Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp của cha mẹ cho trẻ có biểu hiện tăng động giảm chú ý ở tuổi tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ QUÝ

NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM TRỢ GIÚP
CỦA CHA MẸ CHO TRẺ CÓ BIỂU HIỆN TĂNG ĐỘNG
GIẢM CHÚ Ý Ở TUỔI TIỂU HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ QUÝ

NHẬN THỨC VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM TRỢ GIÚP
CỦA CHA MẸ CHO TRẺ CÓ BIỂU HIỆN TĂNG ĐỘNG
GIẢM CHÚ Ý Ở TUỔI TIỂU HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên
Mã số: Thí điểm

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.TRẦN THÀNH NAM

HÀ NỘI – 2017



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý tận tình của quý thầy cô trường Đại học
Giáo Dục, Đại học Quốc gia Hà nội.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, các cô trường Đại
học Giáo Dục. Các thầy cô trong chương trình liên kết của Đại học Vanderbitl,
những người đã tận tình dạy bảo tôi trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên
cứu tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS.Trần Thành Nam, người đã dành
rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn và giúp tôi có thể hoàn thành được
luận văn tốt nghiệp.
Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, và
quý thầy cô phòng đào tạo sau đại học Trường Đại học Giáo Dục đã tạo nhiều
điều kiện thuận lợi để tôi học tập và hoàn thành tốt khoá học.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, Ban
Lạnh đạo và tập thể Khoa Tâm thần đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các học sinh ,phụ huynh và Ban giám
hiệu cùng các thầy cô của các trường đã tham gia nghiên cứu để giúp Tôi thực
hiện đề tài này.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh những thiếu sót.
Chính vì vậy tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ quý thầy cô
và các bạn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
Học viên

Nguyễn Thị Quý
i



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADHD

Attention Dificit Hyperactivity Disorder- Rối loạn
tăng động giảm chú ý.
Diagnostic and Statistical Manual of Mental

DSM

Disorder- Sách hướng dẫn chẩn đoán và phân loại
bệnh tâm thần (Hội tâm thần học Hoa Kỳ)
The 10th International Classification of Diseases-

ICD-10

World Health Organization- Bảng phân loại bệnh
quốc tế lần thứ 10 của tổ chức y tế thế giới.

Tr

Trang

ii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... I

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................... II
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. V
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ .................................................... vi
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ..................................................................... 6
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ............................................................... 6
1.1.1. Những nghiên cứu bàn về nhận thức sức khỏe tâm thần và hành vi tìm
kiếm trợ giúp ..................................................................................................... 6
1.1.2. Những nghiên cứu bàn về nhận thức và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp
đối với tăng động giảm chú ý .......................................................................... 10
1.1.3. Nghiên cứu về rối loạn tăng động giảm chú ý ...................................... 17
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. ............................................. 21
1.2.1. Nhận thức .............................................................................................. 21
1.2.2. Tăng động giảm chú ý ........................................................................... 23
1.2.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học ................................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 41
CHƢƠNG 2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................... 42
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 42
2.2. Đặc điểm khách thể nghiên cứu ............................................................... 42
2.3. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................. 45
2.3.1. Thu thập số liệu ..................................................................................... 45
2.3.2. Xử lý số liệu .......................................................................................... 45
2.4. phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 45
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu........................................................... 45
2.4.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi..................................................... 46
2.4.3.Phương pháp thống kê toán học ............................................................. 48
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 49
iii


CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................... 50

3.1. Nhận thức chung về rối loạn tăng động giảm chú ý ................................ 50
3.1.1. Khả năng nhận diện các biểu hiện tăng động giảm chú ý..................... 50
3.1.2. Nhận thức của cha mẹ về khái niệm hiếu động và tăng động giảm chú ý .. 53
3.1.3. Định nghĩa của cha mẹ về tăng động giảm chú ý ................................. 54
3.1.4. Nhận định về thời gian xuất hiện các biểu hiện .................................... 55
3.1.5. Nhận định về môi trường xuất hiện các hành vi của trẻ có adhd.......... 55
3.1.6. Nhận định về độ tuổi dễ phát hiện tăng động giảm chú ý nhất ............ 56
3.2. Thực trạng nhận diện các biểu hiện, nguyên nhân, cách thức can thiệp và
hành vi tìm kiếm sự hỗ trợ .............................................................................. 57
3.2.1. Thực trạng nhận diện các biểu hiện của rối loạn tăng động giảm chú ý ..... 57
3.2.2. Nhận thức của cha mẹ về nguyên nhân gây ra adhd ở học sinh tiểu học.... 59
3.2.3. Nhận thức của cha mẹ về phương pháp can thiệp cho trẻ có ADHD......................60
3.3. Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của cha mẹ cho trẻ có biểu hiện adhd....... 62
3.3.1. Hành vi tìm kiếm thông tin về adhd ...................................................... 62
3.3.2. Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của cha mẹ cho trẻ có biểu hiện adhd.... 63
3.4. Tương quan giữa nhận thức về biểu hiện, nguyên nhân, cách can thiệp và
hành vi tìm kiếm sự trợ giúp ........................................................................... 66
3.4.1. Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ với nhận thức về các
biểu hiện, nguyên nhân của adhd .................................................................... 66
3.4.2. Tương quan giữa nhận thức về biểu hiện, nguyên nhân, cách can thiệp
và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp ...................................................................... 67
3.4.3. Hồi quy dự báo hành vi tìm kiếm sự hỗ trợ adhd từ biến số nhận thức
của phụ huynh về các biểu hiện và nguyên nhân dẫn đến adhd ..................... 70
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 72
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 80

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Một số điểm luận về các nghiên cứu bàn về nhận thức sức khỏe tâm
thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp trên thế giới và ở Việt Nam ........................ 9
Bảng 1.2. Một số điểm luận về các nghiên cứu bàn về nhận thức ADHD và
hành vi tìm kiếm trợ giúp trên thế giới và ở Việt Nam. .................................. 16
Bảng 2.1. Bảng đặc điểm của địa bàn nghiên cứu .......................................... 42
Bảng 2.2. Đặc điểm của khách thể tham gia nghiên cứu ................................ 43
Bảng 2.3. Đặc điểm về thành viên trong gia đình ........................................... 44
Bảng 2.4. Cấu trúc thang đo sàng lọc rối loạn tăng động giảm chú ý
Vanderblit (dành cho cha mẹ) ......................................................................... 47
Bảng 3.1. Khả năng nhận diện của cha mẹ về tình huống 1 ........................... 51
Bảng 3.2. Khả năng nhận diện của cha mẹ về tình huống 2. .......................... 52
Bảng 3.3. Định nghĩa của cha mẹ về tăng động giảm chú ý ........................... 54
Bảng 3.4. Bảng phân bố tần số và tỉ lệ lựa chọn của cha mẹ về thời gian xuất
hiện hành vi ..................................................................................................... 55
Bảng 3.5. Nhận thức về môi trường xuất hiện các hành vi của trẻ có ADHD ..... 55
Bảng 3.6. Độ tuổi dễ phát hiện tăng động giảm chú ý nhất. ........................... 56
Bảng 3.7. Tỉ lệ cha mẹ nhận diện các dấu hiệu của ADHD ........................... 58
Bảng 3.8. Điểm trung bình về nhận thức nguyên nhân. ................................. 60
Bảng 3.9. Điểm trung bình về phương pháp can thiệp. .................................. 61
Bảng 3.10. Mức độ đồng tình của cha mẹ với cách thức tìm kiếm thông tin
về ADHD ........................................................................................................ 63
Bảng 3.11. Tỉ lệ % mức độ đồng tình của cha mẹ với cách thức tìm kiếm hỗ
trợ cho trẻ ADHD. ........................................................................................... 64
Bảng 3.12. Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ với nhận thức về
các biểu hiện, nguyên nhân của ADHD .......................................................... 66
Bảng 3.13. Tương quan giữa nhận thức về biểu hiện, nguyên nhân, cách can
thiệp và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp. ............................................................ 68
v



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Biểu đồ 3.1. Khả năng nhận diện của cha mẹ về tình huống 1 ....................... 51
Biểu đồ 3.2. Khả năng nhận diện của cha mẹ về tình huống 2. ...................... 52
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ phân biệt giữa hiếu động và ADHD ............................. 53
Biểu đồ 3.4: Biểu đồ phân bố tần số và tỷ lệ lựa chọn độ tuổi dễ phát hiện
ADHD nhất ..................................................................................................... 56

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tăng động giảm chú ý( ADHD) là rối loạn tâm thần thường gặp nhất ở
trẻ em và thanh thiếu niên (TE&TTN ).Theo DSM-IV TR thì tỉ lệ trẻ trong độ
tuổi đi học mắc ADHD là 3-7 %, theo số liệu của viện sức khỏe tâm thần
quốc gia Hoa Kỳ thì rối loạn này có xu hướng tăng lên trong những năm gần
đây. Theo nghiên cứu khác của tác giả Ayaka Ishii- Takahashi - Nhật Bản thì
tỉ lệ mắc rối loạn tăng động giảm chú ý ở nước này tăng từ 3% (1980) lên 7%
(2009). Ở Việt Nam, theo báo cáo của tác giả Nguyễn Văn Lương, bệnh viện
tâm thần trung ương Huế thì hiện nay tỉ lệ mắc rối loạn ADHD ở lứa tuổi tiểu
học là từ 3-5 % và ngày càng gia tăng (dẫn theo Đỗ Minh Thúy Liên ,2010).
Gần hơn, số liệu nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền cho thấy tỉ lệ là
khoảng 9,3% (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2012)
ADHD ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của trẻ: ảnh hưởng đến
hoạt động học tập, sinh hoạt, cũng như các mối quan hệ của trẻ với những người
xung quanh: cha mẹ, bạn bè, thầy cô. Trẻ ADHD thường gây khó chịu cho
người khác và hay bị gán cho những nhãn mác: “Hư, bướng, phá phách...” mà
không được quan tâm điều trị, làm ảnh hưởng đến phát triển tâm lý của trẻ. Các

nghiên cứu đã chỉ ra rằng 54% - 84% trẻ em và thanh thiếu niên với tiêu chí
ADHD có rối loạn thách thức chống đối (ODD); một phần đáng kể của các bệnh
nhân này sẽ phát triển rối loạn hành vi (CD; Barkley, 2005; Faraone et al., 1997).
15%- 19% bệnh nhân ADHD sẽ bắt đầu hút thuốc lá (Milberger et al., 1997)
hoặc phát triển các rối loạn lạm dụng chất gây nghiện khác (Biederman et al.,
1997). 25% - 35% bệnh nhân ADHD sẽ có một vấn đề học tập hoặc ngôn ngữ
cùng tồn tại (Pliszka et al., 1999).Theo báo cáo của Touzin và cộng sự năm 1997
thì trẻ ADHD có nguy cơ thất bại trường học gấp 2-3 lần so với những trẻ cùng
lứa tuổi, và 50% trẻ ADHD gặp thất bại ở trường học và nó kéo dài đến tuổi
trưởng thành ( Touzin và cs,1997)
1


Ngày nay cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông thì
việc cập nhập thông tin về các vấn đề xã hội, kinh tế, sức khỏe và sức khỏe
tâm thần ....ngày càng trở lên dễ dàng, việc tìm kiếm thông tin về rối loạn tăng
động giảm chú ý không còn khó khăn, chính vì thế số trẻ được đưa đến khám
ở các bệnh viện ngày càng nhiều, đặc biệt tại Bệnh viện Nhi trung ương số trẻ
đến khám do các biểu hiện: chạy nhảy luôn tục, không chú ý nghe giảng, hay
lơ đãng, hay làm việc riêng trong lớp….ngày càng tăng lên.Tuy nhiên, có một
thực tế trong quá trình làm việc tôi gặp rất nhiều câu hỏi của phụ huynh khi
đưa con đến khám với các biểu hiện như trên rằng “ Con tôi có phải bị tự kỉ
không?”, thực tế này chỉ ra rằng chính các cha mẹ vẫn còn nhầm lẫn giữa các
triệu chứng của tự kỷ và ADHD, cha mẹ còn có nhận thức sai lầm về bệnh và
cách can thiệp. Cũng có một thực tế các cha mẹ e ngại về tác dụng phụ của
thuốc khi cho con sử dụng thuốc để can thiệp cho trẻ, nhiều phụ huynh băn
khoăn đặt câu hỏi rằng: “Liệu uống thuốc có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của
trẻ không?”, chính vì thế nhiều cha mẹ đã tự ý dừng thuốc, bỏ thuốc trong quá
trình can thiệp cho trẻ. Cũng có rất nhiều cha mẹ đưa con đến khám do yêu
cầu của giáo viên, do giáo viên phàn nàn quá nhiều về trẻ mà bản thân cha mẹ

chưa nhận thức được vấn đề của trẻ.
Việc điều trị cho những trẻ ADHD cũng cần được chú trọng để giảm
bớt các hậu quả nghiêm trọng do hội chứng này gây ra, giúp trẻ hòa nhập tốt
với trường lớp, gia đình và xã hội. Trên thế giới, ở Bỉ , trong chính sách chăm
sóc sức khỏe , suốt từ năm 2004 thuốc Ritalin là một trong những thuốc được
hỗ trợ đặc biệt để điều trị cho rối loạn này. Ở Mỹ, trong những năm 1990,
Chính phủ Mỹ trong cuộc cải cách xã hội với cam kết chi ra một khoản tiền
lớn cho những trẻ có khó khăn học tập, mà ADHD là một trong những dự án
này . Tại Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại, sự quan tâm của Nhà nước về
sức khỏe tâm thần mới chỉ tập trung chủ yếu vào đối tượng người lớn mắc
một số loại bệnh tâm thần nặng, nghiêm trọng như: tâm thần phân liệt, động
kinh tâm thần, chậm phát triển tâm thần, mà ít chú trọng đến rối loạn như
2


ADHD. Chính vì vậy, công tác sàng lọc phát hiện sớm và chăm chữa cho trẻ
ADHD chủ yếu là do gia đình trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của cha
mẹ. Tuy nhiên trình độ nhận thức của người dân Việt nam nói chung cũng như
của các bậc phụ huynh nói riêng về rối loạn ADHD còn hạn chế. Bằng chứng
nghiên cứu đi trước cho thấy có nhiều cha mẹ vẫn quan niệm “trẻ nghịch, hiếu
động mới là trẻ thông minh” nên công tác nhận diện, phát hiện và can thiệp sớm
cho trẻ bị ADHD còn gặp rất nhiều rào cản (Trần Thành Nam, 2001). Nghiên
cứu của Nguyễn Thị Phương Trang trên 110 cha mẹ về nhận thức về hội chứng
ADHD ở học sinh tiểu học chỉ ra rằng có 71 cha mẹ (chiếm 64,5%) trả lời rằng
mình đã từng nghe nói về ADHD, 39 người (chiếm 35,5%) chưa từng nghe qua
về ADHD ( Nguyễn Thị Phương Trang, 2016). Hiện tại ở Việt Nam chưa có
nhiều nghiên cứu đủ độ tin cậy về nhận thức của cha mẹ đối với rối loạn này.
Đó là những lý do thúc đẩy tôi thực hiện đề tài nghiên cứu : “ Nhận
thức về biểu hiện, nguyên nhân, cách can thiệp và hành vi tìm kiếm trợ
giúp cho trẻ ADHD ở tuổi tiểu học.”

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Phân tích nhận thức của cha mẹ về các biểu hiện, nguyên nhân, cách
can thiệp và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho trẻ có biểu hiện ADHD. Chỉ ra mối
tương quan giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm hỗ trợ của cha mẹ đối với trẻ
ADHD. Từ đó nhằm nâng cao nhận thức và đưa ra định hướng đúng trong
việc tìm hỗ trợ phù hợp cho trẻ ADHD.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu lý luận
Phân tích và xây dựng những vấn đề lý thuyết có liên quan đến biểu hiện,
nguyên nhân , cách can thiệp và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho trẻ ADHD.
2.2.2. Nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu là thiết kế, xây
dựng bảng hỏi làm công cụ nghiên cứu. Bộ công cụ được tác giả xây dựng
3


phục vụ cho đề tài nhằm tiến hành điều tra, thu thập các thông tin , tìm hiểu
nhận thức về biểu hiện , nguyên nhân, cách can thiệp và cách thức tìm kiếm
trợ giúp cho trẻ ADHD , phân tích và xử lý số liệu thu thập được.
3.Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức của cha mẹ về các biểu hiện, nguyên nhân, cách can thiệp
và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho trẻ có biểu hiện ADHD.
3.2. Khách thể nghiên cứu
274 cha mẹ có con trong độ tuổi tiểu học đang sống trên địa bàn Hà Nội
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là 274 cha mẹ có con có biểu hiện tăng động giảm chú
ý trong độ tuổi tiểu học tại ba trường tiểu học trên địa bàn huyện Đan Phượng,
ngoại thành Hà Nội

5. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhận thức về nguyên nhân, biểu hiện, cách can thiệp đã có nhiều
thay đổi tuy nhiên còn nhiều hạn chế.
- Cha mẹ còn có hành vi tìm kiếm trợ giúp chưa phù hợp cho trẻ ADHD.
- Có mối tương quan giữa nhận thức của cha mẹ về biểu hiện, nguyên
nhân, hình thức can thiệp và hành vi tìm kiếm trợ giúp.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nhằm hệ thống lại các cơ sở lý thuyết, tìm hiểu các công trình nghiên
cứu đã có về ADHD, xem xét các vấn đề đã được nghiên cứu trong và ngoài
nước bằng việc tham khảo các tài liệu, sách, báo, tạp chí, kỉ yếu...từ đó xây
dựng bảng hỏi về nhận thức của cha mẹ đối với các biểu hiện, nguyên nhân,
cách can thiệp và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho trẻ ADHD.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
6.2.1. Bảng hỏi nhân khẩu học: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh tế….
6.2.2. Bảng hỏi về các biểu hiện tăng động giảm chú ý: thang Vanderbilt (cha
mẹ hoặc người chăm sóc báo cáo)
4


6.2.3. Bảng hỏi nhận thức về nguyên nhân, phương pháp can thiệp, hành vi
tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề ADHD
6.3. Phương pháp thống kê toán học: Từ số liệu thu được khi khảo sát thực
tế chúng tôi sẽ tiến hành tổng hợp, mã hóa , xử lý số liệu, và phân tích kết quả
thông qua phần mềm SPSS nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị , danh mục tài liệu tham
khảo và các phụ lục khác , nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày
trong 3 chương :
Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận

Chƣơng 2: Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu

5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu bàn về nhận thức sức khỏe tâm thần và hành vi
tìm kiếm trợ giúp
1.1.1.1.Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu của Francois Dabins và Jean – Claude Desenclos chỉ ra
rằng nhu cầu về nhận thức của xã hội, của những người cầm quyền, cũng như
là nhận thức về tình trạng sức khỏe trong dân số, hay nhu cầu dự báo trước
các nguy cơ và khả năng phản ứng trong những trường hợp khủng hoảng do
vấn đề vệ sinh sức khỏe ngày càng trở lên cấp bách. Những câu hỏi đặt ra với
sức khỏe môi trường, những chấn thương và những bệnh mãn tính ngày càng
trở lên phức tạp. Do đó nhu cầu nhận thức về vấn đề sức khỏe tâm thần ngày
càng cao. Đã có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu về quan niệm, nhận thức của
cộng đồng về các biểu hiện và nguyên nhân tổn thương sức khỏe tâm thần
trên thế giới. Như nghiên cứu của Mc Kenvey và David Sang trên 283 bậc cha
mẹ người Việt Nam cho thấy nhận thức các biểu hiện tổn thương sức khỏe
tâm thần của trẻ được các cha mẹ xác định gồm các triệu chứng nặng như :
mất định hướng, hoang tưởng, ảo giác, ý tưởng tự sát…các biểu hiện hành vi
khác ít được chú ý hơn, 10% cha mẹ xác định các biểu hiện như : đánh nhau,
rối loạn ăn uống, bỏ nhà đi, ăn cắp, lạm dụng chất là các biểu hiện tổn thương
sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng 50% cha mẹ cho rằng
nếu con có biểu hiện tổn thương sức khỏe tâm thần thì cần tìm đến bác sỹ tâm
thần, nhà tâm lý, hay các cơ sở chăm chữa khác [30, tr.512-514].Có một số

cha mẹ khác tin vào các phương pháp không có bằng chứng khoa học như
dùng thảo dược, tâm linh, châm cứu, bấm huyệt. Hầu hết các nghiên cứu về
tổn thương sức khỏe tâm thần đều cho thấy nhận thức chung trong cộng đồng

6


về các biểu hiện tổn thương sức khỏe tâm thần là các dấu hiệu nặng: nói điều
vô lý, cười nói một mình, bỏ nhà đi lang thang (Van der Ham et all.2011)
[25]. Nghiên cứu của Gur K Sener và cộng sự trên 260 giáo viên cũng cho
thấy giáo viên đánh giá các biểu hiện nguy hiểm là các biểu hiện tổn thương
sức khỏe tâm thần. Các biểu hiện khác: kỹ năng xã hội kém, thu mình, xấu hổ
ít là các dấu hiệu tổn thương sức khỏe tâm thần [23].
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phần lớn bộ phận người dân còn định
kiến về sức khỏe tâm thần và thiếu sự tìm kiếm điều trị. Nghiên cứu của Kelly
và cộng sự (2007) chỉ ra rằng hầu hết các trường hợp không tìm kiếm sự trợ
giúp chuyên nghiệp hoặc chỉ tìm tới sau khi khởi phát một thời gian dài [dẫn
theo 4,tr 29].Số lượng lớn thanh thiếu niên có vấn đề về sức khỏe tâm thần
không nhận được sự can thiệp chuyên nghiệp cần có (Patel và cs, 2007)[ dẫn
the 4,tr29]. Điều này càng rõ rệt ở các nước có thu nhập thấp và thu nhập
trung bình (WHO, 2001).Thống kê lý do cho thực trạng này là sự thiếu kiến
thức, các định kiến liên quan đến rối loạn tâm thần, và khó khăn trong tiếp
cận với các dịch vụ chăm sóc (Kieling và cs, 2011) [dẫn theo 4, tr29]. Nghiên
cứu của Merritt và cs (Anh, 2007)[dẫn theo 4,tr 29-37] trên 3313 sinh viên
nhằm nâng cao nhận thức về trầm cảm, gồm nhận diện triệu chứng, hiểu biết
về điều trị và chiến lược tìm kiếm trợ giúp cho thấy có 69% đọc tờ rơi, ít hơn
½ số đó cho rằng trầm cảm có thể chữa, không có khác biệt đáng kể giữa hai
nhóm. Tuy nhiên, nhóm thực nghiệm có xu hướng nhận diện triệu chứng tốt
hơn và biết thuốc chống trầm cảm không gây nghiện (dẫn theo Đặng Hoàng
Minh và Hồ Thu Hà) [dẫn theo 4, tr 29-37]

1.1.1.2. Nghiên cứu trong nước.
Ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về nhận thức của cha mẹ
về các vấn đề tổn thương sức khỏe tâm thần nói chung như nghiên cứu của tác
giả Trần Thành Nam năm 2003 “Quan niệm của các bậc cha mẹ về tổn
thương sức khỏe tâm thần ở trẻ em ” cho thấy 78,8% hiểu tổn thương SKTT
như các biểu hiện của tâm thần phân liệt ( bệnh nhân ít nhiều có biểu hiện của
7


bệnh tan rã nhân cách như mất ý thức, không nhận thức được người thân, kích
động đập phá, áo giác , hoang tưởng…, chỉ có khoảng 11,8 % số người trả lời
quan niệm tổn thương SKTT là các rối nhiễu ở thể nhẹ , có ảnh hưởng đến
sinh hoạt hàng ngày của trẻ (không có khả năng học tập, tính khí thất thường,
hay quên, ít nói…). Trong nghiên cứu này Trần Thành Nam cũng chỉ ra rằng
cha mẹ có xu hướng nhận diện tổn thương SKTT thiên về các dấu hiệu cơ thể
như rối loạn ngủ, kích động đập phá, hành vi tự sát, cáu kỉnh, chán ăn… nên
cha mẹ thường đưa trẻ đến các bác sỹ chuyên khoa khác chứ không đưa trẻ
đến bác sỹ chuyên khoa tâm thần , đặc biệt ít đưa đến các nhà tâm lý học [9].
Đa số phụ huynh nghĩ, chỉ khi học sinh có biểu hiện nặng như tổn thương về
não, viêm não, mất ý thức, đần độn, kích động đập phá, có ảo giác, hoang
tưởng, tự kỷ... mới là bị bệnh. Trong nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Thanh
Tùng về “Nhận thức và hành vi ứng xử của cha mẹ về biểu hiện, nguyên nhân
tổn thương sức khỏe tâm thần ở trẻ em” chỉ ra rằng cha mẹ thường có xu
hướng nhận diện các dấu hiệu tổn thương SKTT và bệnh tâm thần nặng nhiều
hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 70% trở lên cha mẹ không nhận diện được
các vấn đề như chống đối xã hội, nghiện game,stress, lo lắng,đau đầu, đau
bụng là tổn thương sức khỏe tâm thần. Cha mẹ nhận thức nguyên nhân gây ra
bệnh/ vấn đề sức khỏe tâm thần chủ yếu là do các yếu tố sinh học và sang
chấn tâm lý trong cuộc đời. Số liệu cũng cho thấy cha mẹ có xu hướng không
đồng ý yếu tố động cơ cá nhân hoặc yếu tố xã hội, tương tác liên cá nhân là

nguyên nhân dẫn đến các bệnh tâm thần. Chính vì vậy, họ có xu hướng không
thừa nhận các vấn đề hành vi vi phạm pháp luật, chống đối xã hội, nghiện
game, béo phì là các bệnh/ vấn đề SKTT. Tuy nhiên, so sánh với các nghiên
cứu đi trước, nhận thức của cha mẹ về nguyên nhân các bệnh tâm thần có sự
chuyển biến theo hướng tích cực ở chỗ cha mẹ phần lớn không cho rằng yếu
tố tâm linh là nguyên nhân gây ra bệnh tâm thần. Việc lựa chọn điều trị cũng
mang tính khoa học hơn, phần lớn cha mẹ lựa chọn và tin vào hiệu quả trị liệu
dùng thuốc (Tây Y) và sau đó là trợ giúp từ nhà trường [16,tr290-297].
8


Những nghiên cứu về nhận thức về nhóm bệnh cụ thể chủ yếu tập trung vào
nhận thức về tự kỷ, nhận thức về lo âu, trầm cảm như “Nhận thức về tự kỉ của
sinh viên năm cuối các nghành chăm sóc sức khỏe tâm thần” của Trịnh Thanh
Hương- năm 2013; “Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm” của
Nguyễn Thị Bình- năm 2015. Có rất ít nghiên cứu bàn về nhận thức về tăng
động giảm chú ý.
Có thể tóm lại các kết quả chính một số nghiên cứu trên thế giới và
trong nước trong bảng dưới đây
Bảng 1.1. Một số điểm luận về các nghiên cứu bàn về nhận thức sức khỏe
tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp trên thế giới và ở Việt Nam
Tác giả

Số mẫu

Nhận thức

Biểu hiện tổn thương sức
khỏe tâm thần của trẻ được
Mc Kenvey

283 cha các cha mẹ xác định gồm các
và David
mẹ
triệu chứng nặng như : mất
Sang
định hướng, hoang tưởng, ảo
giác, ý tưởng tự sát [30]
Biểu hiện tổn thương sức
Van der
khỏe tâm thần là các dấu hiệu
Ham et
nặng: nói điều vô lý, cười nói
all.2011
một mình, bỏ nhà đi lang
thang [25]
260
Biểu hiện nguy hiểm là các
Gur K Sener
giáo
biểu hiện tổn thương sức
et all
viên
khỏe tâm thần [23]

Hành vi tìm kiếm trợ giúp
50% cha mẹ cho rằng nếu
con có biểu hiện tổn
thương sức khỏe tâm thần
thì cần tìm đến bác sỹ tâm
thần, nhà tâm lý, hay các

cơ sở chăm chữa khác [30]

Hầu hết các trường hợp
không tìm kiếm sự trợ giúp
chuyên nghiệp hoặc chỉ tìm
tới sau khi khởi phát một
thời gian dài
Số lượng lớn thanh thiếu
niên có vấn đề về sức khỏe
tâm thần không nhận được
sự can thiệp chuyên nghiệp
cần có

Kelly và
cộng sự
(2007)

Patel và cs,
2007

9


Nhận thức về trầm cảm, gồm
nhận diện triệu chứng, hiểu biết
Merritt và
3313
về điều trị và chiến lược tìm
cs (Anh,
sinh

kiếm trợ giúp cho thấy có 69%
2007)
viên
đọc tờ rơi, ít hơn ½ số đó cho
rằng trầm cảm có thể chữa
78,8% hiểu tổn thương SKTT
như các biểu hiện của tâm thần
phân liệt (bệnh nhân ít nhiều có
biểu hiện của bệnh tan rã nhân
Cha mẹ thường đưa trẻ đến
cách như mất ý thức, không
các bác sỹ chuyên khoa
Trần Thành
nhận thức được người thân,
309 phụ
khác chứ không đưa trẻ đến
Nam năm
kích động đập phá, áo giác,
huynh
bác sỹ chuyên khoa tâm
2003
hoang tưởng). Cha mẹ có xu
thần, đặc biệt ít đưa đến
hướng nhận diện tổn thương
các nhà tâm lý học [9]
SKTT thiên về các dấu hiệu cơ
thể như rối loạn ngủ, kích động
đập phá, hành vi tự sát, cáu
kỉnh, chán ăn [9]
Cha mẹ thường có xu hướng

nhận diện các dấu hiệu tổn
thương SKTT và bệnh tâm
Phần lớn cha mẹ lựa chọn
thần nặng nhiều hơn. Nghiên
Đặng Thị
và tin vào hiệu quả trị liệu
221 cha cứu cũng chỉ ra rằng 70% trở
Thanh Tùng
dùng thuốc (Tây Y) và sau
mẹ
lên cha mẹ không nhận diện
(2015)
đó là trợ giúp từ nhà trường
được các vấn đề như chống đối
[16]
xã hội, nghiện game, stress, lo
lắng,đau đầu, đau bụng là tổn
thương sức khỏe tâm thần[16]
Có thể nhận xét rằng, hầu hết các công trình nghiên cứu trong nước và
quốc tế chỉ ra rằng nhận thức của cộng đồng về sức khỏe tâm thần nói chung
còn hạn chế. Đặc biệt là các hành vi ít gây nguy hại thì ít được để ý đến.
Người dân còn thiếu sự tìm kiếm trợ giúp phù hợp cho các rối loạn tâm thần.
1.1.2. Những nghiên cứu bàn về nhận thức và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp
đối với tăng động giảm chú ý
1.1.2.1.Nghiên cứu trên thế giới
Đối với nhóm hành vi: nghịch ngợm, phá phách, ít tập trung chú ý, khó
khăn trong hoạt động nhóm, khó hoàn thành nhiệm vụ, hay quên trong các

10



hoạt động hàng ngày…là các biểu hiện của tăng động giảm chú ý ảnh hưởng
rất nhiều đến các hoạt động ở trường lớp, trong sinh hoạt cá nhân cũng như
gia đình của trẻ. Đây cũng là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm của xã hội và cộng
đồng. Tuy nhiên mức độ nhận thức của cha mẹ, giáo viên.. là rất khác nhau.
Chính vì thế có rất nhiều nghiên cứu nhận thức của cộng đồng về rối loạn
tăng động giảm chú ý đã được thực hiên. Nghiên cứu của Schmiedeler (2013)
trên 353 giáo viên tiểu học và trung học về kiến thức và quan niệm về ADHD
bao gồm biểu hiện, chẩn đoán, nguyên nhân, và can thiệp cho thấy rằng có
54,2% trả lời đúng, 16,9% không chính xác, và 28,8% "không biết" .
Schmiedeler cũng báo cáo rằng các giáo viên giữ một quan niệm sai lầm đáng
kể về ADHD. Còn các tác giả Blotnicky-Gallant, Martin, McGonnell, và
Corkum (2014) đã nghiên cứu kiến thức và niềm tin của 113 giáo viên từ sáu
trường học trên khắp Nova Scotia về ADHD cho thấy rằng chỉ có 68% có
kiến thức về triệu chứng / chẩn đoán, và họ ghi nhận kém về nguyên nhân và
cách thức can thiệp cho trẻ ADHD [28,tr 38-43]. Năm 2002 tiến sỹ
Pescosolido và cộng sự đã tiến hành cuộc khảo sát trên 1.139 người nhằm tìm
hiểu mức độ kiến thức và lựa chọn điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý
(ADHD). Trong cuộc phỏng vấn, người trả lời trả lời câu hỏi về việc liệu họ
đã nghe nói về ADHD, những gì họ biết về ADHD, niềm tin của họ về việc
liệu ADHD thực sự là một bệnh chỉ ra rằng dưới hai phần ba số người được
hỏi (64%) đã nghe nói về ADHD; họ không thể cung cấp thông tin chi tiết về
các rối loạn. Phụ nữ và những người có trình độ học vấn cao hơn có nhiều khả
năng đã nghe nói về ADHD; người Mỹ gốc Phi, các thành viên của các nhóm
sắc tộc không phải là người da trắng khác ít có khả năng nghe nói về ADHD.
Trong số những người trả lời đã nghe nói về ADHD, 78% cho biết họ tin rằng
ADHD là một bệnh thực; phụ nữ da trắng và người có thu nhập cao hơn
thường tin vào điều đó[27, tr 626-631]. Trong khi đó các nhà phê bình thì cho
rằng ADHD không phải là một căn bệnh "thực" mà là một chuỗi các hành vi
mà cha mẹ và nhà trường không muốn hoặc không thể chịu đựng được. Theo

11


các nhà phê bình, phụ huynh và giáo viên chấp nhận nhãn chẩn đoán và kê
đơn thuốc kích thần (psychostimulant) vì đó là giải pháp tương đối đơn giản,
không tốn kém, và cho tác dụng nhanh để giải quyết các vấn đề phức tạp. Các
nhà phê bình cho rằng ADHD là chẩn đoán quá mức và rằng trẻ em đang
được điều trị không cần thiết và không phù hợp.
Một số nghiên cứu khác đo kiến thức ADHD và quan niệm sai lầm về
ADHD chỉ ra rằng niềm tin vào kiến thức có sức mạnh rất lớn ảnh hưởng đến
việc tìm kiếm sự trợ giúp cho trẻ có ADHD (Anderson, Watt, Noble, &
Shanley, 2012; Dole & Sinatra, 1998; Taylor & Kowalski, 2004). Do đó, một
niềm tin mạnh mẽ trong nhận thức không chính xác có thể là một rào cản
trong tìm sự giúp đỡ hoặc sử dụng một hình thức cụ thể trong điều trị ADHD.
Ví dụ, cha mẹ giữ quan niệm sai lầm mạnh mẽ về việc sử dụng thuốc kích
thần cho ADHD (ví dụ, họ dẫn đến lạm dụng chất lớn hơn) có thể miễn cưỡng
xem xét lựa chọn điều trị này cho con của họ hoặc họ có thể trì hoãn tìm sự
giúp đỡ ở nơi đầu tiên nếu thuốc được coi là sự can thiệp đầu tiên. Những bậc
cha mẹ, lần lượt, có thể tìm thấy phương pháp điều trị ít được chấp nhận hơn.
Cha mẹ khác có thể giữ quan niệm sai lầm tương tự, nhưng không phải là
mạnh mẽ. Những phụ huynh có thể dễ tiếp thu thông tin mới và có thể được
mở để thay đổi nhận thức của họ theo thời gian. Những thay đổi trong nhận
thức có cha mẹ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện và duy
trì sự tiến bộ trong quá trình điều trị (Hoza et al., 2006). Nói chung, phụ
huynh của trẻ em bị ADHD có xu hướng tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, bao gồm cả chăm sóc sức khỏe của nhân viên chuyên nghiệp, nhân
viên nhà trường, các mạng xã hội, Internet, và các nguồn phương tiện truyền
thông khác . Một nguồn tin đặc biệt quan trọng có thể là Internet vì nhiều cá
nhân sử dụng Internet như một nguồn tìm kiếm những thông tin về ADHD
(Akram et al, 2009;Bussing et al, 2012).

Theo nghiên cứu của Mark J. Sciutto trên 196 người về quan niệm, nhận
thức và sự chấp nhận điều trị đối với ADHD nhằm mục đích khám phá yếu tố
12


ảnh hưởng đến quyết định giúp đỡ, tìm kiếm đó là kiến thức và quan niệm sai
lầm về ADHD và chấp nhận điều trị chỉ ra rằng mức cao hơn của quan niệm sai
lầm về ADHD có liên quan với sự chấp nhận thấp hơn của thuốc và sự chấp
nhận cao hơn của các can thiệp dinh dưỡng. Còn trong nghiên cứu của Johnston,
Seipp, Hommersen, Hoza, và Mỹ (2005) chỉ ra rằng cha mẹ với nhiều niềm tin
hợp lý về ADHD và điều trị của nó cho thấy sự chấp nhận và sử dụng cả hai
phương pháp điều trị hành vi và thuốc men cho ADHD hơn. Những người có
niềm tin sai lầm về ADHD có nhiều khả năng tìm thấy sự can thiệp thay thế (ví
dụ, chế độ ăn uống) là chấp nhận hơn (Johnston et al., 2005). Trong nghiên cứu
về mức độ kiến thức và sử dụng điều trị của Pescosolido chỉ ra rằng hầu hết
người được hỏi (65%) đã thông qua việc sử dụng cả tư vấn và dùng thuốc, mặc
dù tư vấn đã được xác nhận như là một điều trị duy nhất thường xuyên hơn so
với thuốc.Trong một nghiên cứu khác dựa trên dữ liệu từ năm 1998 Social
Survey, McLeod và các đồng nghiệp [32] báo cáo có khoảng 30% số người được
hỏi nói rằng họ rất sẵn sàng hay phần nào sẵn sàng để cung cấp thuốc cho một
đứa trẻ có triệu chứng phù hợp với chẩn đoán ADHD.Trong khi đó, ít người
nghĩ rằng trẻ em bị ADHD nên không được điều trị, nhiều người trả lời hơn thể
hiện một sở thích cho điều trị kết hợp.
Một nghiên cứu khác cho thấy mức độ nhận thức và sự e ngại của cha
mẹ do hậu quả của tăng động giảm chú ý gây ra là khá rõ ràng. Theo cuộc
điều tra trên 102 phụ huynh có con ADHD của IPSOS y tế thuộc Vương Quốc
Anh - 2004 cho thấy các cha mẹ lo ngại về tương lai của trẻ, và cho rằng trẻ
bị ADHD thường phải đối mặt với sự cô lập xã hội. Có 94 % cha mẹ đồng ý
với các tuyên bố: ADHD đe dọa đến thành tích học tập và hạn chế thành công
trong sự nghiệp tương lai của trẻ, 89 % cha mẹ đồng ý với ý kiến cho rằng các

sinh hoạt trong gia đình bị gián đoạn, 76 % đồng tình với ý kiến cho rằng rất
khó khăn khi đi cùng trẻ đến một nơi nào đó và khó khăn trong việc tìm người
trông giữ trẻ. Nghiên cứu này cũng cho thấy các cha mẹ cho rằng ADHD ảnh
hưởng lớn lên cuộc sống gia đình: thời gian để cho một trẻ ADHD ngủ lâu

13


hơn nhiều so với trẻ bình thường. Một nghiên cứu khác của Adore thuộc Anh
cũng chỉ ra sự lo ngại của cha mẹ về tương lai của trẻ và sự cô lập xã hội mà
trẻ ADHD gặp phải, kết quả nghiên cứu chỉ ra có gần một nửa số trẻ bị
ADHD không được mời đến các sự kiện xã hội , trong một tháng có 45 % trẻ
ADHD không bao giờ được mời , 30 % trẻ ADHD không được mời hơn 3 lần,
trẻ được mời đến các sự kiện xã hội là rất ít chỉ 14 % trẻ được mời 1 lần, 6 %
được mời 2 lần, 5 % được mời 3 lần. Cũng theo một nghiên cứu của IPSOS
năm 2005 trên các cha mẹ có con từ 5-16 tuổi cho thấy hầu hết bố mẹ trẻ có
con có ADHD cảm thấy mệt mỏi và bị ảnh hưởng bởi hành vi kéo dài của trẻ
trong ngày,và hiệu suất ở trường của trẻ, 80 % cha mẹ cảm thấy mệt mỏi với
các hành vi kéo dài, 70 % cha mẹ cảm thấy mệt mỏi và ảnh hưởng bởi hiệu
suất làm việc ở trường của trẻ.Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng hầu hết các
bậc cha mẹ của trẻ ADHD cảm thấy quá mệt mỏi để bình thường hóa các mối
quan hệ xã hội, 64 % các cha mẹ đã hủy các sự kiện xã hội do mệt mỏi. Từ
những nghiên cứu trên cho thấy cha mẹ nhận thức khá rõ về biểu hiện, những
khó khăn của trẻ ADHD, tuy nhiên các cha mẹ chưa có cách thức tìm kiếm hỗ
trợ phù hợp để giúp đỡ trẻ cũng như giảm bớt những căng thẳng và mệt mỏi
do tình trạng bệnh của trẻ gây ra (Chew St., Allentown, PA 18.104, Hoa Kỳ.)
1.1.2.2. Nghiên cứu trong nước
Hiện tại, ở Việt Nam có nhiều nghiên cứu về tăng động giảm chú ý ở
trẻ em, tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào tỉ lệ mắc tăng
động giảm chú ý, các đặc điểm tâm lý lâm sàng của trẻ ADHD như: “Đặc

điểm tâm lý lâm sàng của học sinh tiểu học có rối loạn tăng động giảm chú ý”
tác giả Nguyễn Thị Vân Thanh – năm 2010. “Tìm hiểu một số đặc điểm lâm
sàng của rối loạn tăng động giảm chú ý của trẻ em từ 6-10 tuổi” tác giả Đỗ
Minh Thúy Liên- năm 2013. “Thực trạng rối loạn tăng động giảm chú ý ở 2
trường tiểu học tại Hà nội” tác giả Nguyễn Thị Vân Thanh- Nguyễn Sinh
Phúc - năm 2007. “Nghiên cứu tỉ lệ học sinh tiểu học có tăng động giảm chú ý
tại quận Ba Đình- Hà Nội” tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền – Năm 2012. Có

14


một số nghiên cứu nhận thức về tăng động giảm chú ý như “Nhận thức của
giáo viên tiểu học về chiến lược quản lý hành vi đối với trẻ có dấu hiệu tăng
động giảm chú ý trong một số trường tiểu học ở Hà Nội” của tác giả Nguyễn
Linh Trang-2012 cho thấy hầu hết giáo viên đều biết về thuật ngữ “tăng động
giảm chú ý”. Tuy nhiên hiểu biết chung về bệnh còn hạn chế và có mức độ
không đồng đều nhau ở nhóm giáo viên. Nghiên cứu “Nhận thức của cha mẹ
về hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý ở học sinh tiểu học” của Nguyễn
Thị Phương Trang-2016 ở Đà Nẵng cho thấy 64,5% cha mẹ đã từng nghe nói
về ADHD, 35,5% chưa từng nghe qua về ADHD. Ở Việt Nam, các nghiên
cứu có đủ độ tin cậy về nhận thức của cha mẹ đối với tăng động giảm chú ý
gần như là chưa có. Nó chỉ được đề cập đến như một phần nhỏ trong các
nghiên cứu nhận thức về sức khỏe tâm thần, như trong nghiên cứu của Trần
Thành Nam (2001) thì cha mẹ hay đánh đồng tăng động với trẻ hiếu động
nghịch ngợm, và là biểu hiện của một đứa trẻ thông minh, ham mê khám phá.
Trong nghiên cứu của Đặng Thị Thanh Tùng (2014) thì cha mẹ nhận thức tốt
hơn các dấu hiệu của tăng động giảm chú ý. Do đó việc nghiên cứu nhận thức
của cha mẹ về biểu hiện, nguyên nhân, cách thức can thiệp và hành vi tìm
kiếm cho trẻ có tăng động giảm chú ý là cần thiết. Để từ đó thiết lập chương
trình giáo dục nhận thức cho cha mẹ hiểu rõ hơn về hội chứng tăng động giảm

chú ý, và có cách thức tìm kiếm hỗ trợ phù hợp.
Để tóm lại về những nghiên cứu đi trước liên quan đến nhận thức về
ADHD và hành vi tìm kiếm trợ giúp. Xin xem bảng 1.2 dưới đây.

15


Bảng 1.2. Một số điểm luận về các nghiên cứu bàn về nhận thức ADHD
và hành vi tìm kiếm trợ giúp trên thế giới và ở Việt Nam.
Tác giả

Số mẫu

Schmiedeler
(2013)

353 giáo
viên tiểu
học và
trung học

BlotnickyGallant, Martin,
McGonnell, và
Corkum (2014)

113 giáo
viên

Pescosolido và
cộng sự (2002).


1.139
người

Nhận thức
Kiến thức và quan
niệm về ADHD bao
gồm biểu hiện, chẩn
đoán, nguyên nhân, và
can thiệp cho thấy
rằng có 54,2% trả lời
đúng, 16,9% không
chính xác, và 28,8%
"không biết"
Kiến thức và niềm tin
về ADHD : 68% có
kiến thức về triệu
chứng / chẩn đoán, và
họ ghi nhận kém về
nguyên nhân và cách
thức can thiệp cho trẻ
ADHD[28, tr 38-43]
Tìm hiểu mức độ kiến
thức và lựa chọn điều
trị : 64% đã nghe nói
về ADHD;họ không
thể cung cấp thông tin
chi tiết về các rối
loạn, 78% cho biết họ
tin rằng ADHD là một

bệnh thực

Hành vi tìm kiếm trợ
giúp.

Không đề cập

Không đề cập

65% đã thông qua việc
sử dụng cả tư vấn và
dùng thuốc

Mark J. Sciutto

Mức cao hơn của quan
niệm sai lầm về ADHD có
Quan niệm, nhận thức
liên quan với sự chấp nhận
139 người và sự chấp nhận điều
thấp hơn của thuốc và sự
trị đối với ADHD
chấp nhận cao hơn của các
can thiệp dinh dưỡng

Anderson, Watt,
Noble, &
Shanley, 2012;
Dole & Sinatra,
1998; Taylor &

Kowalski, 2004

Nhận thức không chính
xác có thể là một rào cản
trong tìm sự giúp đỡ hoặc
sử dụng một hình thức cụ
thể trong điều trị ADHD
16


Cha mẹ với nhiều niềm
tin hợp lý về ADHD và
điều trị của nó cho thấy
sự chấp nhận và sử dụng
cả hai phương pháp điều
trị hành vi và thuốc men
cho ADHD hơn
Khoảng 30% số người
được hỏi nói rằng họ rất
sẵn sàng hay phần nào
sẵn sàng để cung cấp
thuốc cho một đứa trẻ có
triệu chứng phù hợp với
chẩn đoán ADHD.Trong
khi đó, ít người nghĩ rằng
trẻ em bị ADHD nên
không được điều trị,
nhiều người trả lời hơn
thể hiện một sở thích cho
điều trị kết hợp.


Johnston, Seipp,
Hommersen,
Hoza, và Mỹ
(2005)

1998 Social
Survey,
McLeod và các
đồng nghiệp

Nguyễn Thị
Phương
Trang(2016)

64,5% cha mẹ đã
từng nghe nói về
ADHD, 35,5% chưa Không đề cập
từng nghe qua về
ADHD

1.1.3. Nghiên cứu về rối loạn tăng động giảm chú ý
1.1.3.1. Lịch sử thuật ngữ tăng động giảm chú ý.
Rối loạn tăng động giảm chú ý là một hội chứng thường xuất hiện ở
một số trẻ trong lứa tuổi mẫu giáo và những năm đầu bậc tiểu học. Hội chứng
này đã được mô tả lần đầu tiên bởi bác sỹ Henrich Hofman vào năm 1845.
Ông là một bác sỹ chuyên viết sách về y học và tâm thần học, ông quan tâm
viết sách cho trẻ em vì bản thân ông không tìm được tài liệu nào để đọc và
giải nghĩa cho hành vi của cậu con trai lên 3 tuổi của mình. Sau đó ông đã viết
một cuốn sách bằng thơ có đầy đủ tranh minh họa về trẻ em và những đặc

điểm tính cách của chúng. “ The storry of Fidgety Pilip” mô tả chính xác chân
dung một cậu bé có rối loạn tăng động giảm chú ý. Tuy nhiên, mãi đến năm
17


×