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng
khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không
quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Có thể thấy, BLDS 2015 đã có quy định mới mang tính tiến bộ hơn và khắc phục được
tồn tại, hạn chế của BLDS năm 2005, đó là: BLDS năm 2015 đã nâng mức bồi thường tối
đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định; mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một
trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Việc nâng mức bồi thường lên là phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội hiện nay.
BLDS 2015 xác định thiệt hại do xâm phạm tính mạng bao gồm cả “thiệt hại do sức khỏe
bị xâm phạm”, do đó sẽ khắc phục, hạn chế được tình trạng thương tâm hiện nay trong
một số vụ án tai nạn giao thông, tài xế cố tình đâm chết nạn nhân để mức bồi thường ít

hơn so với việc xâm phạm sức khỏe của nạn nhân. Theo quy định của BLDS năm 2005,
trên thực tế xảy ra nhiều trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe khi xác định thiệt hại lớn
hơn xác định thiệt hại về tính mạng. Bởi vì, khi gây thiệt hại về sức khỏe người chịu trách
nhiệm bồi thường sẽ phải chịu cả trách nhiệm cứu chữa, hồi phục sức khỏe, chăm sóc, chi
phí bồi thường nuôi sống cho nạn nhân mất khả năng lao động.
Câu 2: Đoạn nào của quyết định số 60 cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi
thường chi phí vé máy bay và thuê ô tô với tư cách là chi phí hợp lý cho việc mai
táng ?


Trả lời:
Đoạn cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay và thuê ô tô
với tư cách là chi phí hợp lý cho việc mai táng là: “Hội đồng xét xử xét thấy, chi phí hợp
lý cho việc mai táng anh Quyên gồm: Chi phí vé máy bay 5.175.000đ, tiền thuê ô tô từ
sân bay tới bệnh viện 500.000, tiền thuê xe ô tô chở thi hài anh Quyên về quê 22.000.000,
tiền bồi dưỡng lái xe 600.000, tiền chi phí trên đường đưa thi hài anh Quyên về quê
2.000.000;… tiền xe chở người bị hại đi mai táng 1.500.000đ…”
Câu 3: Nghị quyết số 03 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồ
thường không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời:
Khoản 4 mục I của nghị quyết số 03/2006 thì không có quy định cụ thể chi phí đi lại dự lễ
tang có được bồi thường hay không, nhóm xin trích một số điều luật ra để phân tích như
sau:
“ 4. Chi phí hợp lý
Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và c
khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp
với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời
điểm chi phí.”
Trích điểm b khoản 1 điều 610 BLDS 2005: “b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng.”
Trích điểm b khoản 1 điều 590 BLDS 2015: “b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng.”

Theo nghị quyết số 03/2006 thì chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: “các khoản
tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa,
thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân
theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn
uống, xây mộ, bốc mộ…”


Như vậy theo nghị quyết này không đề cập đến chi phí dự lễ tang, mà chỉ để cập đến cho
phí được dùng để mai táng tức chi phí cho người đã mất, còn người đi dự lễ tang thì
không có quy định và đây không phải là chi phí phục vụ cho việc mai táng người đã chết
nên theo nhóm thảo luận thi nghị quyết số 03/2006 không quy định chi phí đi lại dự lễ
tang, vì vậy chi phí đi lại dự lễ mai táng không được bồi thường.
Câu 4: Trong vụ việc trên tòa án có cho biết ai bỏ ra chi phí máy bay và thuê ô tô
trên không?
Trả lời:
Nhóm dựa vào đoạn sau trong quyết định “theo tính chất mức độ phạm tội phạm tội…
13.609.000đ.” để đưa ra ý kiến sau đó là Tòa án không cho biết ai bỏ ra chi phí máy bay
và ô tô, mà tòa án đã xác định tổng toàn bộ số tiền các bị cáo phải chi trả rồi tùy theo mức
độ của các bị cáo mà bồi thường hợp lý và đủ số tiền phải bồi thường.
Câu 5: Căn cứ vào thực tiễn xét xử, cách giải quyết trên có thuyết phục không? Vì
sao?
Trả lời:
Căn cứ vào thực tiễn xét xử, cách giải quyết trên thuyết phục. Vì trên thực tế chi phí vé
máy bay và thuê ô tô có thể được xem là chi phí hợp lí cho việc mai táng phù hợp với tập
tục địa phương và cần thiết trong trường hợp này. Theo NQ 03/HĐTP “2. Thiệt hại do
tính mạng bị xâm phạm; 2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền
mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê
xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo
thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây
mộ, bốc mộ...”. Phần in nghiêng là danh sách mở cho thấy Pháp luật dân sự ngầm cho

phép xem xét chi phí máy bay và thuê ô tô có thể được xem là chi phí hợp lí cho việc mai
táng. Nhưng chi phí đó phải hợp lí có căn cứ, phải phục vụ gắn liền việc mai táng và phải
do những người có quan hệ thân thích gần gũi với nạn nhân.


Câu 6: Nếu đó là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để đi dự tang lễ thì có được bồi
thường không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu là chi phí do cháu nạn nhân bỏ ra để đi sự thì theo nhóm thảo luận chi phí này không
được bồi thường, vì theo nghi quyết số 03 của HĐTP như đã nêu ở câu 3 thì chi phí này
không phục vụ cho việc mai táng nên không được bồi thường.
Câu 7: Trong hai vụ việc trên, Toà án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền
cấp đương cho ai? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Trong bản án 26 thì Tòa án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho
Chu Đức P là con chưa thành niên của người bị hại sinh ngày 31/12/1999 và không buộc
người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho cha mẹ người bị hại về già do pháp luật
không quy định. Đoạn cho thấy là “Hiện nay người bị hại Chu Văn D có một người con…
nên không được Hội đồng xét xử xem xét và giải quyết”.
Trong bản án số 60 thì Tòa án đã buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng
cho cháu Phạm Thị Thu Trang sinh ngày 28/12/2002 là con chung chưa thành niên của
anh Quyên với chị Lương và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng
cho cháu Phạm Quỳnh Nga sinh ngày 28/10/2005 là con chung chưa thành niên của anh
Quyên và chị Bảy mà giao cho ông Phạm Văn Y là ông nội cháu Trang theo yêu cầu của
chị Lương. Đoạn cho thấy: “Về trợ cấp nuôi con của người bị hại, đại diện người bị hại…
theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị Lương”.
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của tòa án liên quan đến người
được bồi thường tiền cấp dưỡng?
Trả lời:



Hướng giải quyết trên của tòa án là hợp lý, hợp lý ở chỗ tòa xác định số tiền bồi thường là
một phần hai mức lương tối thiểu và xác định rõ thời điểm kết thúc bồi thường tiền cấp
dưỡng nhưng đó là tại thời điểm vụ án được xét xử. Nhưng về lâu dài thì sẽ xảy ra bất cập
về tiền cấp dưỡng và tòa án cần phải xem xét sau vài năm số tiền cấp dưỡng có còn phù
hợp hay không và đề ra những phương án hợp lý cho việc bồi thường về trợ cấp sau vài
năm tiền cấp dưỡng có thể tăng hay giảm phụ thuộc vào giá trị của đồng tiền.
Câu 9: Trong bản án số 26, tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một
lần hay nhiều lần?
Trả lời:
Trong bản án số 26, tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện nhiều lần được thể
hiện qua đoạn sau “ bị cáo….số tiền 605.000đ/tháng….cho đến khi P đủ 18 tuổi” thì bị có
hằng tháng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, tòa còn quy định thêm, người thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, có nghĩa tòa không bắt buộc phải trả một lần hay nhiều
lần, mà tòa cho các bên tự thỏa thuận với nhau sao cho 2 bên cảm thấy hợp lý nhất.
Câu 10: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của tòa án liên quan đến cách
thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của tòa án không hoàn toàn hợp lý vì nếu giá trị đồng tiền sau vài
năm thay đổi thì tiền cấp dưỡng đó có còn phù hợp hay không. Nếu người có nghĩa vụ cấp
dưỡng chết thì ai là người cấp dưỡng cho nạn nhân, vì vậy tòa án phải quy định rõ là bắt
buộc thanh toán một lần để sau không có tranh chấp gì xảy ra đối với tiền cấp dưỡng,
đồng thời bảo đảm cho nạn nhân nhận đủ số tiền cấp dưỡng.

Vấn đề 3: Thay đổi mức bồi thường đã ấn định
Câu 1: Sự khác nhau cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hai quá lớn so với khả năng kinh tế.


Trả lời:


Thay đổi mức bồi thường Giảm mức bồi thường do
không còn phù hợp với thực thiệt hại quá lớn so với khả

Cơ sơ pháp lí.

Điều kiện phát sinh.

tế

năng kinh tế.

Khoản 3 Điều 589,

Khoản 2 Điều 589,

NQ 03/2006.

NQ 03/2006.

Khi sự thay đổi về tình hình - Người chịu trách nhiệm
kinh tế, xã hội, sự biến động bồi thường thiệt hại không
về giá cả mà mức bồi có lỗi hoặc có lỗi vô ý.
thường đang được thực hiện
không còn phù hợp hoặc do
có sự thay đổi về tình trạng
thương tật, khả năng lao

- Mức bồi thường thiệt hại
quá lớn so với khả năng

kinh tế trước mắt và lâu dài.

động của người bị thiệt hại
cho nên mức bồi thường
thiệt hại không còn phù hợp
với sự thay đổi đó hoặc do
có sự thay đổi về khả năng
kinh tế của người gây thiệt
hại…
Mức bồi thường so với ban Có thể thấp hơn hoặc cao Thấp hơn.
đầu.

hơn.

Câu 2: Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi
thường không còn phù hợp với thực tế.
Trả lời:


Theo khoản 3 Điều 585 BLDS 2015, để thay đổi mức bổi thường không còn phù hợp với
thực tế khi có đủ 2 điều kiện sau:
-

Thứ nhất: Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là khi
có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi
thường đang được thực hiện không còn phù hợp hoặc do có sự thay đổi về tình
trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường
thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng
kinh tế của người gây thiệt hại…


-

Thứ hai: Phải có yêu cầu của bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại.

Câu 3: Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000 của phía bị
thiệt hại có được chấp nhận không? Vì sao ?
Trả lời:
Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000 của phía bị thiệt hại được
chấp nhận. Vì theo quy định tại mục 2.2 chương 1 của NQ 03/2006 có quy định “Mức bồi
thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình
kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không
còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng
lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với
sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại…”.
Trường hợp của anh Nghĩa là do thương tật thay đổi phải thay khớp nên phát sinh thêm
chi phí vì thế mức bồi thường 60.000.000 ban đầu không còn phù hợp với thực tế nên căn
cứ vào khoản 3 Điêu 585 BLDS 2015 anh Nghĩa có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường.

Vấn đề 4: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng
gây thiệt hại)


Tóm tắt bản án:
1/ Bản án số 19:
Chị Trương Thị Tám bán kẹo và xả rác bừa bãi trước nhà anh Ngô Văn Lễ. Vợ chồng anh
Lễ có nhắc nhở nhưng chị Tám không nghe và có lời qua tiếng lại xảy ra giằng co nhưng
sau đó đã dàn xếp xong. Đến 18h cùng ngày anh Hải (em vợ anh Lễ) đến mua thuốc lá tại
nhà Hiền và tại đây có xảy ra xô xát với chị Hiền và chị Tám, làm hỏng một số tài sản
của bà Khánh. Bà Khánh yêu cầu anh Hải bồi thường thiệt hại toàn bộ tài sản bị hư hỏng

cho bà. Chị Hiền buộc anh Hải, chị Hà, anh Lễ bồi thường thiệt hại về sức khỏe. Tòa án
xem xét thấy chị Hà và anh Lễ không tham gia vào vụ xô xát , không có bằng chứng cho
rằng anh Hải là người gây thương tích cùng với đó là 10 ngày sau khi xảy ra vụ xô xát
chị Hiền mới nhập viện điều trị, nên không chấp nhậnc yêu cầu bồi thường của chị. Còn
về thiệt hại của bà Khánh Tòa án buộc anh Hải bồi thường 1/3 số tiền mà bà Khánh yêu
cầu.
2/ Quyết định số 226:
Bà Hộ khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại. Theo đó
Tòa án xác định người trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hội là Nguyễn Huệ Lan. Ông
Trần Thúc Bảo-người đã kêu các con đánh bà Hộ, có mối quan hệ nhân quả dẫn đến thiệt
hại cho Hộ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Câu 1: Trong phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của BLDS,
trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp
nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 587 BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây
ra: “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại”.


Nhiều chủ thể được xem là cùng gây thiệt hại khi họ có sự thống nhất về ý chí, hành vi,
hậu quả trong việc gây thiệt hại. Quy định tại Điều 587 BLDS 2015 không nên được hiểu
là nhiều chủ thể phải cùng đồng thời thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người khác, mà
theo đó, thiệt hại xảy ra là hậu quả do hành vi của nhiều chủ thể, các hành vi có thể không
được thực hiện đồng thời mà thực hiện kế tiếp nhau xét theo thời gian, nhưng giữa chúng
có mối quan hệ nhân quả với nhau: hành vi của người sau là hậu quả tất yếu do hành vi
của người trước, và vì vậy họ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm liên đới bồi thường trong các trường hợp khác: Pháp luật quy định minh thị
các chủ thể cụ thể trong một số trường hợp đặc biệt phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại mà không cần yếu tố cùng gây thiệt hại. Ví dụ: khoản 4 Điều 601 BLDS

2015 quy định: Khi chỉ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi
trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên
đới bồi thường thiệt hại. Tương tự, theo khoản 2 Điều 603 BLDS 2015 đối với thiệt hại do
súc vật gây ra, “nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại”.
Câu 2: Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định
chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Trả lời:
Bà Khánh bị thiệt hại tài sản trong lúc anh Hải, chị Tám, chị Hiền giằng co, xô xát với
nhau. Trong trường hợp này không xác định được chính xác ai là người gây ra thiệt hại
cho bà Khánh, chỉ biết bà Khánh bị thiệt hại do xô xát của ba người kia nên cả ba người
phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Khánh.
Câu 3: Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền
và anh Hải liên đới bồi thường?
Trả lời:


Tại trang 206 trong Bản án số 19 có đoạn cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị
Hiền và anh Hải liên đới bồi thường là: “Về phần thiệt hại tài sản, bà Khánh trước đây
yêu cầu ..... Do vậy, cần buộc những người này phải có liên đới bồi thường cho bà Khánh,
tuy nhiên bà Khánh chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải, do đó Tòa án chỉ xem xét phần
trách nhiệm của anh Hải, buộc anh Hải phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Khánh
bằng 1/3 số tiền bà yêu cầu là 267.000đ (hai trăm sáu mươi bảy ngàn đồng).
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách nhiệm
liên đới.
Trả lời:
Theo nhóm thảo luận, hướng giải quyết trên của Tòa án là chưa hợp lý khi chỉ yêu cầu
anh Hải bồi thường cho bà Khánh 1/3 số tiền mà bà yêu cầu.
Trong trường hợp trên có thể thấy rằng thiệt hại gây ra cho bà Khánh là do xô xát giữa chị
Tám, chị Hiền và anh Hải. Xác định đây là trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng do nhiều người cùng gây ra nên áp dụng Điều 587 BLDS 2015, theo đó “Trường
hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người
bị thiệt hại.” Như vậy cả ba người đều phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Khánh.
Tuy nhiên, bà Khánh chỉ yêu cầu một mình ông Hải bồi thường thiệt hại nên căn cứ vào
khoản 1 Điều 288 BLDS 2015 “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải
thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ
phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”, ông Hải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại
cho bà Khánh chứ không phải 1/3 như Tòa án giải quyết.
Câu 5: Trong Quyết định 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trả lời:
Trong quyết định số 226, bà Nguyễn Huệ Lan là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ.


Đoạn trong Quyết định cho thấy: “Hành vi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ là bà
Nguyễn Huệ Lan...”
Câu 6: Trong Quyết định 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ?
Trả lời:
Trong Quyết định 226, ông Trần Thúc Bảo là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho
bà Hộ. Trong Quyết định có đoạn cho thấy: “...song cũng cần phải xem xét trách nhiệm
dân sự của người khởi xướng trong vụ án cố ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo,
người đã kêu các con đánh bà Hộ, việc bà Hộ bị thương dẫn đến hỏng mắt có quan hệ
nhân quả của ông Bảo. Do đó cần buộc ông Bảo phải chịu trách nhiệm dân sự cùng với
Nguyễn Huệ Lan”.
Câu 7: Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu
tóm tắt tiền lệ đó.
Trả lời:
Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã từng có tiền lệ.
Theo Quyết định số 114/2006/DS-GĐT ngày 26-05-2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân

tối cao: “Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận ông An là người có
chủ mưu, khởi xướng, rủ rê con cháu cùng gây thương tích cho Hiền. Tại đơn khởi kiện,
anh Hiền yêu cầu ông An phải bồi thường thiệt hại, do đó theo quy định của Bộ luật Dân
sự thì ông An là người có lỗi cố ý cùng gây thiệt hại nên phải có nghĩa vụ liên đới bồi
thường cho anh Hiền. Anh Hiền có thể khởi kiện yêu cầu một trong những người cùng
gây thiệt hại bồi thường. Cùng tham gia gây thiệt hại cho anh Hiền còn có anh Bằng (con
trai ông An), sau khi gây thiệt hại cho anh Hiền thì anh Bằng đã chết do tai nạn giao thông
nên anh Hiền chỉ khởi kiện ông An bồi thường. Vì vậy, căn cứ vào đơn khởi kiện, Tòa án
cấp sơ thẩm xác định ông An là bị đơn dân sự”.


Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm liên đới.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa án là phù hợp. Trong tình huống trên mặc dù bà Nguyễn
Huệ Lan là người trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ, tuy nhiên cũng cần chú ý đến
người khởi xướng trong vụ án này là ông Trần Thúc Bảo. Ông Bảo đã có hành vi kêu các
con đánh bà Hộ và gây thương tích cho bà Hộ. Do đó, ông Bảo đã gián tiếp và có lỗi
trong việc gây ra thương tích cho bà Hộ. Việc Tòa giám đốc thẩm xác định ông Bảo chịu
trách nhiệm liên đới bồi thường với bà Lan cho bà Hộ là thỏa đáng.
Ngoài ra, theo Điều 587 BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra
“Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường
cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được
xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người...”. Nên ở đây, Tòa án đã xét theo tính
chất mức độ người phạm tội của từng bị cáo cũng là mức độ lỗi đối với người bị thiệt hại
để xác định số tiền phải bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lý, không làm ảnh hưởng
tới quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Câu 9: Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?
Trả lời:

Trong bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường 324.000 đồng, nhưng sau đó lại yêu
cầu 800.000 đồng và yêu cầu anh Hải bồi thường.
Câu 10: Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Trả lời:
Trong Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường 267.000 đồng.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải.


Trả lời:
- Thứ nhất, như đã trình bày ở trên thì Tòa án quyết định để anh Hải chỉ bồi thường 1/3 số
tiền thiệt hại của bà Khánh là chưa thỏa đáng, vì tuy trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp này là do cả ba cùng liên đới chịu trách nhiệm nhưng bà Khánh chỉ yêu
cầu một mình ông Hải bồi thường thiệt hại nên căn cứ vào khoản 1 Điều 288 BLDS 2015
“Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có
thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ”, ông Hải
có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Khánh chứ không phải 1/3 như Tòa án
giải quyết.
- Thứ hai, việc Tòa án bác bỏ toàn bộ yêu cầu của chị Trương Thị Thu Hiền về việc khởi
kiện đòi anh Hải bồi thường do sức khỏa bị xâm phạm là hợp lý. Đối với vụ việc của chị
Thu Hiền thì lời khai của các nhân chứng là khác nhau và bà Khánh (người được chị Hiền
ủy quyền) không xuất trình được các tài liệu chứng minh được chính anh Hải là người gây
ra thương tích cho chị Hiền và thời điểm chị Hiền nhập viện là 10 ngày sau khi xảy ra xô
xát nên không có cơ sở buộc anh Hải phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về phần
thương tích hiện có của chị Hiền.



×