Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÀI THẢO LUẬN 2 Dân sự 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.59 KB, 16 trang )

BÀI THẢO LUẬN 2: GIAO

DỊCH DÂN SỰ

 Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức:
Câu 1: Những điểm mới của BLDS năm 2015 (so với BLDS năm 2015) về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và suy nghĩ của anh/chị về những điểm
mới này.
Trả lời:
- Về điều kiện liên quan đến chủ thể (điều kiện chủ quan):
+ BLDS năm 2005: Căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 122 “ Người tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự” chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân
sự, tức là chủ thể tham gia là cá nhân.
+ BLDS năm 2015 có điểm tiến bộ hơn, căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều
117, BLDS 2015 “Chủ thể có năng lực hành vi dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập” tức là chủ thể tham gia có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân.
 Sự thay đổi đã mở rộng hơn về chủ thể tham gia các giao dịch dân sự không
chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân, đã phù hợp với thực tiễn đời sống, vì
trong thực tiễn đối với một số loại giao dịch dân sự có pháp nhân là chủ thể
tham gia nhưng BLDS 2005 không điều chỉnh được và BLDS 2015 đã khắc
phục được điều này.
Cả hai BLDS đều ghi nhận : Pháp luật quy định người không có năng lực hành
vi dân sự thì không được xác lập.
- Về điều kiện liên quan đến giao dịch (điều kiện khách quan):
+ Điều kiện về nội dung: giao dịch phải có nội dung, mục đích không vi phạm
điều cấm, không trái với đạo đức xã hội. Quy định về đạo đức xã hội không có sự khác
biệt về BLDS 2005 và BLDS 2015. Quy định về điều cấm có sự khác biệt giữa BLDS
2005 và BLDS 2015. Điều 128, BLDS 2005 quy định điều cấm là điều cấm của pháp
luật, là những quy định của pháp luật, tức là những quy định đó có thể tồn tại trong
văn bản luật hoặc văn bản dưới luật. Điều 123, BLDS 2015 quy định điều cấm là điều


cấm của luật, là những quy định của luật, tức là những quy định đó chỉ được tồn tại
trong luật, do Quốc hội ban hành.
+ Điều kiện về hình thức bắt buộc giao dịch dân sự có sự khác nhau:
 Điều 124, BLDS 2005 bắt buộc trong trường hợp pháp luật có quy định theo quy
định của Khoản 2, Điều 124, BLDS 2005: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao
1


dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực,
phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.”.
 Điều 119, BLDS 2015, bắt buộc trong trường hợp luật có quy định theo quy định
của Khoản 2, Điều 119, BLDS 2015: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo
quy định đó.”.
 Như vậy, BLDS 2015 đã bỏ đi hình thức xin phép.
Sự giới hạn về chủ thể quy định điều kiện về hình thức đã thay đổi từ pháp luật
sang luật đã thu hẹp lại phạm vi quy định, tránh sự tuỳ tiện về quy định của các văn
bản dưới luật.
Câu 2: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức
và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Trả lời: Năm 2007, ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được, từ
cuối năm 2008 hàng tháng gia đình phải lo tiền thuốc men cho ông.
Nhưng đến ngày 07/5/2010, ông Hội mới bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi
dân sự.
Câu 3: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương ) được xác lập trước hay
sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
Trả lời: Ngày 08/02/2010 ông Hội và bà Hương lập hợp đồng chuyển nhượng
cho ông Hùng và vợ là bà Trinh quyền sử dụng đất cấp cho ông Hội. Tòa án tuyên ông
Hội mất năng lực hành vi dân sự kể từ ngày 07/5/2010.
 Vì vậy giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông

Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự.

Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô
hiệu hay không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Trả lời: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội không bị vô hiệu, vì
thời điểm bà Hương kí hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất cho ông Hùng, bà Trinh
thì ông Hội chưa chết nên bà Đặng Thị Kim Ánh không có quyền khởi kiện yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông Hội, bà Hương với ông Hùng, bà
Trinh theo quy định tại Điều 192 bộ Luật Tố tụng Dân sự.
“Điều 192. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

2


1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không
được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi
kiện không có quyền khởi kiện;
d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn
hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;
đ) Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án;
e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
g) Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ,
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
h) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

2. Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ
lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án
thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 của Bộ luật này.”
Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội
không và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà
anh/chị biết?
Trả lời: Bản án số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006 của Tòa án nhân dân huyện Văn
Chấn tỉnh Yên Bái có tình tiết tương tự hoàn cảnh của ông Hội. Hướng giải quyết của
Tòa án: Tuyên bố GDDS vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định tại Điều 133 BLDS
2005 (giao dịch vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của
mình). Ngày 20/01/2004, ông Cường và bà Bình (vợ ông Cường) ký giấy chuyển
nhượng cho anh Thăng (con riêng của bà Bình) một bất động sản (BĐS). Đến ngày
10/08/2005, anh Hưng là con trai ông Cường và bà Chế (đã ly hôn năm 1979) mới
đăng ký việc giám hộ cho ông Cường tại UBND xã. Tại Biên bản giám định pháp y
tâm thần số 147/GĐPY ngày 15/12/2005 có kết luận: ông Cường bị mắc bệnh “Loạn
thần do sữ dụng rượu”. Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 1/1/2004 với biểu hiện của
chứng bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều
khiển hành vi của mình. Từ đó, Tòa án xác định: “Ông Cường được coi là mất hoàn
toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày
3


01/01/2004.” Như vậy, hợp đồng được xác lập ngày 20/01/2004 nhưng sau ngày này
ông mới được Tòa án xác nhận mất năng lực hành vi dân sự. Thêm vào đó, BĐS này
được coi là tài sản riêng của ông Cường nên việc bà Bình tự ý định đoạt BĐS này là
trái với qui định của pháp luật về quyền sở hữu. Vì vậy, hợp đồng giao dịch giữa ông
Cường, bà Bình và anh Thăng là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ do vi phạm Điều
133 BLDS 2005. Cuối cùng, Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn đã ra quyết định hủy
bỏ hợp đồng giao dịch đã xác lập giữa các bên; yêu cầu anh Hưng (người đại diện cho
ông Cường) và bà Bình phải cùng chịu trách nhiệm hoàn trả lại toàn bộ số tiền từ anh

Thăng và chi phí khi anh Thăng đầu tư xây dựng công trình trên đất.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối
cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở
pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.
Trả lời: Theo nhóm thảo luận thì hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là
hợp lý khi đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân
dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét sở thẩm lại bởi việc xác lập giao dịch diễn ra
lúc ông Hội còn nhận thức được hay không thì chưa xác định rõ ràng, còn nhiều ý kiến
trái chiều. Nếu ông Hội đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại Điều 127 BLDS
2015 “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép
thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân
thích của mình.” thì giao dịch sẽ có hiệu lực. Nếu xác minh được lúc xác lập giao dịch
ông đã không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì theo Điều 128 BLDS
2015 “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu” thì hợp đồng trên là vô hiệu.
Câu 7: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao
dịch đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Trả lời: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì không bị vô hiệu
ngay cả trong trường hợp ông bị mất năng lực hành vi dân sự, bởi vì việc xác lập giao
dịch không làm hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của ông mà chỉ làm phát sinh thêm
quyền và lợi ích cho ông căn cứ vào Khoản 2 Điều 125 BLDS 2015.

4



 Một trong những điều khoản mới mang tính nhân văn sâu sắc của BLDS 2015
vì góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng cho những người yếu thế hơn trong xã
hội.

 Giao dịch xác lập do có nhầm lẫn:
Câu 1: So với BLDS 2005, BLDS 2015 có gì khác về giao dịch vô hiệu do
nhầm lẫn? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
Trả lời:
-

BLDS 2005, căn cứ vào Điều 131

“Điều 131. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự
mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung
của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.”
-

BLDS 2015, căn cứ Điều 126

“Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc
các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.

2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục
đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục
ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt
được.”
 Vậy điểm khác nhau về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn giữa hai bộ luật gồm:
1. Về nguyên nhân gây ra nhầm lẫn:
-

Theo Điều 131, BLDS 2005 nêu lên giao dịch dân sự nhầm lẫn do lỗi vô ý
hoặc cố ý của một bên xác lập giao dịch thì dẫn tới giao dịch đó vô hiệu.
5


-

Theo Khoản 1, Điều 126, BLDS 2015 bổ sung thêm có những giao dịch
nhầm lẫn không xuất phát từ một phía mà bởi vì cả hai bên nhầm lẫn trong
khi xác lập giao dịch nên dẫn tới giao dịch đó vô hiệu
 Có thể thấy BLDS 2005 hạn chế về quy định nguyên nhân gây ra nhầm
lẫn là do lỗi cố ý hoặc vô ý của một bên tham gia giao dịch; đến BLDS 2015
đã mở rộng hơn về quy định này, không áp đặp cho một bên nào mà chỉ quy
định là nếu có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được
mục đích thì tuyên bố vô hiệu. Sự thay đổi này là hợp lý đảm bảo được lợi
ích của các bên tham gia giao dịch, bởi thực tiễn đã cho thấy sự nhầm lẫn
không đến từ một bên mà có thể đến từ các bên.
2. Về đối tượng của nhầm lẫn:

-

Theo Điều 131, BLDS 2005 chỉ nêu giao dịch nhầm lẫn về mặt nội dung

dẫn tới sự vô hiệu giao dịch.

-

Theo Điều 126, BLDS 2015 nhầm lẫn có thể là nhầm lẫn nội dung hoặc
nhầm lẫn chủ thể.
 Sự thay đổi trên nhằm tạo ra rào cản pháp lý để bao quát các trường hợp
có thể xẩy ra vì trên thực tế đối tượng nhầm lẫn không chỉ về nội dung mà
còn về chủ thể.
VD: Ông A và bà B cùng hợp tác mở một thẩm mỹ viện, bà B nghĩ ông A là
một người có chuyên môn về phẫu thuật thẩm mỹ. Nhưng trên thực tế ông A
không biết gì về phẫu thuật thẩm mỹ, suy ra bà B có sự nhầm lẫn về chủ thể.
3. Về khả năng thay đổi nhầm lẫn:

-

Theo Điều 131, BLDS 2005 cho rằng giao dịch dân sự vô hiệu do khi một
bên giao dịch làm cho bên kia nhầm lẫn, khi bên bị nhầm lẫn yêu cầu bên
kia thay đổi nhưng bên kia không chấp nhận thì giao dịch sẽ bị vô hiệu.

-

Theo Khoản 2, Điều 126, BLDS 2015 lại khẳng định thêm có những giao
dịch yêu cầu thay đổi nhưng không được chấp nhận còn có những giao dịch
bên kia chấp nhận nhưng không thể thay đổi được dẫn đến thay đổi giao
dịch.
 BLDS 2015 tập trung vào mục đích của giao dịch nếu đạt được mục đích
thì không vô hiệu, cho dù có nhầm lẫn. do đó đã khắc phục nhược điểm
bằng việc bổ sung thêm quy định “Có thể khắc phục ngay được sự nhầm
lẫn” để đảm bảm quyền lợi chính đáng của các bên.


Câu 2: Đoạn nào của bản án trên cho thấy Tòa án đã tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do nhầm lẫn?
6


Trả lời: [4] “Với những chứng cứ nêu trên thì cũng chưa đủ căn cứ xác định bà Anh
lừa dối bà Mai về việc “biết thông tin về đường nhựa rộng 18m trước nhà là của quân
đội, quân đội sẽ xây tường chắn ngang vào đầu năm 2016” nhưng không thông báo
cho bà Mai biết. Mặt khác, bà Mai cũng không yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hợp
đồng bị hủy; do đó, hai bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận mà không phải bồi
thường thiệt hại (do có lỗi) như quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2005.”
Câu 3: Theo anh/chị nhầm lẫn là gì, trong vụ việc trên có nhầm lẫn không?
Vì sao?
Trả lời:
-

Khái niệm nhầm lẫn trong BLDS 2015 không được định nghĩa. Về mặt lý
luận, “nhầm lẫn” là tình trạng chủ thể có nhận thức của mình về một vấn đề
khác với thực tế của vấn đề đó.

-

Trong vụ việc trên có xẩy ra nhầm lẫn. Vì sơ đồ bản vẽ thửa đất do cơ quan
có quyền lập ghi không rõ ràng, gây nhầm lẫn cho người sử dụng đất và cho
người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bà Mai không biết thông tin
về đường nhựa 18m trước nhà là của quân đội, quân đội sẽ xây tường chắn
ngang vào năm 2016; do đó có căn cứ xác định bà Mai bị nhầm lẫn về vị thế
của nhà đất khi thực hiện giao dịch.


Câu 4: Giả sử có nhầm lẫn, việc Tòa án tuyên hợp đồng do nhầm lẫn có
thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời: Việc Tòa án tuyên hợp đồng do nhầm lẫn là thuyết phục.
Vì: Nhầm lẫn giá trị thực tế của mảnh đất ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà
Mai (vị thế và giá trị của nhà đất có mặt tiền đường nhựa rộng 18m và vị thế, giá trị
thật của nhà đất chỉ có lối đi rộng 2m là hoàn toàn khác nhau, chênh lệch rất lớn về giá
trị); về phía bà Anh thì vô tình được hưởng lợi từ sự nhầm lẫn đó.

 Giao dịch xác lập do có lừa dối:
Câu 1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối
theo BLDS 2005 và BLDS 2015.
Trả lời:
- Điều 123 BLDS 2005 quy định: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”

7


- Điều 127 BLDS 2015 cũng quy định tương tự: “Lừa dối trong giao dịch dân sự là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập
giao dịch đó.”
 “Lừa dối” là một hành vi. Hành vi ấy có thể là hành vi hành động cũng có thể
là hành vi không hành động. Tác động của hành vi đến nhận thức của một bên
là một bên thấy hiểu sai hợp đồng. Vậy điều kiện vô hiệu là: Tác động ấy phải
làm một bên hiểu sai (hiểu sai nên mới xác lập). Nếu hiểu đúng mà vẫn xác
lập thì không vô hiệu giao dịch.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng

đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?
Trả lời: Đoạn cho thấy thoả thuận hoán nhượng đã tuyên bố vô hiệu do lừa dối:
“Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vinh – họ
hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà, đất
mà các bên thoả thuận hoán đổi đã có Quyết định thu hồi, giải toả, đền bù (căn nhà đã
có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường
giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để mua tái định cư theo
Quyết định 135/QĐ-UB ngày 21-11-2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thoả
thuận hoán nhượng” không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà
Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp do bà Phố (mẹ của anh Vinh).
Do vậy, giao dịch “Thoả thuận hoá nhượng” giữa anh Vinh và bà Phố vô hiệu nên phải
áp dụng Điều 132-BLDS để giải quyết”.
Câu 3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
điều lệ anh/chị biết.
Trả lời: Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ.
Vì theo nguyên tắc áp dụng án lệ là khi áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc
tương tự, tên của án lệ, tính chất, tình tiết tương tự được nêu trong án lệ và tính chất,
tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý được án lệ giải quyết, phải được
viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án. Trường hợp Thẩm
phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do. Và trong Bản án vừa rồi
không có bất cứ một tình tiết nào được viện dẫn mà chỉ căn cứ vào luật để giải quyết.
Câu 4: Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì
sao?
Trả lời: Hướng giải quyết trên là phù hợp với BLDS 2015.
8


Bởi vì theo Điều 127, BLDS 2015 có quy định:
“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân
thích của mình.”
Và theo Điểm b, Khoản 1, Điều 132, BLDS 2015 có quy định:
“b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị
nhầm lẫn, do bị lừa dối;”
Như vậy, ta thấy anh Vinh đã giấu bà Thu và ông Đô quyết định cưỡng chế nhà và
không cho vợ chồng ông bà biết nhà và đất nêu trên bị giải tỏa khi kí “Thỏa thuận
hoán nhượng” ngày 20/5/2004, nên ông bà đã kí. Vâỵ hợp đồng này là vô hiệu.
Do đó quyết định hủy bỏ bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày
29/7/2008 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số
15/2008/DS-ST ngày 10-14/01/2008 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ
Chí Minh về vụ án “Tranh chấp mua bán nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Danh
Đô, bà Phạm Thị Thu với bị đơn là bà Trần thị Phố, anh Nguyễn thế Vinh là hợp lí.
Câu 5: Trong Quyết định 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
Trả lời: Theo quyết định số 210, theo Tòa án, ông Tài được quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối nếu ông Tài không biết việc ông Dương giả
mạo chữ kí của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
Căn cứ vào Điều 132 BLDS 2005: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa
dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô
hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm
cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao
dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.


9


Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên
kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.”
 Trong trường hợp này ông Tài chính là một bên tham gia giao dịch bị lừa dối
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu còn bà Nhất thì không. Bà
Nhất chỉ có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch đó vô hiệu do vi phạm
điều cấm của pháp luật, vi phạm Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình về
“chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” bị vô hiệu theo Điểm b, Khoản
1, Điều 122: “b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;” và điều 127 BLDS 2005 “Giao
dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của
Bộ luật này thì vô hiệu.”

Câu 6: Trong quyết định số 210, theo Tòa án , thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Trả lời: Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối là không còn. Bởi vì theo Khoản 1, Điều 136, BLDS 2005 quy
định: “1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định
tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao
dịch dân sự được xác lập.”
 Trong tình huống trên thời điểm xác lập giao dịch dân sự giữa ông Tài và ông
Dưỡng là 2003 tới thời điểm 2010 thì đã là 7 năm cho nên thời hiệu khởi kiện
không còn (nó đã kết thúc năm 2005).
Câu 7: Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Trả lời: Trong trường hợp hết thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do

lừa dối, Tòa án sẽ công nhận hợp đồng.
Vì theo Khoản 1, Điều 137 BLDS 2005 “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.”
Theo đó thì khi đã hết thời hiệu khởi kiện thì giao dịch dân sự sẽ không còn tranh chấp
về hiệu lực nữa và quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên kể từ thời điểm xác lập
không chấm dứt có nghĩa là hợp đồng đã kí kết trong thời hạn này vẫn được Tòa án
công nhận.
Câu 8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
10


Trả lời:
- Câu trả lời cho các câu hỏi trên có sự khác biệt nếu áp dụng các quy định tương ứng
của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210.
- Vì theo Điểm b, Khoản 1, Điều 132, BLDS 2015 quy định thời hiệu yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu là 2 năm kể từ khi người bị lừa dối biết hoặc phải biết giao
dịch được xác lập do bị lừa dối. Vào lúc giao dịch thì ông Tài không biết ông Dưỡng
giả chữ kí nên từ khi ông Tài biết ông Dưỡng giả mạo chữ ký cho đến lúc khởi kiện
chưa quá 2 năm nên ông tài vẫn đủ điều kiện để khởi kiện.
Câu 9: Quay lại vụ việc trong phần nhầm lẫn, vì sao Tòa án tuyên hợp
đồng vô hiệu do nhầm lẫn mà không tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối?
Trả lời: Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong vụ việc trước là nhầm lẫn mà không
tuyên vô hiệu do lừa dối.
Vì: Trước tiên căn cứ vào quy định của pháp luật Điều 127 BLDS 2015 có quy định
“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân
thích của mình.”
Nhưng trong tình huống trên thì vì sơ đồ bản vẽ thửa đất do cơ quan có
quyền lập ghi không rõ ràng, gây nhầm lẫn cho người sử dụng và người mua. Cùng
với đó bà Mai không hề lừa dối bà Anh bởi thực thế bà cũng không hề biết thông tin về
đường nhựa 18m trước cửa nhà. Do đó không có căn cứ cho ràng bà Mai lừa dối bà
Anh nên không thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối.
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng tuyên nêu trên của Tòa án.
Trả lời:

 Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
Câu 1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa
các bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
11


Trả lời: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, Điều 131, BLDS 2015
 Nếu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt thì coi như không có giao dịch.
Câu 2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công
ty Phú Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
Trả lời: Trên cơ sở Bộ luật dân sự, Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho công ty
Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực
hiện khi hợp đồng dịch vụ được xác định vô hiệu.
Cơ sở pháp lý : Khoản 2, Điều 131, BLDS 2015 “2. Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận.”

Ngoài ra, hợp đồng dịch vụ cũng quy định tại Khoản 2, Điều 4: “Khách hàng
hoàn thành việc kiểm tra trong 10 ngày kể từ ngày bàn giao thì việc kiếm ra coi như là
đã thông qua.”
Thực tế thì ngày 20/9/2017, Công ty Orange đã hoàn tất và bàn giao cho công
ty Phú Mỹ CD và bộ bản vẽ chi tiết của Dự án theo đúng khối lượng và tiến độ công
việc đã cam kết trong hợp đồng. Theo quy định tại hợp đồng thì công ty Phú Mỹ có
nghĩa vụ kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra sản phẩm do công ty Orange thực hiện
trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận bàn giao, tuy nhiên Công ty Orange đã không
nhận được bất cứ phản hồi nào từ công ty Phú Mỹ liên quan đến CD và bộ bản vẽ chi
tiết của Dự án do Công ty Orange thực hiện. Như vậy, Công ty Phú Mỹ đã chấp nhận
sản phẩm của công ty Orange mà không có kiếu nại gì. Công ty Orange đã hoàn thành
công việc theo hợp đồng và Công ty Phú Mỹ cũng đã sử dụng toàn bộ bản vẽ chi tiết
của dự án do công ty Orange thực hiện để xin Giấy phép xây dựng và tiến hành xây
dựng trên cơ sở thực tế.
Câu 3: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Trả lời: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về khối lượng công việc mà công
ty Orange đã thực hiện là: Nếu xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì công ty Phú Mỹ
phải thanh toán cho công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng việc mà
công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ
là hợp pháp thì công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho công ty Orange phần giá trị tương
ứng với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp
đồng cùng tiền lãi suất do thanh toán chậm trễ theo quy định của pháp luật.

12


Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán liên quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác
định hợp đồng vô hiệu.

Trả lời: Theo nhóm thảo luận hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan
đến khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện là chưa thỏa đáng, còn
nhiều vướng mắc không rõ ràng ở việc Hội đồng thẩm phán không giải thích vì sao
trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, bên thuê làm dịch vụ (công ty Phú Mỹ) chậm trả
thanh toán tiền tương ứng với khối lượng công việc mà bên làm dịch vụ (công ty
Orange) đã thực hiện thì không phải là tiền lãi suất do chậm thanh toán. Theo điều 305
BLDS 2005.
 Như vậy thì sẽ không công bằng đối với bên công ty Orange, làm cho công ty
này bị thiệt hại, còn bên công ty Phú Mỹ sẽ được hưởng lợi mà không có căn
cứ pháp luật.
Câu 5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ
không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ
vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
Trả lời: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà công
ty Orange đã thực hiện khi tuyên bố hợp đồng không vô hiệu là buộc công ty Phú Mỹ
phải thanh toán cho Công ty Orange phần khối lượng công việc mà công ty Orange đã
thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất đã chậm thanh toán theo quy
định của pháp luật.
Nội dung xử lí khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu ở khoản
thanh toán tiền lãi suất đã chậm thanh toán. Đối với công ty Orange phần khối lượng
công việc đã thực hiện cộng với tiền lãi suất còn trường hợp xác định hợp đồng vô
hiệu thì chỉ thanh toán phần khối lượng công việc đã thực hiện mà không thanh toán
tiền lãi suất.
 Theo nhóm thảo luận ở bản án trên thì quyết định của Hội đồng thẩm phán
chưa rõ ràng, chưa thuyết phục.
- Thứ nhất là Hội đồng thẩm phán cho rằng hợp đồng nói trên có thể bị vô
hiệu nhưng không nói rõ vô hiệu vì lý do gì và không nêu được cơ sở pháp
lí.
- Thứ hai: Sự khác nhau về việc thanh toán tiền lãi suất, chưa giải thích cho

các bên rõ tại sao khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên Công ty Phú Mỹ
không phải thanh toán tiền lãi suất cho Công ty Orange. Bởi thực tế nếu làm
vậy thì bên công ty Orange sẽ bị thiệt hại còn bên Công ty Phú Mỹ sẽ được
hưởng lợi mà không có căn cứ pháp lí rõ ràng.
13


Câu 6: Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu?
Trả lời: Quyết định số 75, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô
hiệu vì ngày 27/8/2009 ông Sanh có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện
Yên Lạc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Ngày 18/01/2010 Tòa án nhân dân huyện
Yên Lạc đã có quyết định số 01/TA gia hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức
của hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc cũng không thực hiện. (Không hợp
tác để hoàn thành thủ tục về hình thức).
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên.
Trả lời: Theo quan điểm của nhóm thảo luận việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
xác định hợp đồng vô hiệu trong quyết định trên là phù hợp với quy định của pháp
luật. Từ hồ sơ vụ án thì hai bên ông Sanh và anh Dự, chị Chúc đã có thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất trên cho ông Sanh với giá thỏa thuận
193.000.000đ. Hai bên có lập một giấy chuyển nhượng đất thổ cư và nhận tiền vào
ngày 25/6/2006, được Ủy ban nhân dân xã Trung Kiên xác nhận.
Ngày 27/8/2009 ông Sanh có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc
giải quyết tranh chấp hợp đồng. Ngày 18/10/2010, Tòa án huyện Yên Lạc có quyết
định số 01/TA gia hạn để các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng nhưng
vợ chồng anh Dự, chị Chúc không thực hiện, không hợp tác để hoàn thiện các thủ tục
về hình thức của hợp đồng, đã vi phạm Điều 129, BLDS 2005 “Khi các bên xác lập
giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả
tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó

cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba thì giao dịch đó vô hiệu.” Nên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao tuyên hợp đồng
vô hiệu là hợp lý và chính xác.
Câu 8: Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông
Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Trả lời: Theo Khoản 2, Điều 137, BLDS 2005 “2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường.” Theo quyết định số 75 của Tòa án và điều khoản trên của
pháp luật hiện hành, ông Sanh là người được bồi thường thiệt hại, vợ chồng anh Dư,
chị Chúc sẽ phải chịu bồi thường thiệt hại cho ông Sanh tương đương với phần giá trị
hợp đồng được thanh toán.
14


Căn cứ theo biên bản định giá tài sản thì giá trị diện tích đất chuyển nhượng là
1.000.000.000đ, giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 195.000.000đ, ông Sanh đã
thanh toán được 160.000.000đ, tương đương 82,05% giá trị hợp đồng. Như vậy, vợ
chồng anh Dư, chị Chúc sẽ bồi thường cho ông Sanh số tiền mà ông Sanh đã thanh
toán trước đó, tức 160.000.000đ (Theo quy định tại Khoản 2, Điều 137, BLDS 2005).
Câu 9: Trong bản án 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy
chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với
cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là
hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?
Trả lời: Trong bản án số 113, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu
và ghi cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu, khi giao

dịch hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất “không sổ” giữa
hai bên tặng cho và ông Văn, bà Tằm và bên được tặng là anh Đậu là hợp đồng vô hiệu
nên không có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao dịch, nghĩa là không ràng
buộc về quyền và nghĩa vụ giữa ông Văn, bà Tằm với anh Đậu. Nên giấy chứng nhận
sử dụng đất của anh Đậu bị hủy, ông Văn, bà Tằm được quyền liên hệ cơ quan để cấp
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 Các nguồn trích dẫn:
-

Bộ luật Dân sự 2005;
Bộ luật Dân sự 2015;
Quyết định số 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao;
Bản án số 98/2017/DSPT ngày 16-5-2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương;
Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao;
Quyết định số 210/2013/DS-GĐT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao;
Quyết định số 26/2013/KDTM-GĐT ngày 13-8-2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao;
Quyết định số 75/2012/DS-GĐT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao;
Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội.

15



16



×