kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng ở miền tây
Kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)
_Tôm chân trắng rất được giá tại thị trường Hoa Kỳ và các đặc tính sau đây:
- Người Hoa Kỳ thích loại tôm trắng hơn các loại đen, nâu, xanh ...
- Tôm chân trắng kháng bệnh mạnh hơn các loại tôm khác.
- Tôm chân trắng lớn nhanh hơn cả.
-Tôm chân trắng chịu được sự thay đổi điều kiện mơi trường hơn.
Vì thế hàng loạt đơn đặt hàng của Mỹ về tôm sú giảm nghiêm trọng, nhưng
đơn đặt hàng của thẻ chân trắng lại tăng lên đột ngột làm giá tôm sú giảm và
thị trường tiêu thụ kém.
_Tôm thẻ chân trắng xuất xứ từ Nam Mỹ và được nhập sang VIỆT NAM
vào năm 2002. Nhưng phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ mới phát triển
trong vài năm gần đây trong khi đó Thái Lan và Trung Quốc đã đưa tơm thẻ
chân trắng làm đối tượng ni chính từ rất lâu. Do chúng chỉ mới được biết
đến nên quy trình sản xuất giống, ni thương phẩm hịan chỉnh chưa phổ
biến. Đặc biệt là quy trình ni phù hợp cho từng địa phương và từng vùng
ni cụ thể vẫn cịn trong giai đoạn nghiên cứu. Ngay cả thức ăn riêng dành
cho chúng cũng chưa nhiều trên thị trường. Ở đây cháu xin gửi các chú quy
trình do sự nghiên cứu của các thầy trong trường và các quy trình đang ni
của các tỉnh Miền Trung, Trung Quốc để các chú làm tư liệu tham khảo.
I) Chuẩn bị ao nuôi
Chuẩn bị ao nuôi là khâu rất quan trọng trong kỹ thuật nuôi tôm he, ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng tôm. Mục đích của việc chuẩn bị
ao ni là cho nền đáy sạch, chất lượng nước ban đầu tốt để dể dàng khống
chế mơi trường và kiểm sốt dịch bệnh khi ni sau này.
1)Hình thức ni
Tơm chân trắng hay tơm P.vannamei là loại tơm có cường độ bắt mồi khoẻ,
lớn nhanh thích hợp với các hình thức ni thâm canh như mơ hình ít thay
nước, mơ hình tuần hồn khép kín. Diện tích ao ni từ 0,5 - 1ha, độ sâu của
nước 1,5 - 2m. Ngồi ra tơm cũng có thẻ ni quảng canh, quảng canh cải
tiến,….nhưng hiệu suất kinh tế thấp hơn nuôi công nghiệp, cao sản. Tôm thẻ
chân trắng là lồi rộng muối nên có thẻ ni trong các ao đầm nước mặn, lợ,
và ngay cả nước ngọt theo sự nghiên cứu của Trung Quốc thì ni trong
nước ngọt tơm lớn nhanh hơn và cho năng suất còn cao hơn nước lợ.
2) Cơng trình
Ở đây là cơng trình chuẩn để ni tơm và tất nhiên nó có nhiêu ưu điểm hơn,
nhưng do đầu tư quá lớn nên ở nước ta khơng có nhiều, cháu đưa vào đây để
các chú tham khảo. Khi nuôi trúng vài vụ các chú xây dựng để quản lý cho
khỏe và giảm sức tải của môi trường nước.
a) Ao nuôi
Cơng trình ni tơm P.vannamei có kết cấu tương tự như cơng trình ni
tơm sú. Mơ hình ni phổ biến có năng suất cao là mơ hình ít thay nước.
Diện tích từ 0,5 đến 1 ha. Hình dạng của ao là hình vng, hình trịn hoặc
hình chữ nhật, chiều dài/chiều rộng là 2/1, thuận tiện cho việc tạo dòng chảy
trong ao khi đặt máy quạt nước dồn chất thải vào giữa ao để thu gom và tẩy
dọn ao. Ðáy ao bằng phẳng, có độ dốc khoảng 15oC nghiêng về phía cống
thốt.
b) Ao chứa - lắng
Khu vực ni phải có ao chứa - lắng để trữ nước và xử lý nước trước khi cấp
cho các ao ni. Diện tích ao chứa - lắng thường bằng 25 - 30% diện tích
khu ni, đáy ao chứa - lắng nên cao bằng mặt nước cao nhất của ao ni để
có thể tự cấp nước cho ao ni bằng hình thức tháo cống mà khơng cần phải
bơm. Nước lấy vào ao chứa - lắng là nước biển qua cống hoặc bơm tuỳ theo
mức thuỷ triều của vùng nuôi. Nếu độ mặn quá cao nước biển phải pha đấu
với nước ngọt để hạ độ mặn theo yêu cầu của kỹ thuật nuôi.
c) Ao xử lý thải
Khu vực ni cịn cần phải có ao xử lý nước thải, diện tích bằng 5 - 10%
diện tích khu vực nuôi để xử lý nước ao nuôi sau khi thu hoạch thành nước
sạch khơng cịn mầm bệnh mới được thải ra biển.
d) Mương cấp, mương tiêu
Mương cấp và mương tiêu để cấp cho các ao nuôi và dẫn nước của ao nuôi
ra ao xử lý thải. Mương cấp cao bằng mặt nước cao của ao nuôi và mương
tiêu thấp hơn đáy ao 20 - 30 cmm để thoát hết được nước trong ao khi cần
tháo cạn. Hệ thống mương cấp mương tiêu khoảng 10% diện tích khu vực
ni.
e) Hệ thống bờ ao, đê bao
Ao ni tơm thơng thường phải có độ sâu của nước 1,5m và bờ ao tối thiểu
cao hơn mặt nước 0,5m. Ðộ dốc của bờ phụ thuộc vào chất đất khu vực xây
dựng ao nuôi. Ðất cát dễ xói lở bờ ao nên có độ dốc là 1/1,5, đất sét ít xói lở
hơn, độ dốc của bờ ao có thể là 1/1.
Cần lưu ý là bờ ao không cao, nước nông, sẽ tạo điều kiện cho rong, tảo
dưới đáy ao phát triển làm suy giảm chất lượng nước ao nuôi.
Một số bờ ao trong khu vực nuôi nên đắp rộng hơn các bờ khác để làm
đường vận chuyển nguyên vật liệu cho khu vực nuôi.
Ðê bao quanh khu vực nuôi thường là bờ của kênh mương cấp hoặc tiêu
nước. Hệ số mái tương tự ao nuôi nhưng bề mặt lớn hơn và độ cao của đê
phải cao hơn lúc thuỷ triều cao nhất hoặc nước lũ trong mùa mưa lớn nhất
0,5 - 1m.
f) Cống cấp và cống tháo nước
Mỗi ao phải có một cống cấp và một cống tháo nước riêng biệt. Vật liệu xây
dựng cống là xi măng, khẩu độ cống phụ thuộc vào kích thước ao ni,
thơng thường ao rộng 0,5 - 1 ha, cơng có khẩu độ 0,5 - 1m bảo đảm trong
vịng 4 - 6 tiếng có thể cấp đủ hoặc khi tháo có thể tháo hết nước trong ao.
Cống tháo đặt thấp hơn chỗ thấp nhất của đáy ao 0,2 - 0,3 m để tháo toàn bộ
nước trong ao khi bắt tôm.
g) Bãi thải
Tuỳ quy mô khu vực nuôi và hình thức ni tơm để thiết kế bãi thải nhằm
thu gom rác thải và mùn bã hữu cơ ở đáy ao xử lý thành phân bón hoặc rác
thải di chuyển đi nơi khác để chống ô nhiễm cho khu vực.
3) Cải tạo ao nuôi
a) Cải tạo đáy ao
_ Ðối với ao mới xây dựng xong: cho nước vào ngâm 2 - 3 ngày rồi lại xả
hết nước để tháo rửa. Tháo rửa như vậy 2 đến 3 lần sau đấy dùng vôi bột để
khử chua cả bờ và đáy ao. Lượng vôi tuỳ theo pH của đất đáy ao :
- pH 6 - 7 dùng 300 - 400 kg/ha;
- pH 4,5 - 6 dùng 500 - 1.000 kg/ha.
Rắc vôi xong phơi ao 7 - 10 ngày lấy nước qua lưới lọc sinh vật có mắt lưới
9 - 10 lỗ/cm2. Gây mầu nước để chuẩn bị thả giống.
_ Đối với ao cũ
Sau khi thu hoạch xong thì tháo cạn nước, nếu:
+ Ao có thể tháo cạn nước : Nếu tháo kiệt được thì nạo vét hết lớp bùn nhão
rồi cầy xới đáy ao lên trộn với vôi bột mỗi ha 500 - 1.000 kg phơi khô 10 15 ngày. Làm như vậy để cho chất độc có thể thốt ra, tạo điều kiện cho một
số vi sinh vật có lợi làm việc.
+ Ao không thể tháo cạn nước: ta dùng phương pháp cải tạo ướt, vẫn rút
nước tới mức có thể, bơm bùn, sục đáy để tẩy rửa chất thải. Sau đó bón vơi
với liều lượng từ 1.200 - 1.500 kg/ha cho ao với mực nước 10 cm, với ao có
mực nước sâu 0,5 - 1m lượng vơi nhiều hơn gấp đơi. Đóng cửa cống, khi
thủy triều lên nước bên ngồi cao hơn trong ao thì nước bên ngồi sẽ theo
các mao mạch len lỏi vào ao nó sẽ rửa các chất bẩn sâu. Sau đó mở cống
tháo cạn nước lần nữa, bón vơi lại với lượng vơi nhiều hay ít phụ thuộc vào
chỉ số pH của nước ao. Bón vôi xong yêu cầu chỉ số pH của nước ao phải đạt
8 - 8,3 mới được thả tôm giống để ni. Vì tơm này thích pH cao hơn là tơm
sú nhưng bón vơi q liều lượng làm cho nhiệt độ nước lên cao, pH cao,
NH3 cao, độc tính lớn dẫn đến bệnh tôm phát triển;
+ Dùng vôi sát trùng xong khơng được bón phân urê; phân urê làm tăng
NH4-N trong nước, phá hoại tổ chức mang của tôm, cản trở sự vận chuyển
máu làm tôm bị chết.
Lưu ý :
- Quá trình tháo nước ao cũ phải kết hợp sục bùn làm sạch ao, vét bớt bùn ô
nhiễm ở đáy ao;
-Quá trình tu bổ bờ ao phải bắt diệt hết ếch, rắn, các loại động vật làm hang
sống ở bờ ao, lấp các hang hố quanh bờ ao, và làm sạch cỏ xung quanh bờ
ao;
- Sau khi rắc vôi xong, dùng cào trộn đều khắp đáy ao để diệt hết cá tạp và
sinh vật có hại, cày đảo đáy ao cho ơxy hố lớp bùn đáy; phơi khô 10 - 15
ngày mới cho nước vào ao; khi cho nước cần trộn thêm một ít chế phẩm sinh
học và chế phẩm ơxy hố để khử chất độc và phân giải các hợp chất hữu cơ
trong ao;
- Nếu đáy ao quá chua, hàm lượng sắt quá cao hoặc khả năng thẩm lậu quá
lớn không giữ được nước nên dùng lớp vải nilơng nhân tạo lót đáy ao; nếu
đáy là đáy thịt, đáy bùn cát có thể cho thêm một lớp cát dày 2 - 3 cm trên lớp
vải lót để tơm vùi mình theo tập tính sống của tơm, cịn đáy cát bùn, cát
thích hợp cho sự phát triển của tôm.
b) Diệt tạp
Nước lấy vào ao qua lưới lọc để 2 - 3 ngày cho các loại trứng theo nước vào
ao nở hết rồi
tiến hành diệt bằng saponine với nồng độ 15 - 20 ppm (15-20 g/m3 nước
ao). Hay một số chất diệt tạp khác rất hiệu quả có bán ngồi thị
trường.Saponine có tên thị trường là sapotech được đóng trong bao nilong
bọc giấy, khi dùng đem ra pha nước tạt xuống ao, lượng dùng là 4,5 - 5
g/m2, cho ao có mức nước sâu khoảng 10 cm. Sau 15 - 20 giờ thay nước
hoặc cho thêm nước vào ao mới được thả tôm giống.
c) Khử trùng nguồn nước
Trong nước ao thường có nhiều loại virus, vi khuẩn, nấm, tảo và nguyên
sinh động vật sinh ra các loại bệnh cho tôm như bệnh đầu vàng, bệnh đốm
trắng, bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh đỏ mang, bệnh
hoại tử phụ bộ, v.v... Vì vậy, trước khi thả tơm giống cần phải khử trùng
nguồn nước. Hoá chất dùng để khử trùng nguồn nước phổ biến là chlorine.
Chlorine có hàm lượng Cl 30 - 38%, để lâu sẽ bốc hơi mất tác dụng nên
thường phải xác định lại nồng độ cho chính xác trước khi dùng.
Nồng độ 2 ppm(2g/m3) có tác dụng diệt khuẩn rất tốt. Ao có mức nước sâu
1m, mỗi ha dùng 195 kg hồ lỗng với nước ao phun đều khắp ao. Nếu phun
vào những ngày trời dâm mát, tác dụng diệt khuẩn có thể kéo dài 4 đến 5
ngày. Trước khi thả tôm giống phải mở máy quạt nước cho bay hết khí chlo
cịn lại trong nước. Chú ý, không dùng chlorine ngay sau khi sử dụng vơi
sống vì gặp nước chlorine sản sinh ra HCl, vơi sống sinh ra OH- hai thứ
trung hồ lẫn nhau làm mất tác dụng diệt khuẩn của từng loại.
d) Gây màu nước
Màu nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để :
- Làm tăng lượng ơxy hồ tan trong nước;
- Ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước;
- Làm thức ăn bổ sung cho tôm;
- Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao;
- Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển;
- Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân bằng sinh thái
vùng nước.
Duy trì màu nước: xanh lục, xanh vỏ đậu, nâu vàng .Các màu nước không
tốt cho tôm, và cần xử lý ngay để tránh kết quả không tốt: màu vàng, màu
xám, màu nước trong, màu xanh đậm, màu nước trong vắt.
Ở đây cháu thấy kinh nghiệm của các chú rất phong phú và rất quý báu trong
việc điều chỉnh màu nước ngay cả các anh kỹ sư cũng chưa chắc bằng được
nên cháu không đề cặp đến cách điêù chỉnh màu nước như thế nào. Vì điều
chỉnh màu nước y hệt như tơm sú thơi.
Độ trong thích hợp cho tôm phát triển là từ 35-40 cm đo bằng đĩa sechi .
e) Các chỉ tiêu hóa học trước khi thả giồng
_ Ơxy hồ tan trên 4 mg/l;
- pH 8,0 - 8,5; trong ngày không được thay đổi quá 0,4 - 0,5 , vào những
ngày mưa lớn thì pH thay đổi phải bón vơi .
- Nhiệt độ thích hợp nhất là 20 - 30oC, quá cao không quá 33,5oC, quá thấp
không thấp quá 18oC, ngưỡng nhiệt độ thế này thì trong mình đã đáp
ứng,ni thoải mái.
- Ðộ kiềm trong khoảng 100 đến 250 mg/l;
- NH4, NO3 không được tăng quá đột ngột dể sinh bệnh cho tôm,
- Ðộ mặn 5 - 32 thích hợp nhất là 10 - 25 ;Cũng có thể ni ở nước ngọt hóa
1-2 phần nghìn độ mặn nhưng phải hạ từ từ.
4) Thả tôm giống
Số lượng giống cho mỗi ao phải thả đủ một lần, tốt nhất là tơm cùng một đợt
sản xuất, vì vậy sẽ đảm bảo sự đồng đều và tránh được sự lây lan của mầm
bệnh với nhau. Ao ni có đủ các điều kiện sau đây thì thả tơm:
- Ao đã gây màu nước tốt đủ thức ăn tự nhiên cho tôm;
- Chất lượng nước ao nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn TCVN 5943 - 1995;
Thời gian thả giống là sáng sớm hoặc chiều mát lúc thời tiết tốt, không thả
giống vào giữa trưa hoặc lúc trời mưa to gió lớn, khí hậu thay đổi đột ngột
ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của tơm. Vì sẽ gây sốc cho tơm, do thẻ chân trắng
khơng phải là giống lồi bản địa, với lại post thẻ chân trắng nhỏ hơn nhiều
so với tôm sú, nên giai đoạn cịn nhỏ cần chăm sóc kỹ, với lại khi vận
chuyển đến ao nuôi đã làm tôm mệt cần tránh các tác động không thuận lợi
cho tôm.
II) Quản lý chăm sóc
1) Bảo đảm oxy hòa tan trong nước:
- Bảo đảm lượng ơxy hồ tan trong nước bằng cách sử dụng máy quạt nước;
- Từ ngày bắt đầu thả giống đến ngày thứ 20 chỉ phải quạt nước vào ban
đêm, những ngày trời râm và khi bổ sung nước ngọt mỗi ngày 2 - 4 tiếng(để
tôm nhanh lớn hơn, và dễ lột xác)
- Từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 40, mỗi đêm tăng lên 4 - 6 tiếng;
- Từ ngày thứ 40 trở đi quạt cả ban ngày và ban đêm, thời gian mỗi lần 4 - 6
tiếng, mỗi ngày nên quạt nước từ 12h- 15h vì lượng oxy sinh ra do quang
hợp của tảo là rất lớn không tốt cho sức khỏe tôm, và từ 19h- 6h sáng hôm
sau vì lúc này hàm lượng oxy thấp do tảo khơng quang hợp mà sử dụng
nhiều oxy hô hấp sinh ra cácbonic.
- Nhu cầu máy quạt nước cho ao nuôi :
+ Thường ao có độ sâu 1,5m diện tích 5000 m2 phải dùng 4 - 6 máy;
+ Ao sâu 1,5 m trở lên cần 6 - 8 máy, máy đặt cách bờ 4 - 5m.
- Nếu nước ao bị xấu đi, sinh vật phù du chết nhiều làm màu nước thay đổi
hoặc tơm bị bệnh phải dùng thuốc chữa bệnh thì phải mở máy liên tục cả
ngày trừ những lúc cho tôm ăn.
2) Thay nước, bổ sung nước
Nói chung các ao ni năng suất cao phần lớn thực hiện mơ hình ít thay
nước. Nhưng trường hợp sau đây phải chú ý cần thay nước (tốt nhất là nước
ngọt) :
- Màu nước đột nhiên biến thành trong, hoặc biến đen, biến trắng hay các
màu khác;
- pH dưới 7,5 hoặc trên 9; biến động ngày đêm trên 0,5;
- Sau khi chạy máy quạt nước mặt nước xuất hiện nhiều bọt không tan; vật
lơ lửng ở trong nước nhiều lên; H2S, NH3, COD vượt quá chỉ tiêu cho phép.
- Ðộ trong trên 80cm hoặc quá đục dưới 30cm.
Lượng nước thay mỗi ngày không quá 30%. Trong một giờ không quá 10%
lượng nước cần thay (nếu muốn tăng lượng nước trong một giờ lên thì trước
đó phải tháo một lượng nước trong ao, sau đó vừa thêm nước vừa tháo nước
đến lúc đạt độ cao cần thiết thì thơi). Khi tơm lớn đạt cỡ 8 cm thì thêm nước
ngọt để hạ độ mặn xuống 10 .
V iệc thêm nước ngọt có ý nghĩa rất lớn cho việc phịng bệnh cho tơm vì đa
số các loại vi sinh, ký sinh và một số virus gây bệnh cho tôm sống ở nước
mặn đều bị chết khi gặp nước ngọt.
3) Biện pháp xử lý H2S và NH4
Ở ao nuôi tôm, hàm lượng NH3 không được quá 0,5 mg/l; H2S không được
quá 0,1 mg/l; nếu quá lượng trên tôm sẽ chết hàng loạt.Khi pH tăng cao sẽ
tăng tính độc của H2S, khi pH xuống thấp sẽ tăng tính độc của NH3
Biện pháp khống chế H2S và NH3 như sau :
+ Mật độ tôm giống phải hợp lý, thức ăn cho tôm ăn hằng ngày phải hợp lý;
sử dụng vi khuẩn quang hợp bón xuống ao để giảm thiểu ơ nhiễm đáy ao;
+ Chú ý cải tạo đáy ao bằng cách giữa vụ ni bón thêm vơi CaCo3 hoặc bột
đá để ôxy hoá các chất lắng đọng ở đáy ao; lượng vôi dùng cho mỗi m3 là
30 - 40g;
+ Dùng thức ăn nuôi tôm chất lượng cao, giảm thiểu ô nhiễm chất nước, ô
nhiễm đáy ao.
4) Quản lý thức ăn
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của việc nuôi
tôm là thức ăn. Thức ăn tốt chất lượng cao là thức ăn chế biến đúng thành
phần, đủ chất, đủ lượng, quá trình phối chế khoa học, vệ sinh, hệ số thức ăn
thấp.
Thức ăn chất lượng tốt nhưng phải có cách cho ăn khoa học, hợp lý, phù hợp
với giai đoạn phát triển của tôm, phù hợp với trạng thái sinh hoạt của tôm,
không thiếu, không thừa vừa thúc đẩy tôm lớn nhanh vừa bảo vệ được môi
trường ao nuôi, không gây ô nhiễm, khơng gây lãng phí để đội giá thành của
tơm lên cao là không kinh tế.Tôm chân trắng không cần đồ ăn có lượng
protein con như tơm sú, 35% protein được coi như là thích hợp hơn cả.
Tính tốn thức ăn cho tôm hợp lý cần phải nắm vững 5 điểm sau :
- Số lượng tơm có trong ao;
- Kích cỡ của tơm lớn/bé;
- Tình trạng sức khoẻ của tơm và tình hình lột xác của tơm;
- Chất lượng nước ao ni;
- Tình hình dùng thuốc cho tơm trong thời gian qua.
Số lượng thức ăn có quan hệ đến chiều dài tơm như sau :
+ Tơm có chiều dài 1 - 2cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 150 200% trọng lượng tơm;
+ Tơm có chiều dài 3cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 100% trọng
lượng tơm;
+ Tơm có chiều dài 4cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 50% trọng
lượng tơm;
+ Tơm có chiều dài 5cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 32% trọng
lượng tôm.
5) Những điều cần chú ý khi cho tơm ăn
Từ ngun tắc lượng ít, lần nhiều cần phải chú ý không cho tôm ăn khi :
-Thức ăn kém phẩm chất, bị mốc hoặc bị thối ;
-Nước ao bị ô nhiễm nặng;
-Trời đang mưa to, gió lớn;
-Tôm đang nổi đầu;
-Tơm đang lột xác.
Cho tơm ăn ít khi : Giai đoạn tơm cịn nhỏ.
Cho tơm ăn nhiều khi : - Giai đoạn tôm bắt đầu trưởng thành đến cuối kỳ
nuôi :
- Trời nắng ấm, gió nhẹ;
- Tơm khoẻ chất nước tốt.
Thời gian cho ăn 5 đến 6 lần trong ngày, tỉ lệ thức ăn trong ngày phân bổ
như sau
+ Từ 18h00 đến 19h00 cho ăn 35%;
+ Từ 23h00 đến 00h00 cho ăn 15%;
+ Từ 4h00 đến 5h00 cho ăn 25%;
+ Từ 10h00 đến 11h00 cho ăn 15%;
+ Từ 14h00 đến 15h00 cho ăn 10%.
Nhìn chung, số lượng thức ăn chủ yếu bón về ban đêm chiếm 70 - 80% ban
ngày chỉ chiếm 20 - 30%.
6) Cách xác định thức ăn thừa hay thiếu và cách xác định tỷ lệ sống của
tôm,quản lý ao và các biện pháp quản lý chất nước, và phịng trừ dịch bệnh.
Các CHÚ đã có nhiều kinh nghiệm rất phong phú trong khi nuôi tôm sú,
việc xác định ở đây cũng tương đối dễ dàng như tôm sú nên cháu sẽ không
đề cập.
7) CÁC BỆNH THƯỊNG GẶP KHI NI THẺ CHÂN TRẮNG
Mặc dù đã làm tốt công tác thả giống, nuôi dưỡng, kiểm tra ao nuôi hằng
ngày, nhưng nhất thiết phải chú trọng công tác phòng trừ dịch bệnh, nhất là
khoảng thời gian 30-60 ngày sau khi thả giống là giai đoạn tôm rất dễ mắc
bệnh.
Trong q trình ni phải triệt để áp dụng các biện pháp dự phòng như:
trộn thuốc vào thức ăn cho tôm ,sử dụng thuốc tiêu độc, tiến hành điều tiết
môi trường sinh thái cho phù hợp với từng thời kì sinh trưởng của tơm
Định kì cho tơm ăn thức ăn đã tẩm thuốc tiến hành khi thấy tôm phát sinh
những bất lợi, hay chất lượng nứơc trong ao không tốt. Ngài tác dụng ngăn
ngừa dịch bệnh phát sinh, laọi thức ăn có tẩm thuốc này có thể tăng cường
thể chất ở tơm. Nhưng cũng khơng vì thế mà dùng lạm dụng thuốc, và tránh
dùng một loại thuốc thường xuyên
Tổi giã cũng là dược liệu không thể thiếu trong nghề nuôi tơm vì nó có khả
năng diệt khuẩn, trị bệnh đường ruột, kích thích tính ăn của tơm
Một khi dịch bệnh đă phát sinh, phải tăng cường thay nước để tiêu độc, sau
đó dùng vơi tơi để giảm lượng nitơ-amoniăc (NH3), dùng nấm tươi tạo nên
một mơi trường sinh thái thích hợp, dưói đây là một số biện pháp cụ thể khi
gặp phải tình trạng bất thường ở tơm:
1) Hiện tượng tơm nổi –Các ngun nhân và biện pháp sử lý
• Do thiếu oxy: thường phát sinh và ban đêm hoặc sáng sớm, cách giải quyết
rất đơn giản bật máy sục khí . Trường hợp tơm nổi q nhiều, phải kết hợp
sử dụng thuốc tạo khí
• Do thiếu thức ăn: trong trường hợp này tôm sẽ quây tụ thành từng đàn, có
thể quan sát ruột tơm và tiến hành cho ăn kịp thời
• Do bị trúng độc: tơm cũng có thể di chuyể thành từng đàn trên mặt ao và
tầng nước giữa.Chất ô nhiễm dưới đáy ao quá nhiều tạo nên khí amoniăc và
sunphuahidro, lúc này ngồi việc mở máy sục khí để tăng dưỡng chất khí
hịa tan, cịn phải tích cực thay nước sử dụng vôi tôi và nấm tươi. Liều lượng
sử dụng vôi tôi tùy thuộc vào mức độ nhiễm độc ở đáy ao, thường người ta
sử dụng 30-50 kg\mẫu ao.Vơi tơi có tác dụng làm tan các chất hưu cơ trong
nước, làm đáy ao bớt ơ nhiễm ngồi ra còn làm lượng dưỡng chất trong ao
tăng lên. Sử dụng nấm tươi tốt nhất là dùng ngay sau khi sử dụng vôi tôi làm
nấm tươi có khả năng phát triển ngăn cản sự sinh sôi nảy nở và phát triển
của vi sinh vật có hại, phân giải các chất hữu cơ liều lượng sử dụng là 24kg\mẫu. Chú ý 10-15 ngày sử dụng tảo tươi mới được dùng thuốc tiêu độc.
Điều đáng chú ý là phải ngừng cho tơm ăn, vì trúng độc tơm thường có xu
hướng bỏ ăn nếu cứ tiếp tục cung cấp thức ăn sẽ tạo sự ô nhiễm mới. Chỉ khi
tơm hồn tồn phục hồi mới tiến hành cho tôm ăn lại
2) Bệnh nhiễm cầu khuẩn ở tôm giống: Biểu hiện của bệnh thường thấy là
tôm đứt râu, rụng chân, thối mắt, đen mang, rữa mang, gan sưng đỏ, tuy mức
độ nguy hại không cao nhưng nếu không xử lí tốt thì sẽ dẫn đến hiện tượng
chết hành loạt, đối với bệnh nhiễm cầu khuẩn ở tơm giống có thể thực hiện
các biện pháp tiêu độc, thay nước, trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn kết quả
rất khả quan
3) Bệnh nhiễm cầu trùng: Thường phát sinh khi môi trường nước tăng, nước
mặn hơn khiến tôm bị rụng đầu, gan sưng tấy –có lúc màu đỏ, có lúc chuyển
màu trắng, vỏ tơm mềm vì tíh chất lây lan nhanh nên hay chuyển thành dịch
bệnh. Biện pháp xử lí: Tích cực thay nứơc trong nhiều ngày, mỗi ngày thay
làm nhiều lần, lượn nước mỗi lần thay ít nước tránh thay nhiều vì sẽ khích
thích tơm lột vỏ mà lúc tơm lột vỏ là lúc rất dễ nhiễm bệnh. Cho tôm ăn thức
ăn đã trộn a
4) Bệnh đỏ thân: Tôm mắc bệnh đỏ thân như màu hoa hồng, bệnh phát sinh
khi nhiệt độ giảm thấp,diễn biến của bệnh thường chậm ít khi tơm chết hàng
loạt, biện pháp phịng ngừa là sử dụng tỏi giã, hoặc trộn phu- ran vào thức ăn
5) Bệnh do vi khuẩn gây nên: một bệnh gây ra bởi những vi khuẩn đó là
Vibrio (một loại vi khuẩn gây nhiễm trùng máu). Vi khuẩn này thường gây
nên bệnh mãn tính, bán cấp hoặc cấp. Nhiều chất hóa học và kháng thể được
dùng để điều trị bệnh vibriosis tôm gồm ETDA, FURANACE,
FURAZONIDON(NF-180), ERRYTHOMYCIN, TERRAMYCIN và
CHOLORAMPHENICOL
6) Bệnh nấm: Những bệnh thường gặp ở tơm đó là larval mycosis, bệnh
fusarium vv…Trong nhiều trừơng hợp các nấm có thể gây ra chết hàng
loạt.và chết tới 100% trong vòng 48 giờ sau khi nhiễm.Các thuốc phịng trị
như: TREFLAN, FORMANGANATE KALI, FURANACE.
* NGỒI RA VỚI KINH NGHIỆM XỬ LÝ CÁC LOẠI BỆNH CỦA TÔM
SÚ CŨNG CĨ THỂ ÁP DỤNG RẤT HIỆU QUẢ TRÊN TƠM THẺ CHÂN
TRẮNG, NHƯNG CÁC CHÚ NÊN THAM KHẢO Ý KIẾN NHỮNG
NGƯỜI CHUYÊN MÔN TRƯỚC KHI SỬ DỤNG
III) Kỹ thuật ni ngọt hóa tơm chân trắng ở tỉnh QUẢNG TÂY, TRUNG
QUỐC
Cháu copy kỹ thuật nuôi này của TRUNG QUỐC cho các chú tham khảo.
Nếu phù hợp với điều kiện địa phương, gia đình thì các chú nên xem xét vì
ni trong nước ngọt tốc độ lớn của tơm sẽ nhanh hơn, nhưng bệnh sẽ khó
kiểm sốt, và dễ bộc phát hơn.
Khoảng dao động về độ mặn mà tơm chân trắng Nam Mỹ có thể thích ứng
tương đối lớn, tơm có thể sinh trưởng trong nước biển, cũng có thể sinh
trưởng trong nước ngọt, nhưng chỉ sinh sơi và phát triển mạnh trong nước
biển, nhiệt độ thích hợp là 18 - 35oC, dưới 15oC tôm sẽ chết. Tôm ăn tạp,
nhu cầu thức ăn làm từ lòng trắng trứng tương đối thấp, khoảng 35% là phù
hợp. Lồi tơm này sống trong tự nhiên thường ẩn mình trong cát, hiện đã
được chuyển nuôi thành công trong điều kiện nước ngọt, sản lượng tơm ni
trong đầm, ao có thể đạt tới trên 150 kg/mẫu (1mẫu TQ = 666m2), nếu trong
đầm, ao có bùn thì sản lượng tơm thu được cịn cao hơn, đạt 770 kg/mẫu. Nó
được gọi là lồi tơm biển có thể ni trong mơi trường nước ngọt.
1. Xây ao
Khi tiến hành xây dựng ao nuôi phải xem xét nguồn nước cung cấp có đầy
đủ khơng, chất lượng nước phải tốt, khơng có rác thải và tạp chất, chất đáy
tốt, chất đất rắn chắc, khi cần thiết có thể tiến hành cấp thốt nước dễ dàng.
Diện tích ao ni khoảng 5 - 10 mẫu, thông thường không vượt quá 20 mẫu,
mức nước sâu trên 1m, tốt nhất là 1,5 - 1,8m, ao có hình chữ nhật hoặc hình
trịn, kè ao phải làm chắc chắn tránh bị sụt vỡ, độ cao chênh lệch giữa cống
bơm nước và cống tiêu nước ở đáy ao phải lớn hơn 20 cm, công việc bơm
nước và thoát nước phải được thực hiện riêng rẽ, tốt nhất là có hồ nước dự
trữ
2. Cơng tác chuẩn bị trước khi thả giống
2.1 Làm sạch ao nuôi : Ðối với ao mới xây, trước hết nên bơm nước vào ao
để ngâm ao 2 - 3 lần, sau đó tiến hành tiêu độc; đối với ao đã sử dụng lâu
hoặc nguyên là ao cá cải tạo thành ao nuôi tôm thì phải phơi nắng ao ni,
làm sạch bùn đất và cỏ dại, sau đó mới tiến hành tiêu độc. Cụ thể cách làm
như sau : Từ 15 - 20 ngày trước khi thả giống, bơm 20 - 30 cm nước, hai
ngày sau rút hết nước trong ao, dùng 100 - 150 kg vơi sống/mẫu, nếu ao có
tính axit mạnh thì làm nhiều lần, sau đó bơm nước vào để ngâm ao 2 - 3
ngày, sau khi xả sạch nước lại bơm vào ao 20 - 30 cm nước, dùng 10 - 15 kg
bã chè/mẫu rải đều xuống ao. Khi việc tiêu độc được hồn tất thì bơm nước
vào ao.
2.2 Ni sinh vật làm thức ăn cho tôm : Sau khi đã làm sạch ao nuôi, dùng
lưới dày 60 mắt chặn miệng cống, bơm 50 - 60cm nước vào ao, tiếp đó bón
phân để cải tạo chất nước. Tỉ lệ phân đạm - phân lân là 2 - 3 : 1, ngoài ra
mỗi mẫu cần cung cấp thêm 1,5 - 2 kg nước tiểu, hai ngày sau tiến hành
quan sát nồng độ phân trong nước, xem xét tình hình thời tiết, từ đó quyết
định xem có thể tiến hành tiếp đợt hai chưa, sau 7 - 10 ngày, độ trong của
nước phải là 25 - 30 cm, sắc nước phải có màu nâu hoặc màu xanh, lúc này
trong ao ni đã hình thành hệ sinh vật làm thức ăn cho tôm rất phong phú,
đây chính là thời điểm có thể thả giống xuống ao.
2.3 Xử lý độ mặn của nước : Ðối với ao nuôi thuần nước ngọt, trước khi thả
giống 1 - 2 ngày nên dùng muối để điều chỉnh độ mặn của nước. Mỗi mẫu
thả 100 - 150 kg muối, khiến độ mặn của nước trong ao đạt 300 ppm trở lên,
như vậy sẽ làm tăng tỉ lệ sống của tôm nuôi.
3. Chọn giống và nuôi dưỡng
3.1Chọn giống :
Khi tiến hành chọn giống phải kiên quyết đưa chất lượng lên vị trí hàng đầu,
tơm giống có chất lượng tốt sẽ thể hiện ở : chiều dài thân trên 0,8 cm, bơi lội
linh hoạt, biểu hiện bên ngồi sạch sẽ, khơng bị thương, các đốt bụng hình
chữ nhật, mình tơm nở, chắc, tơm giống to đều, khơng có tật, khả năng bơi
ngược dịng nước tốt.
3.2 Ngọt hố tơm giống
Do tơm chân trắng Nam Mỹ là lồi tơm trứng nở trong nước biển có tỉ trọng
là 1,018 - 1,022, nên nếu như trực tiếp đưa tôm giống vào ao nước ngọt để
nuôi sẽ không thu được kết quả mong muốn. Trước tiên phải tiến hành xử lý
ngọt hố tơm giống. Muốn vậy phải tiến hành từng bước một, không thể vội
vàng, nếu khơng việc ngọt hố tơm giống sẽ bị thất bại. Trong q trình ngọt
hố, mỗi ngày chỉ giảm tỉ trọng 3 - 4 đơn vị (tức là giảm từ 1,018 xuống
1,014 - 1,010 - 1,006 - 1,003 - 1,001) cho tới khi độ mặn trong ao chỉ còn 2 3 thì có thể chuyển sang ni nước ngọt. Q trình ngọt hoá tốt nhất nên tiến
hành ở đầm ươm giống.
3.3 Thả giống
Kiểm tra nước 2 - 3 ngày trước khi thả giống, chọn một số tơm giống đã
được ngọt hố cho vào túi lưới 40 mắt thả túi xuống ao và quan sát, sau 2
ngày nếu như tỉ lệ sống cao hơn 90% thì mơi trường nước đó được coi là
thích hợp, nếu tỉ lệ chết cao thì ngừng việc thả giống, xác minh nguyên
nhân, chỉ khi đã điều chỉnh lại chất nước cho tốt mới tiến hành thả giống.
Nên chọn thả giống vào sáng hoặc chập tối một ngày trời quan đãng, không
mưa, tuyệt đối tránh thả giống vào buổi trưa khi ánh nắng mặt trời đang
chiếu gắt hoặc hơm thời tiết có mưa.
3.4 Lượng tơm giống cần thả
Mật độ tôm giống thả dựa trên cách thức nuôi và điều kiện ni. Tại các ao
ni chất lượng cao có thiết bị sục khí và điều kiện ni tốt, lượng giống nên
thả là 20.000 - 30.000 con, tại các ao nuôi chất lượng thấp hơn thả 15.000
con, ao chất lượng thấp chỉ nên thả 10.000 con.
4. Công tác quản lý nuôi trồng
Công tác quản lý quyết định việc ni tơm có thành cơng hay khơng. Quản
lý tốt, tỉ lệ thành công cao, quản lý không tốt sẽ tạo nên những tổn thất
khơng đáng có, thậm chí việc ni tơm bị thất bại. Vì thế, việc quản lý một
cách khoa học được coi là điểm mấu chốt. Quản lý nuôi trồng bao gồm quản
lý chất nước, quản lý thức ăn và phòng trừ bệnh hại
4.1 Quản lý chất nước
Chất nước của ao nuôi tôm là một trong các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
sản lượng tôm nuôi, là môi trường sống của tôm trong suốt quá trình ni
dưỡng, và là chìa khố của sự thành cơng. Sự thay đổi mơi trường nước có
ảnh hưởng trực tiếp đến q trình sinh trưởng bình thường ở tơm, nếu tôm
sống trong một môi trường nước không tốt, sẽ kém ăn, phát triển chậm, thậm
chí chất nước khơng tốt cịn tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh sinh
sôi, dẫn tới tôm bị bệnh, gây nên thất bại cho nghề ni. Vì vậy, trong q
trình ni, duy trì các chỉ tiêu về chất nước thật ổn định. Các chỉ tiêu về chất
nước gồm có : Ðộ pH từ 7,8 - 8,6; sắc nước nâu, hoặc có màu lá cọ hoặc
màu xanh lá cây; độ trong của nước từ 30 - 40 cm; lượng ơxy hồ tan trong
nước là 4 mg/L. Thời kỳ đầu nên bơm thêm nước, thời kỳ giữa và cuối quan
sát tình hình chất nước để quyết định việc thay nước, mục đích là duy trì
chất nước ln tốt.
4.2 Quản lý thức ăn
Thường thì 15 ngày đầu sau khi thả giống, người ta không cho tôm ăn, sau
15 ngày mới bắt đầu cho tôm ăn thức ăn tổng hợp, mỗi tuần cho ăn thêm 12 lần thức ăn tươi sống để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Thời kỳ đầu mỗi
ngày cho ăn 2 lần, thời kỳ giữa và cuối mỗi ngày cho tôm ăn 3 - 4 lần, lượng
thức ăn hằng ngày dựa vào công thức tính rất đơn giản : Thức ăn/con/ngày
bằng 5% khối lượng hiện thời của tơm, ngồi ra có thể căn cứ vào khả năng
tiêu thụ thức ăn của tôm để quyết định số lượng. nếu nhiệt độ của nước trong
ao cao, tơm thường ăn nhiều, ta có thể tăng lượng thức ăn, ngược lại nếu
nhiệt độ xuống thấp thì cho tơm ăn ít hơn, khi nhiệt độ của nước thấp dưới
15oC, tạm ngừng việc cho ăn.
4.3 Phòng trừ bệnh hại
Phòng trừ bệnh tơm nên tn theo ngun tắc Phịng hơn chữa bệnh , trong
suốt q trình ni nên định kỳ tiến hành tiêu độc cho nước, thông thường 1
tháng sau khi thả giống bắt đầu tiến hành tiêu độc, sau đó cứ nửa tháng lại
tiến hành một lần, thuốc tiêu độc gồm có bột Phiêu Bạch (bột tẩy trắng), vơi
sống quan sát tình trạng chất nước để quyết định loại thuốc cần dùng. Trong
q trình ni, khoảng nửa tháng hoặc một tháng rắc bã chè xuống ao một
lần tốt cho sự sinh trưởng của tôm.
4.4 Quản lý hằng ngày
Hàng ngày vào 2 buổi sáng, tối, kiểm tra quanh ao một lần, phát hiện những
bất thường về thiết kế, quan sát sự thay đổi về môi trường sống của tôm, đặc
biệt là mầu sắc nước, tình hình hoạt động của tơm, từ đó kịp thời đưa ra biện
pháp xử lý.
CHÚC CÁC CHÚ MỘT VỤ MÙA THẮNG LỢI !