Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

tai lieu chu nghia xa hoi khoa hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.04 KB, 97 trang )

CHƯƠNG I
VỊ TRÍ , ĐỐI TƯNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ CHỨC NĂNG CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
I. VỊ TRÍ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Các nhà sáng lập ra chủ nghóa Mác-Lênin đã sử dụng hai
thuật ngữ “chủ nghóa xã hội khoa học” hoặc “chủ nghóa cộng
sản khoa học”. Hai thuật ngữ này về cơ bản là thống nhất về ý
nghóa. Hiện nay chúng ta sử dụng thuật ngữ “chủ nghóa xã hội
khoa học “
1. Khái niệm chủ nghóa xã hội khoa học
“Chủ nghiã xã hội khoa học” xét về mặt lý luận nó nằm
trong khái niệm “chủ nghóa xã hội”. Là một trong ba bộ phận
hợp thành chủ nghóa Mác-Lênin, “Chủ nghiã xã hội khoa học”
có những đặc điểm sau :
Một là : Chủ nghóa xã hội khoa học dựa vào những cơ sở
khoa học chỉ rõ con đường, điều kiện, biện pháp, để thủ tiêu
tình trạng người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, tốt
đẹp hơn so với Chủ nghóa tư bản.
Hai là : Chủ nghiã xã hội khoa học dựa vào những kết luận
của Triết học và Kinh tế học chính trò Mác-Lênin để luận giải
những quy luậât chính trò - xã hội của quá trình chuyển biến từ
chủ nghóa tư bản, từ các chế độ tư hữu lên chủ nghóa xã hội,
chủ nghóa cộng sản.
Ba là : Chủ nghiã xã hội khoa học là thế giới quan, là hệ
tư tưởng chính trò của giai câùp công nhân, biểu hiện lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong quá trình xây dựng
xã hội mới.
Bốn là : Chủ nghiã xã hội khoa học là khoa học tổng kết
kinh nghiệm đâùu tranh của giai cấp công nhân, cách mạng xã
hội chủ nghóa, phong trào dân chủ của quần chúng, cách mạng
dân chủ tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc, để tìm ra xu


hướng, con đường, lực lượng, biện pháp nhằm giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và thúc đẩy xã hội phát triển
2. Vò trí của chủ nghóa xã hội khoa học
Một là, với ý nghóa là tư tưởng, lý luận, chủ nghóa xã hội
khoa học nằm trong quá trình phát triển các sản phẩm tư tưởng,
lý luận mà loài người đã sáng tạo ra. Đặc biệt, trong lónh vực
khoa học xã hội và chính trò - xã hội, chủ nghóa xã hội khoa học
là một trong những đỉnh cao nhất .
Hai là, chủ nghóa xã hội khoa học là tư tưởng, lý luận bàn
về chủ nghóa xã hội, do đó nó nằm trong quá trình phát triển
lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa của nhân loại. Nó kế thừa,
phát triển những giá trò tích cực của chủ nghóa xã hội không
tưởng, loại bỏ các yếu tố không tưởng, tìm ra những quy luật,
tính quy luật của quá trình cách mạng xã hội chủ nghóa nhằm
giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng con người, giải phóng
xã hội .

1


Ba là, là một trong ba bộ phận hợp thành học thuyết MácLênin, chủ nghóa xã hội khoa học thường hiểu theo hai nghóa :
Nghóa hẹp : Chủ nghóa xã hội khoa học là một trong ba bộ
phận hợp thành chủ nghóa Mác-Lênin, nó dựa trên cơ sở của
Triết học và Kinh tế học chính trò Mác-Lênin để luận giải một
cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ
nghóa, về sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghóa, gắn liền với sứ mệnh lòch sử của giai cấp
công nhân, nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng con
người, giải phóng xã hội.
Nghóa rộng : Chủ nghóa xã hội khoa học được hiểu là chủ

nghóa Mác-Lênin. Bởi vì, suy cho cùng cả Triết học, Kinh tế học
chính trò Mác - Lênin và chủ nghóa xã hội khoa học đều luận giải
tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghóa và xây dựng hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghóa, mà người lãnh đạo,
tổ chức thực hiện sự nghiệp cách mạng ấy là giai cấp công
nhân hiện đại, thông qua chính Đảng của nó. Trong ba bộ phận
hợp thành chủ nghóa Mác-Lênin, chủ nghóa xã hội khoa học là
bộ phận trực tiếp luận giải về giai cấp công nhân và chính
Đảng của nó, luận giải về “sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân”. Với ý nghóa như vậy, cho nên có thể hiểu chủ nghóa xã
hội khoa học là chủ nghóa Mác (hay chủ nghóa Mác-Lênin). Lê nin
đã xác đònh : “bộ tư bản – tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy
trình bày chủ nghóa xã hội khoa học…những yếu tố từ đó nảy
sinh ra chế độ tương lai”.
Vì vậy, khi nghiên cứu giảng dạy, học tập Triết học, Kinh tế
học chính trò Mác-Lênin mà không luận chứng cuối cùng dẫn
đến sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân, dẫn đến chủ
nghóa xã hội, chủ nghóa cộng sản là biểu hiện của sự chệch
hướng trong quá trình giáo dục Chủ nghóa Mác-Lênin.
II. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT, ỨNG
DỤNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
1. Triết học và kinh tế học chính trò Mác - Lênin là cơ sở
lý luận của chủ nghóa xã hội khoa học
Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những
quy luật chung nhất của tự nhiên - xã hội và tư duy, của các hình
thái kinh tế – xã hội. Nó là thế giới quan, nhân sinh quan của
giai cấp công nhân hiện đại. Vì thế nó trở thành cơ sở lý luận
và phương pháp luận chung cho chủ nghóa xã hội khoa học.
Kinh tế học chính trò Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là
những quy luật kinh têù – xã hội, hình thành, phát triển trong

quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất, trong quá
trình phân phối, trao đổi, tiêu dùng những của cải đó. Đặc biệt
là những quy luật kinh tế - xã hội trong chế độ tư bản chủ
nghóa, những quy luật trong quá trình chuyển biến tất yếu lên
chủ nghóa xã hội và quá trình xây dựng chủ nghóa xã hội

2


Chủ nghóa xã hội khoa học phải dựa trên những cơ sở của
Triết học, Kinh tế học chính trò Mác-Lênin thì mới làm rõ những
quy luật, tính quy luật của những vấn đề mà Chủ nghóa xã hội
khoa học nghiên cứu ở phạm vi mỗi nước và phạm vi thế giới
trong thời đại ngày nay.
2. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghóa xã hội khoa học.
Chủ nghóa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật và tính
quy luật chính trò - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và
phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghóa; nghiên
cứu những nguyên tắc, điều kiện, con đường, hình thức và
phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để
thực hiện thắng lợi sự chuyển biến từ chủ nghóa tư bản (và các
chế độ tư hữu) lên chủ nghóa xã hội, chủ nghóa cộng sản.
Sự chuyển biến lên chủ nghóa xã hội, chủ nghóa cộng sản
là quy luật khách quan của xã hội loài người. Song nó không
diễn ra một cách tự nhiên mà phải thông qua hoạt động có ý
thức của con người. Nhân tố người ở đây trước hết là giai cấp
công nhân hiện đại. Với ý nghóa đó chủ nghóa Mác-Lênin đã
khái quát : “ Chủ nghóa cộng sản … là sự biểu hiện lý luận
của lập trường của giai cấp vô sản”, là “sự khái quát lý luận
về những điều kiện giải phóng của giai cấp vô sản” (1) gắn với

giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghóa xã hội khoa học có một hệ thống các phạm
trù, khái niệm và những vấn đề mang tính quy luật rất cơ bản
như : giai cấp công nhân, sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân (gắn với Đảng Cộng sản); hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghóa (đặc biệt là giai đoạn chủ nghóa xã hội); cách
mạng xã hội chủ nghóa; nền dân chủ xã hội chủ nghóa và
nhà nước xã hội chủ nghóa; liên minh công nông và các tầng
lớp lao động; vấn đề dân tộc, tôn giáo, gia đình. . .
3. Phạm vi khảo sát và vận dụng của chủ nghóa xã
hội khoa học
Phạm vi khảo sát của chủ nghóa xã hội khoa học là những
tư liệu thực tiễn, thực tế. Do đó khi khảo sát, vận dụng nguyên
lý của chủ nghóa xã hội khoa học phải gắn với thực tế, thực
tiễn một cách chủ động, sáng tạo. Những vấn đề chính trò - xã
hội giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa các quốc gia, dân tộc…
thường là phức tạp hơn nhiều so với những vấn đề của các khoa
học xã hội khác.
Phạm vi khảo sát của chủ nghóa xã hội khoa học là những
vấn đề cơ bản sau :
Những thành tựu và sai lầm trong quá trình xây dựng chủ
nghóa xã hội; quá trình cải tổ, cải cách dẫn tới sụp đổ chủ
1

C. Mác và Ph. ngghen : Toàn Tập. NXB. Chính Trò Quốc Gia,
HN. 1995, T.4, Trang 399.

3



nghóa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu; quá trình cải cách, đổi mới
thắng lợi ở một số nước xã hội chủ nghóa …từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận về con
đường xây dựng chủ nghóa xã hội ở mỗi nước, qua đó bổ sung
làm sáng tỏ hơn nữa những nguyên lý của chủ nghóa xã hội
khoa học.
Đảng ta nhấn mạnh phải “Vận dụng sáng tạo lý luận,
phương pháp luận của chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh để nghiên cứu phát triển chủ nghóa xã hội khoa học” (1)
III. PHƯƠNG PHÁP CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
1. Phương pháp luận chung
Khi nghiên cứu chủ nghóa xã hội khoa học phải sử dụng
phương pháp luận chung của Triết học Mác-Lênin thì chủ nghóa
xã hội khoa học mới luận giải đúng đắn, khoa học về sứ mệnh
lòch sử của giai cấp công nhân, về quá trình phát sinh, hình
thành, phát triển hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghóa
và các khái niệm, phạm trù của chủ nghóa xã hội khoa học
2. Phương pháp đặc trưng của chủ nghóa xã hội khoa
học.
Thứ nhất : Phương pháp kết hợp lòch sử- lôgíc. Đây là nội
dung của phương pháp luận Triết học Mác-Lênin, đồng thời cũng
là phương pháp nghiên cứu quan trọng của chủ nghóa xã hội khoa
học. Phải trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của các sự thật lòch
sử mà phân tích để từ đó rút ra những nhận đònh, những khái
quát về lý luận có kết cấu chặt chẽ, khoa học – tức là rút ra
được lôgíc của lòch sử (chứ không dừng ở sự kể lể về sự thật
lòch sử) .
Thứ hai : Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trò –
xã hội dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể Đây là
phương pháp đặc thù của chủ nghóa xã hội khoa học. Khi nghiên

cứu, khảo sát thực tế, thực tiễn ở một xã hội cụ thể, đặc
biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội, người nghiên
cứu, khảo sát, phải có sự tỉnh táo, nhạy bén về chính trò - xã
hội trước các hoạt động và các quan hệ xã hội. Bởi vì trong
thời đại còn giai cấp, đấu tranh giai cấp, mọi hoạt động xã hội,
mọi quan hệ xã hội ở mọi lónh vực, kể cả khoa học, công nghệ,
tri thức và việc sử dụng các công nghệ, tri thức, cũng như các
nguồn lực, các lợi ích…đều có nhân tố chính trò chi phối, nhưng lại
có vẻ như đứng ngoài, “đứng đằng sau” các quan hệ và sự kiện
đó. Nếu không có sự nhạy bén và bản lónh chính trò vững vàng,
khoa học thì người nghiên cứu, khảo sát dễ mơ hồ, lầm lẫn dẫn
đến những hậu quả khôn lường.
1

Đảng Cộng sản VN : Văn kiện hội nghò lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VIII). Nxb, Chính Trò Quốc Gia, Hà
Nội, 1997, Trang 56.

4


Thứ ba : Các phương pháp có tính liên ngành : Khi nghiên cứu
chủ nghóa xã hội khoa học phải biết sử dụng nhiều phương pháp
cụ thể của các khoa học xã hội khác như : Phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát, thăm dò dư luận, sơ đồ
hoá, mô hình hoá....để nghiên cứu những khía cạnh chính trò - xã
hội. Có như vậy thì những khái quát lý luận của chủ nghóa xã
hội khoa học mới có cơ sở vững chắc.
Thứ tư : Phương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn. Khi nghiên
cứu, khảo sát chủ nghóa xã hội khoa học cần sử dụng thực tiễn

về chính trò – xã hội. Chỉ có trên cơ sở tổng kết thực tiễn , rút ra những bài học kinh
nghiệm thành cơng, cũng như khơng thành cơng mới có thể bổ sung, làm giàu thêm cho kho
tàng lý luận của chủ nghóa xã hội khoa học.
IV. CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
1. Chức năng của chủ nghóa xã hội khoa học
Một là, trang bò hệ thống lý luận chính trò - xã hội và
phương pháp luận của chủ nghóa Mác-Lênin để luận giải tính tất
yếu lòch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghóa, nhằm giải phóng giai cấp công
nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chức năng này
thống nhất với chức năng của Triết học và Kinh tế học chính trò
Mác-Lênin, nhưng chủ nghóa xã hội khoa học là bộ phận luận
giải trực tiếp nhất về cách mạng xã hội chủ nghóa và xây
dựng chủ nghóa xã hội.
Hai là, trực tiếp giáo dục và trang bò lập trường tư tưởng,
chính trò của giai cấp công nhân cho Đảng Cộng sản, cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động - đó là lập trường xã hội
chủ nghóa, cộng sản chủ nghóa, để họ hiểu rõ được vai trò lòch
sử của mình trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong xây
dựng chủ nghóa xã hội, cũng như trong cuộc đấu tranh chống lại
các hệ tư tưởng thù đòch.
Ba là, đònh hướng về chính trò - xã hội cho mọi hoạt động
của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân, của Nhà nước xã
hội chủ nghóa và của nhân dân lao động trên mọi lónh vực, qua
đó tạo cho xã hội sự ổn đònh về chính trò - xã hội và phát triển
đúng với mục tiêu xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ nghóa –
tức là làm cho tính chất xã hội chủ nghóa, cộng sản chủ nghóa
thể hiện ngày càng rõ hơn, hoàn thiện hơn trên mọi lónh vực
của đời sống xã hội.
2 . Ý nghóa của việc nghiên cứu, học tập chủ nghóa

xã hội khoa học
a. Về mặt lý luận
- Chủ nghóa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành chủ nghóa Mác-Lênin. Do đó, khi nghiên cứu, học tập chủ
nghóa Mác-Lênin thì phải nghiên cứu cả ba bộ phận hợp thành,
nếu không sẽ dễ chệch hướng chính trò - xã hội, mà trước hết

5


và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu xây dựng chủ
nghóa xã hội, chủ nghóa cộng sản.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghóa xã hội khoa học nhằm
trang bò nhận thức về chính trò - xã hội (đối tượng, chức năng,
phạm vi khảo sát, vận dụng …) cho Đảng Cộng sản, cho nhà
nước và nhân dân trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ
nghóa xã hội. Vì vậy, chủ nghóa xã hội khoa học nói riêng, chủ
nghóa Mác-Lênin nói chung được coi là “Vũ khí lý luận” của giai
cấp công nhân, để thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp
công nhân, giải phóng xã hội.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghóa xã hội khoa học không chỉ
để nhận thức và giải thích thếâ giới, mà điều quan trọng là
nhằm góp phần cải tạo thế giới. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng
về kinh tế, khoa học và công nghệ sẽ dễ mơ hồ về mặt chính
trò - xã hội. Như vậy sẽ hạn chế khả năng đóng góp, thậm chí
vô tình cản trở sự nghiệp đổi mới của đất nước.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghóa xã hội khoa học để chúng
ta có căn cứ khoa học đấu tranh chống lại các nhận thức sai
lệch về chủ nghóa xã hội và sự tuyên truyền chống phá của
các thế lực thù đòch.

b. Về mặt thực tiễn
Chủ nghóa xã hội khoa học, cũng như các khoa học xã hội
khác, bao giờ cũng có khoảng cách nhất đònh so với thực tiễn,
nhất là những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu chủ
nghóa xã hội khoa học để thấy được tính tất yếu của khoảng
cách đó. Đặc biệt, trong lúc chưa có nước nào xây dựng chủ
nghóa xã hội hoàn chỉnh thì hiện tượng chủ nghóa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ đã tác động không nhỏ đến nhận
thức của một bộ phận nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập chủ nghóa xã hội khoa học càng trở nên khó
khăn, đồng thời cũng càng có ý nghóa chính trò cấp bách, bởi vì
:
- Nghiên cứu chủ nghóa xã hội khoa học một cách bình tónh,
sáng suốt, chủ động, mới thấy được những thành tựu to lớn mà
chủ nghóa xã hội trước đây đã đạt được, cũng như mới tìm ra
được nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm,
khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ trong quá trình xây dựng chủø
nghóa xã hội ở một số nước.
- Có nghiên cứu chủ nghóa xã hội khoa học mới thấy rõ
những thành tựu của công cuộc cải cách, đổi mới ở một số
nước xã hội chủ nghóa, từ đó mới có được kết luận chính xác
rằng: sự sụp đổ chủ nghóa xã hội ở một số nước không phải
do sai lầm của chủ nghóa Mác-Lênin mà do Đảng cộng sản ở
những nước đó đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn
đề trái với chủ nghóa xã hội khoa học. Đó là tư tưởng giáo
điều, chủ quan, duy ý chí, xem nhẹ những thành quả chung của
nhân loại; do xuất hiện chủ nghóa cơ hội – phản bội trong một số

6



Đảng cộng sản. Đồøng thời do sự phản kích của chủ nghiã đế
quốc bằng âm mưu “diễn biến hoà bình’. Có nhận thức đúng
đắn như vậy chúng ta mới củng cố được lòng tin, sự kiên đònh
và bản lónh chính trò của quần chúng nhân dân, đặc biệt là
lớp trẻ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội.
- Trong điều kiện hiện nay, nghiên cứu, học tập chủ nghóa
xã hội khoa học, chủ nghóa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
càng là vấn đề cơ bản, cấp thiết ở nước ta nhằm xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, chống lại mọi biểu hiện cơ hội, dao động, thoái
hóa, biến chất trong Đảng và xã hội .

7


CHƯƠNG II
LƯC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I . KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TƯ TƯỞNG XÃ HỘI
CHỦ
NGHĨA
1 . Khái niệm tư tưởng xã hội chủ nghóa
a. Đònh nghóa tư tưởng xã hội chủ nghóa
Tư tưởng (tiếng Hy lạp là Idéa – tức hình tượng) là một hình
thái ý thức của con người phản ánh thế giới hiện thực. Bất cứ
tư tưởng nào cũng do điều kiện sinh hoạt vật chất, do chế độ
xã hội quy đònh và là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt
vật chất của chế độ xã hội nhất đònh. Vì vậy, tư tưởng xã hội
chủ nghóa được đònh nghóa như sau :
Tư tưởng xã hội chủ nghóa là hệ thống những quan niệm

phản ánh nhu cầu, hoạt động thực tiễn và ước mơ của các giai
cấp lao động bò thống trò; phản ánh về con đường, cách thức,
phương pháp đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội trong đó
không có áp bức, bóc lột, bất công, mọi người đều bình đẳng
về mọi mặt, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh.
Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu là tiền đề kinh tế – xã
hội cho sự xuất hiện tư tưởng xã hội chủ nghóa và phong trào
xã hội chủ nghóa của nhân dân lao động
b. Biểu hiện cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghóa
- Tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên, thuộc về
toàn xã hội;
- Ai cũng có việc làm, ai cũng lao động,
- Mọi người bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc;
- Ai cũng có điều kiện cống hiến, hưởng thụ và phát triển
toàn diện .
2 . Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghóa
a. Phân loại theo lòch đại là cách chia lòch sử tư tưởng xã
hội chủ nghóa thành các giai đoạn, tương ứng với các giai đoạn
phát triển của xã hội loài người như: tư tưởng xã hội chủ nghóa
thời kỳ cổ đại và trung đại; tư tưởng xã hội chủ nghóa thời kỳ
phục hưng; tư tưởng xã hội chủ nghóa thời kỳ cận đại; tư tưởng
xã hội chủ nghóa thời kỳ hiện đại.
b. Phân loại theo trình độ phát triển của tư tưởng xã hội
chủ nghóa: chủ nghóa xã hội sơ khai; chủ nghóa xã hội không
tưởng; chủ nghóa xã hội không tưởng - phê phán; chủ nghóa xã
hội khoa học
c. Phân loại theo sự kết hợp giữa lòch đại với trình độ phát
triển của tư tưởng xã hội chủ nghóa. Theo các nhà nghiên cứu
lòch sử Mác xít, không nên tuyệt đối hóa các tiêu chí, mà chỉ
nên coi đó là tiêu chí chủ yếu, cơ bản nhất. Khi phân loại tư

tưởng xã hội chủ nghóa, cần chú ý đến các cấp độ phát triển
nội tại theo kiểu kế thừa, phủ đònh, phát triển của tư tưởng xã
hội chủ nghóa.

8


Với quan niệm này lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa được
chia như sau : Tư tưởng xã hội chủ nghóa thời kỳ cổ đại; Tư tưởng
xã hội chủ nghóa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII; Chủ nghóa
xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX; Chủ nghóa xã
hội khoa học.
II . LƯC KHẢO TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC
MÁC
1 . Tư tưởng xã hội chủ nghóa thời kỳ Cổ đại
Khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm
hữu nô lệ ra đời, kinh tế - xã hội của loài người có sự phát
triển đáng kể, quan hệ hàng hóa – tiền tệ xuất hiện, xã hội
bắt đầu phân chia thành kẻ giàu, người nghèo. Giai cấp chủ nô
cùng với, quý tộc, tăng lữ, con buôn, cho vay nặng lãi hợp
thành lực lượng thống trò. Giai cấp nô lệ và các tầng lớp lao
động khác hợp thành lực lượng bò thống trò, bò áp bức. Do đó,
cuộc đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp bò thống trò chống lại
hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp thống trò là một tất yếu
phản ánh mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất chiếm
hữu nô lệ .
Những tư tưởng xã hội chủ nghóa ở thời kỳ này chủ yếu
thể hiện dưới dạng những mơ ước của người lao động bò áp
bức, bóc lột về một xã hội mới tốt đẹp. Chúng được thể hiện
qua các câu truyện truyền miệng, trong các áng văn chương để

cổ vũ cho các phong trào đấu tranh của những người nô lệ.
Những ước mơ, khát vọng ấy chỉ mới dừng lại ở lòng khao
khát được quay về với “ thời đại hoàng kim” mà sau này được
các thánh kinh gọi là “ giang sơn ngàn năm của chúa”, tức là
muốn quay về với những giá trò của chế độ cộng sản nguyên
thủy như: không có tư hữu, giai cấp, không có áp bức, bóc lột,
mọi người bình đẳng, tự do v.v.
2. Tư tưởng xã hội chủ nghóa thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII
a. Hoàn cảnh lòch sử
Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, loài người có bước
tiến dài trong đời sống kinh tế – xã hội: Sự phân công lao động
trong công trường thủ công, đã tạo ra một tổ chức lao động xã
hội nhất đònh và cùng vời điều đó thì nó cũng đồng thời phát
triển một sức sản xuất mới, có tính chất xã hội, của lao động;
quá trình tích lũy nguyên thũy của chủ nghóa tư bản; phát kiến
đòa lý; sự phát triển của nền công nghiệp tư bản làm xuất
hiện những thành phần đầu tiên của giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản; những cuộc chiến tranh xâm lược của các nước tư
bản đối với các nước còn lại làm cho thò trường tư bản chủ
nghóa được mở rộng; Cách mạng tư sản nổ ra và giành thắng lợi
ở Hà Lan, Anh, Pháp, Hoa Kỳ… chế độ tư bản chủ nghóa dần
dần thay thế chế độ phong kiến ở phần lớn châu Âu và Bắc
Mỹ. Sự tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, xung đột giai

9


cấp diễn ra gay gắt… Những điều kiện và tiền đề ấy, đã làm
tư tưởng xã hội chủ nghóa phát triển sang một thời kỳ mới, với

một trình độ mới, qua công lao và đóng góp của nhiều nhà tư
tưởng vó đại.
b. Các đại biểu xuất sắc và những tư tưởng xã hội chủ
nghóa chủ yếu
- Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII
Chủ nghóa xã hội không tưởng thế kỷ XVI – XVII có nhiều
đại biểu xuất sắc: Tômát Morơ
( 1478 – 1535 ); Tômanđô
Campanenla ( 1568 – 1693 ); Giêrắcdơ Uynxtenli (1609 – 1652). Trong
đó đáng chú ý nhất là Tômát Morơ.
Tômát Morơ ( 1478 – 1535 )
Là người tham gia hoạt động chính trò trong hoàng gia Anh,
ông đã để cho đời sau biết đến như một nhà tư tưởng xã hội
chủ nghóa xuất sắc là cuốn Không tưởng (Utopie). Trong đó đề
cập nhiều nội dung của tư tưởng xã hội chủ nghóa dưới hình
thức văn học. Tư tưởng nổi bật là: Phê phán chế độ phong kiến
phản động và phê phán chủ nghóa tư bản khi nó mới ra đời
(quá trình tích lũy ban đầu); chỉ ra nguyên nhân sâu xa của mọi
tệ nạn xã hội, của tình trạng áp bức, bóc lột, bất công trong
lòng xã hội tư bản là do chế độ tư hữu. Điều quan trọng và rất
căn bản trong các quan niệm xã hội chủ nghóa của ông là ở
chỗ, muốn xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công … cần xóa bỏ
chế độ tư hữu.
Tômô Campanenla ( 1568 -1639)
Là nhà tư tưởng yêu nước người Italia, ông đã viết nhiều
tác phẩm triết học, văn học luận chứng cho tư tưởng tiến bộ
của mình, trong đó tác phẩm Thành phố mặt trời là tiêu biểu.
Ông phủ nhận chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; coi trọng việc
áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; chủ trương thực hiện
phân phối bình quân theo nhu cầu; đề xướng mô hình xã hội

mới, trong đó mọi người bình đẳng, thương yêu nhau và sống tự
do.
Giêrắcdơ Uynxtenli (1609 – 1652)
Sinh trưởng trong gia đình buôn tơ lụa ở nước Anh, ông tự học
là chủ yếu và tích cực tham gia hoạt động xã hội, gắn bó với
dân nghèo.
Sau thắng lợi của Cách mạng tư sản Anh (1640), chủ nghóa tư
bản có điều kiện phát triển mạnh. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh
giành quyền lực giữa phái “Bảo hoàng” và phái “Nghò viện”
vẫn còn gay gắt. Xung đột giữa giai cấp bò áp bức với giai cấp
thống trò diễn ra quyết liệt. Tác phẩm tiêu biểu là cuốn “Luật
tự do”. Trong đó đòi sự bình đẳng cho người lao động trên mọi
phương diện, cả trong kinh tế -xã hội - chính trò; đòi thủ tiêu chế
độ tư hữu về ruộng đất, xây dựng chế độ cộng hòa, trong đó
ruộng đất và sản phẩm lao động làm ra phải là tài sản chung
của toàn xã hội.

10


- Tư tưởng xã hội chủ nghóa không tưởng thế kỷ XVIII
Giăng Mêliê ( 1664 – 1729 )
Sinh ra trong gia đình thợ dệt, học trong các trường dòng. Ông
nghiên cứu sâu tác phẩm triết học của Đềcác. Năm 23 tuổi
đïc phong linh mục,
Tác phẩm nổi bật của ông là cuốn luận văn “Những di
chúc của tôi”. Trong đó nổi lên hai nội dung quan trọng có tính
chất xã hội chủ nghóa. Ông coi hiện tượng bất bình đẳng trong
xã hội không phải là cái tự nhiên ban phát mà là do con người
tạo ra, do đó con người có thể xóa bỏ được nó. Ông cho rằng

người nông dân có thể tự giải phóng bằng đấu tranh cách
mạng lật đổ chế độ phong kiến .
Giắccơ Babớp (1760 -1797)
Trong không khí sục sôi của Cách mạng tư sản Pháp (1789),
nhiều nhà tư tưởng tiểu tư sản có khuynh hướng xã hội chủ
nghóa tham gia vào cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến.
Giai cấp vô sản đã xuất hiện thành một lực lượng và bắt đầu
có nhu cầu tách khỏi khối quần chúng nghèo khổ mà từ đó
nó đã sinh ra. Đại biểu xuất sắc và là một lãnh tụ của lực
lượng chính trò mới này là Giắccơ Babớp. Với sự ra đời của phài
G. Babớp, lần đầu tiên trong lòch sử, vấn đề đầu tranh cho chủ
nghóa xã hội được đặt ra với tính cách một phong trào thực tiễn,
chứ không chỉ là tư tưởng, lý luận, càng không chỉ là khát
vọng, ước mơ về chế độ xã hội mới. G. Babớp đưa ra bản
“Tuyên ngôn của những người bình dân”. như một cương lónh
hành động với những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể, được thực
hiện ngay trong quá trình cách mạng.
Trong thời kỳ này cần chú ý đến các quan niệm tiến bộ
mang tính chất xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ nghóa của F.
Môrenly với tác phẩm “Bộ luật của tự nhiên” và “lý thuyết về
quyền bình đẳng tự nhiên” của G.Mably, v.v..
3. Chủ nghóa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế
kỷ XIX
a . Hoàn cảnh lòch sử
Cuối thế kỷ XVIII là thời kỳ cách mạng tư sản phát triển
rất mạnh. Nền sản xuất công nghiệp đã diễn ra nhanh chóng ở
Anh, một phần châu Âu và Bắc Mỹ làm bộ mặt kinh tế – xã
hội của thế giới biến đổi nhanh chóng. Hai lực lượng xã hội đối
lập nhau ngày càng rõ nét, đó là giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản. Sau khi củng cố được đòa vò thống trò, giai cấp tư sản

bộc lộ bản chất cố hữu của nó là áp bức, bóc lột giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Sự phát triển của nền công
nghiệp làm cho giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, trở
thành lực lượng quan trọng trong lónh vực sản xuất, trong nền kinh
tế. Trước tình trạng bò áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói giai
cấp công nhân buộc phải đứng lên đấu tranh. Trong điều kiện
ấy, một bộ phận trí thức tư sản, tiểu tư sản tiến bộ đã phản

11


ánh lợi ích, khát vọng và cuộc đấu tranh của các giai cấp lao
động vào trong học thuyết xã hội của mình.
b. Các nhà xã hội chủ nghóa không tưởng tiêu biểu
Côlôdơ Hăngri Đơ Xanh Ximông (1760 - 1825)
Ông là người Pháp, sinh ra trong một gia đình quý tộc, từ
nhỏ đã có tính cách đặc biệt. Ông đã tham gia cùng nhân dân
Mỹ chống thực dân Anh và được phong hàm đại tá. Ông viết
nhiều tác phẩm đề cập đến những nội dung có tính chất xã
hội chủ nghóa. Trước hết, ông phê phán tính chất thiếu triệt để
của cách mạng tư sản Pháp (1789) và chỉ ra những bất hợp lý
đang tồn tại trong xã hội tư bản; lý giải sự xuất hiện giai cấp và
xung đột giai cấp; nêu được ý tưởng về sự tiêu vong nhà nước.
Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường ôn hòa, chưa
biết đến vai trò của giai cấp Vô sản.
Sáclơ Phuriê ( 1772 – 1837 )
Sinh ra trong gia đình buôn bán ở nùc Pháp, không được học
hành nhiều nhưng lại có trí thông minh tuyệt vời. Ông nắm rất
vững phép biện chứng trong quan sát và phân tích vấn đề. Ông
đã phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư

bản, trong đó “sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi”.
Theo ông, xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn phát triển:
mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh. Ông dự đoán xã hội
tư bản nhất đònh sẽ bò thay thế bằng một xã hội mới. Ông
phản đối dùng bạo lực và cũng không biết đến vai trò của giai
cấp Vô sản.
Rôbớt Ôoen ( 1771-1858 )
Trong những năm 30 của thế kỷ XIX, ở nước Anh nổ ra
phong trào đấu tranh đòi cải cách tuyển cử có sự tham gia của
đông đảo công nhân và nhân dân lao động Anh. Trong bối cảnh
ấy xuất hiện một nhà cải cách có khuynh hướng cộng sản chủ
nghóa, nhà cải càch ấy là R. oen.
R. oen không chỉ đề xướng và kiến nghò những tư tưởng
có tính chất xã hội chủ nghóa, mà còn đề ra tổ chức thực hiện
tinh thần được nêu trong “ Luật lao động nhân đạo” trong công
xưởng nơi ông làm giám đốc. Bằng kinh nghiệm hoạt động thực
tế ông đánh giá cao vai trò của công nghiệp, của tiến bộ kỹ
thuật đối với sản xuất và phát triển kinh tế. Những chủ trương
có tính nhân đạo mà R. oen thực hiện trong công xưởng của
mình đã mang lại kết quả nhất đònh việc cải thiện đời sống của
công nhân. R. oen là người chủ trương phải xóa bỏ tư hữu vốn
là nguyên nhân của những bất công và tệ nạn xã hội trong
xã hội tư bản.
Bò thất bại và khánh kiệt gia sản do những thực nghiệm đơn
độc của mình ở Hoa Kỳ, R. Ô oen dồn toàn bộ sức lực và thời
gian còn lại của cuộc đời vào hoạt động trong phong trào của giai
cấp công nhân Anh.

12



4 . Những giá trò lòch sử và những hạn chế của chủ
nghóa xã hội không tưởng
a. Giá trò lòch sử của chủ nghóa xã hội không tưởng
- Học thuyết của các nhà xã hội chủ nghóa không tưởng
đều chứa đựng tinh thần nhân đạo cao cả. Nhìn chung đều chưa
vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản, nhưng ở giai đoạn đầu thế
kỷ XIX một số nhà xã hội chủ nghóa không tưởng đã có nhiều
luận điểm có giá trò vượt lên trên tinh thần nhân đạo tư sản.
- Với những mức độ khác nhau, nhìn chung tư tưởng xã hội
chủ nghóa trong các thời kỳ này đều thể hiện tinh thần phê
phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản
chủ nghóa đương thời.
- Qua các học thuyết của mình, các nhà xã hội chủ nghóa
không tưởng đã để lại nhiều luận điểm có giá trò về sự phát
triển của xã hội tương lai mà sau này các nhà chủ nghóa xã
hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc và chứng minh trên cơ sở
khoa học. Đó là những luận điểm về tổ chức sản xuất và
phân phối sản phẩm xã hội; về vai trò của công nghiệp và
khoa học – kỹ thuật; về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động chân
tay và lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai
trò lòch sử của nhà nước,v.v..
- Các nhà xã hội chủ nghóa không tưởng không chỉ đơn
thuần phản ánh về mặt tư tưởng, mà một số ông đã thực sự
“xả thân” hoạt động trong thực tiễn để thức tỉnh giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, từ đó quan sát, phát hiện ra nhiều
những giá trò tư tưởng mới .
b. Hạn chế lòch sử của chủ nghóa xã hội không tưởng
- Do ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghóa duy lý và chân lý
vónh cửu, nên hầu hết các nhà xã hội chủ nghóa không tưởng

đều chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm về lòch sử. Các ông cho
rằng, chân lý vónh cửu (tức xã hội tốt đẹp) đã có sẵn và
đang tồn tại ở đâu đó, chỉ cần người tài ba phát hiện và
thuyết phục mọi người là xây dựng được một xã hội mới tốt
đẹp.
- Hầu hết các nhà xã hội chủ nghóa không tưởng đều có
khuynh hướng cải tạo xã hội bằng con đường ôn hòa như tuyên
truyền pháp luật, thực nghiệm xã hội, thậm chí có ông còn hy
vọng vào sự “từ tâm” - “từ thiện” của người giàu và những kẻ
đang nắm trong tay quyền lực. Một số ông có chủ trương khởi
nghóa nhưng chưa phải là quá trình chuẩn bò thật sự tự giác, nên
đều đi đến thất bại.
- Các ông đều không giải thích được bản chất của chế độ
nô lệ làm thuê tư bản, không phát hiện được những quy luật
nội tại chi phối con đường, cách thức cho những chuyển biến tiếp
theo của xã hội.
- Các ông đều không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên
phong có thể thực hiện được sự chuyển biến cách mạng từ chủ

13


nghóa tư bản lên chủ nghóa xã hội và chủ nghóa cộng sản, mặc
dù lực lượng ấy đã được sinh ra và lớn lên cùng với nền đại
công nghiệp tư bản - đó là giai cấp công nhân .
c. Nguyên nhân của những hạn chế
- Những trào lưu xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ nghóa
không tưởng ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản
phát triển chưa đầy đủ, nền công nghiệp lớn mới chỉ bắt đầu
rõ nét ở nước Anh. Do đó, mâu thuẫn giữa giai Vì vây những

thủ đoạn để giải quyết mâu thuẫn ấy cũng chưa xuất hiện đầy
đủ và rõ nét .
- Trong điều kiện kinh tế - xã hội như vậy thì lý luận về
chủ nghóa xã hội và chủ nghóa cộng sản của các ông cũng
chưa thể chín muồi. Do những hạn chế của các nhà xã hội chủ
nghóa ở thời kỳ này, nên các tư tưởng về chủ nghóa xã hội
trước Mác được gọi là chủ nghóa xã hội không tưởng.
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI KHOA HỌC
1 . Sự hình thành của chủ nghóa xã hội khoa học
a . Điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời
chủ nghóa xã hội khoa học
- Điều kiện kinh tế – xã hội
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư
bản phát triển mạnh gắn liền với sự ra đời của nền công
nghiệp lớn làm cho giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng.
Bộ phận công nhân công nghiệp ngày càng đông và trở thành
hạt nhân trong giai cấp công nhân. Vì vậy, cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản - biểu hiện về mặt xã
hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất tư bản ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc khởi nghóa, nhiều
phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức chặt chẽ, có quy
mô lớn và quyết liệt, nhưng đều đi đến thất bại.
Chính điều kiện kinh tế - xã hội ấy đòi hỏi cần có lý luận
tiên phong để dẫn đường - điều mà các nhà xã hội chủ nghóa
không tưởng đương thời đã không thể đảm đương được. Đồng
thời, điều kiện kinh tế - xã hội không chỉ đặt ra yêu cầu đối
với các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn là mảnh
đất hiện thực để các ông nghiên cứu, khái quát hình thành
nên hệ thống lý luận mới để hướng dẫn cuộc đấu tranh của

giai cấp công nhân
- Tiền đề văn hóa và tư tưởng.
Đến đầu thế kỷ XIX nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trên lónh vực khoa học, văn hóa và tư tưởng :
Trong khoa học tự nhiên có ba phát minh quan trọng: đònh luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; học thuyết tế bào; học
thuyết tiến hóa của Đác Uyn. Những phát minh này đã tạo cơ
sở để C.Mác – Ph.Ăngghen khẳng đònh quan điểm duy vật của

14


mình khi phân tích, giải thích những vấn đề của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Trong khoa học xã hội có ba thành tựu lớn: nền triết học cổ
điển Đức mà người tiêu biểu là Phoiơbắc và Hêghen; của kinh tế
chính trò học cổ điển Anh mà người tiêu biểu là A.Smíth và
Đ.Ricarđô; các học thuyết xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ
nghóa không tưởng – phê phán mà người tiêu biểu là H.Xanh
Ximông, S.Phuriê, R.oen. Những thành tựu này đã tạo điều kiện
để C.Mác – Ph.Ăngghen kế thừa những tư tưởng tiến bộ trong
quá trình xây dựng học thuyết của mình.
b . Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra
đời của chủ nghóa xã hội khoa học
C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen (1820-1895)
C.Mác và Ph.Ăngghen sinh trưởng trong một quốc gia có nền
triết học phát triển rực rỡ, nổi bật là chủ nghóa duy vật của L.
Phoiơbắc và phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bản thân hai
ông là người có trí tuệ uyên bác nên đã tiếp thu được các giá
trò của nền triết học cổ điển Đức và kho tàng tư tưởng, lý luận

của loài người. Hai ông sớm gắn bó với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động nên đã hiểu được bản chất các sự kiện kinh
tế - chính trò, chính trò - xã hội đang diễn ra trong lòng xã hội tư
bản.
C.Mác - Ph.Ăngghen đã kế thừa được các thành tựu khoa
học đến giữa thế kỷ XIX. Trên cơ sở quan sát, phân tích những sự
kiện đang diễn ra, hai ông từng bước hình thành nên học thuyết
xã hội mới, đưa các giá trò lý luận nói chung, tư tưởng xã hội
chủ nghóa nói riêng, lên một trình độ mới về chất.
Qua hoạt động thực tiễn đến những năm 40 của thế kỷ XIX,
C.Mác - Ph.Ăngghen có hai phát kiến vó đại là: chủ nghóa duy vật
lòch sử và học thuyết về giá trò thặng dư. Hai phát kiến này đã
lý giải một cách khoa học sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân, đã khắc phục một cách triệt để những hạn chế của các
nhà xã hội chủ nghóa không tưởng.
Cùng với các tác phẩm khác như: Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen; Tình cảnh giai cấp lao động ở
Anh; Hệ tư tưởng Đức; Những nguyên lý của chủ nghóa cộng
sản. Đặc biệt sự ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” vào năm 1848 được coi là mốc ghi nhận sự hình thành về cơ
bản những nguyên lý của chủ nghóa xã hội khoa học - bộ phận
thứ ba trong học thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen.
Như vậy, chủ nghóa xã hội khoa học không phải là sản
phẩm ngẫu nhiên của một bộ óc thiên tài mà là kết quả tất
yếu của sự vận động lòch sử làm nảy sinh giai cấp công nhân,
giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp này. Nhiệm vụ
của chủ nghóa xã hội khoa học là tìm trong thực tế những lực
lượng, phương thức, điều kiện …nhằm giải quyết xung đột giai

15



cấp nhằm đảm bảo cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
đi đến thắng lợi.
2 . Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ
nghóa xã hội khoa học
a . C.Mác- Ph.ngghen đặt nền móng và phát triển chủ
nghóa xã hội khoa học ( 1844 – 1895 )
Quá trình xây dựng, phát triển Chủ nghóa xã hội khoa học
của C.Mác-Ph.Ăngghen được chia thành ba thời kỳ :
- Thời kỳ thứ nhất từ 1844 đến 1848
Là thời kỳ hai ông chuyển từ chủ nghóa dân chủ cách
mạng sang chủ nghóa xã hội, chuyển từ chủ nghóa duy tâm sang
chủ nghóa duy vật biện chứng. Những tác phẩm tiêu biểu trong
thời kỳ này: Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen; Bản thảo kinh tế – triết học 1844; tình
cảnh giai cấp lao động ở Anh; Hệ tư tưởng Đức; Sự khốn cùng
của Triết học …
Đặc biệt, sự xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” 1848 đã đánh dấu sự hình thành cơ bản những
nguyên lý của chủ nghóa xã hội khoa học
- Thời kỳ thứ hai từ 1848 đến 1871
Là thời kỳ diễn ra những sự kiện của cách mạng dân chủ
tư sản ở Tây Âu (1848 – 1851 ); Quốc têù I được thành lập (1864);
Nổi bật là sự ra đời tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng đònh
thêm một cách vững chắc đòa vò kinh tế – xã hội và vai trò lòch
sử của giai cấp công nhân.
Từ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân,
Mác đã rút ra nhiều kết luận quan trọng như phải đập tan bộ
máy nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước mới; xây dựng học

thuyết về cách mạng không ngừng, về vai trò chính Đảng của
giai cấp công nhân; về liên minh giai cấp …
- Thời kỳ thứ ba từ 1871 đến 1895
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, hai ông đã
phát triển chủ nghóa xã hội khoa học qua các tác phẩm chủ
yếu ở thời kỳ này như Nội chiến ở Pháp; Phê phán cương lónh
Gôta; Chống Đuyrinh; Sự phát triẻn của chủ nghóa xã hội từ
không tưởng đến khoa học; Nguồn gốc của gia đình của chế độ
tư hữu và của nhà nước …
Cũng như các khoa học khác, chủ nghóa xã hội khoa học là
một hệ thống tri thức, trong đó có những tri thức phản ánh bản
chất của khách thể, chúng tồn tại mãi mãi với thời gian và
không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Còn các tri thức về
cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng các quy luật
ấy có thể thay đổi theo những hoàn cảnh lòch sử cụ thể. Không
được cho rằng những hạn chế, nhược điểm, thậm chí sai lầm
trong cách thức, biện pháp là những sai lầm của cả tri thức
phản ánh quy luật đã được nhận thức, cũng giống như không
thể vì thất bại của hàng nghìn lần thí nghiệm của đixơn nhằm

16


sáng chế ra đền điện mà lại nói rằng nguyên lý về sự có thể
chuyển điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.
b. V.I.Lênin phát triển và vận dụng chủ nghóa xã hội khoa học
trong hoàn cảnh lòch sử mới
V.I.Lênin ( 1870–1924 )
Là người kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng và khoa
học của C.Mác- Ph.Ăngghen trong hoàn cảnh lòch sử mới: chủ

nghóa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghóa đế quốc. Sự vận
dụng và phát triển chủ nghóa xã hội khoa học của Lênin được
chia làm hai thời kỳ:
- Trước cách mạng Tháng Mười Nga: Trên cơ sở kế thừa
những nguyên lý cơ bản của chủ nghóa xã hội khoa học, đồng
thời từ sự phân tích, tổng kết các sự kiện diễn ra trong đời sống
kinh tế - xã hội, Lênin đã bổ sung và phát triển nhiều nguyên
lý cơ bản của chủ nghóa xã hội khoa học như: tri thức về Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân; về nguyên tắc tổ chức, cương
lónh, chiến lược, sách lược trong nội dung hoạt động của Đảng
Cộng sản; về cách mạng xã hội chủ nghóa và chuyên chính vô
sản; về vấn đề dân tộc, tôn giáo; về vấn đề liên minh công
nông; về quan hệ quốc tế …
- Sau Cách mạng Tháng Mười Nga : Do yêu cầu của công
cuộc xây dựng chế độ mới, Lênin đã phân tích làm rõ nội
dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội; xác
đònh cương lónh xây dựng chủ nghóa xã hội; xây dựng và tổ chức
thực hiện các chính sách kinh tế; xác đònh chính sách kinh tế
mới nhằm sử dụng và học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý
kinh tế của chủ nghóa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông
lạc hậu của nước Nga Xô viết…
Trong thời kỳ này, Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển
trong đó nêu ra và luận giải một loạt những vấn đề cơ bản của
chủ nghóa xã hội khoa học. Lênin đã đấu tranh chống lại mọi
trào lưu của chủ nghóa cơ hội - xét lại, giáo điều và bệnh “tả
khuynh” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Với những thành quả đó, Lênin trở thành một thiên tài
khoa học, một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới.
c. Các Đảng Cộng sản vận dụng và phát triển chủ nghóa

xã hội khoa học từ sau khi Lênin từ trần ( 1924 ) đến nay
Từ sau khi Lênin từ trần đến nay, chủ nghóa xã hội khoa
học và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới
đã trải qua nhiều thử thách, đã có được những thành tựu vó đại
đồng thời cũng có những tổn thất to lớn. Có thể nêu vắn tắt
những nội dung cơ bản phản ánh sự vận dụng, phát triển chủ
nghóa xã hội khoa học trong giai đoạn này như sau:
- Mọi thắng lợi của nhân dân lao động, của cách mạng thế
giới trong thế kỷ XX là do các Đảng cộng sản và công nhân
quốc tế đã vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghóa

17


xã hội khoa học vào thực tiễn ở mỗi nước cũng như của cả hệ
thống xã hội chủ nghóa thế giới. Đồng thời từ tổng kết thực
tiễn xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, các Đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc
phát triển, bổ sung và hoàn thiện chủ nghóa xã hội khoa học cả
về mặt lý luận, cũng như phương hướng, giải pháp, chủ trương
chính sách.
- Sự phát triển rực rỡ của chủ nghóa xã hội hiện thực từ
những năm 20 đến những năm 70 của thế kỷ XX và sau đó là
sự sụp đổ chủ nghóa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là minh
chứng cho sự thành công và thất bại của sự vận dụng các
nguyên lý, quy luật của chủ nghóa xã hội khoa học vào thực
tiễn.
- Từ những thành công và thất bại của chủ nghóa xã hội
hiện thực, cần nghiêm túc phân tích rút ra những bài học kinh
nghiệm, qua đó tìm ra được phương thức, biện pháp, đúng đắn,

chủ trương chiến lược và sách lược hợp lý trong hoàn cảnh mới,
tiếp tục bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghóa xã hội khoa học
nhằm thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã hội mới: chế
độ xã hội xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ nghóa.
d. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và phát triển
chủ nghóa xã hội khoa học.
Lòch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho
thấy, những thắng lợi của cách mạng luôn gắn liền với quá
trình vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghóa xã hội khoa học
trong những điều kiện lòch sử cụ thể của thời đại, trên cơ sở
thực tiễn Việt Nam.
Trong sự nghiệp vó đại ấy, sự xuất hiện và cống hiến của
Chủ tòch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghóa Mác - Lênin. Những đóng góp, bổ sung và phát
triển, cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghóa xã hội khoa học
của Chủ tòch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể
tóm tắt ở một số nội dung cơ bản sau:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội là quy
luật của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trò, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trò; giữ vững sự ổn đònh chính trò, tạo
điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới, phát triển kinh
tế, xã hội .
- Xây dựng và phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa phải đi đơi với tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước. Giải quyết đúng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội. Xây dựng, phát triển kinh tế
phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái.


18


- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
phát huy sức mạnh của mọi giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần
dân tộc, tôn giáo, mọi công dân Việt Nam kể cả người Việt
Nam ở nước ngoài.
- Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân
dân thế giới; khai thác mọi khả năng có thể khai thác nhằm
mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
.
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam – nhân tố quyết đònh hàng đầu đảm bảo thắng
lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ
lên chủ nghóa xã hội ở Việt Nam.
Thực tiễn 20 năm đổi mới Đảng ta đã rút ra một số bài
học lớn góp phần phát triển chủ nghiã xã hội khoa học.
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên đònh mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội trên nền tảng chủ
nghiã Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
Bốn là, Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trò, xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghóa, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân./

19


CHƯƠNG III
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ
bản nhất của chủ nghóa xã hội khoa học. V. I. Lênin xác đònh: “
Điểm chủ yếu trong học thuyết của C. Mác là ở chỗ nó làm
sáng rõ vai trò lòch sử thế giới của giai cấp vô sản là người
xây dựng xã hội xã hội chủ nghóa”(1).
I . KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Quan niệm của chủ nghóa Mác – Lênin về giai cấp
công nhân
Khi nghiên cứu học thuyết cải tạo thế giới, C. Mác và Ph.
ngghen đã đặt ra: “ Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra
là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp
vô sản buộc phải làm gì về mặt lòch sử”(2).
Mác-Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô
sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào bán sức lao động
của mình; lao động làm thuê ở thế kỷ XIX; giai cấp vô sản hiện
đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công nhân đại công
nghiệp… Như những cụm từ đồng nghóa để biểu thò một khái
niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghóa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
cho phương hức sản xuất hiện đại.
----------------------------------1. V.I.Lênin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.

23.tr.1.
2. C.Mác và Ph. ngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trò qg. HN.
1995, t.2, tr. 56
Dù tên gọi khác nhau, nhưng theo C.Mác – Ph.ngghen, giai
cấp công nhân mang hai thuộc tính cơ bản :
Thư nhất, xét về phương thức lao động và phương thức sản
xuất, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp, hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công
nghiệp, ngày càng hiện đại và mang tính xã hội hoá cao.
C. Mác và Ph. ngghen: “ Các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”(1); “ Công nhân cũng là một phát minh của thời đại
mới, giống như máy móc vậy… Công nhân Anh là đứa con đầu
lòng của nền công nghiệp hiện đại”(2).
Thứ hai, xét về vò trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghóa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bò nhà tư bản bóc lột
giá trò thặng dư. ( Đây là đặc trưng cơ bản của giai cấp công

20


nhân trong xã hội tư bản. Vì vậy C.Mác – Ph.Ăngghen thường sử
dụng khái niệm giai cấp vô sản ) .
Ngày nay với sự phát triển của chủ nghóa tư bản và sự
phát triển của khoa học – công nghệ, giai cấp công nhân đã có
nhiều thay đổi so với thời kỳ của C.Mác, cụ thể như sau :
- Bên cạnh bộ phận công nhân của nền công nghiệp cơ khí,
đã xuất hiện bộ phận công nhân trong nền công nghiệp tự

động hóa, họ áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản
xuất.
---------------------------------------1. Sđd. T. 4, tr. 610
2. Sđd. T. 12, tr. 11
- Xuất hiện bộ phận công nhân dòch vu. Bộ phận nà gắn
trực tiếp với nền sản xuất công nghiệp và họ hoạt động theo
lối công nghiệp.
- Giai cấp công nhân có trình độ mọi mặt ngày càng cao.
Ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức tham gia vào
quá trình sản xuất vật chất trở thành công nhân, bộ phận
công nhân bán sức lao động trí óc ngày càng nhiều., giá trò
thặng dư do giai cấp công nhân làm ra cho nhà tư bản ngày càng
lớn.
- Mộât số công nhân có tư liệu sản xuất phụ tại gia đình, một
bộ phận công nhân có cổ phần ở nhà máy, đời sống của
công nhân được cải thiện và một bộ phận được nâng cao.
Giai cấp công nhân tuy có những thay đổi to lớn như đã
nêu ở trên nhưng điều đó không hề làm thay đổi bản chất xã hội tư
bản, cũng như không làm giảm vai trò của giai cấp công nhân
trong nền kinh tế và tỷ trọng của họ trong dân cư .
Như vậy, theo quan niệm của C.Mác, những người lao động
trong các ngành sản xuất công nghiệp, dòch vụ trực tiếp cho sản
xuất công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công
ăn lương trong các ngành khác không liên quan trực tiếp đến sản
xuất công nghiệp, như : y tế, văn hoá, giáo dục… là người lao
động nói chung.
2. Đònh nghóa giai cấp công nhân
Căn cứ vào hai thuộc tính của giai cấp công nhân theo quan
điểm của C. Mác và Ph. ngghen; căn cứ những biến đổi của
giai cấp công nhân thời đại hiện nay, chúng ta có thể đònh nghóa:

Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn đònh, hình
thành phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, với nhòp độ phát triển của lực lượng sản xuất
có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ
bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dòch vụ công nghiệp,
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái
sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên

21


tiến trong thời đại hiện nay. Đòa vò kinh tế – xã hội tùy thuộc và
chế độ xã hội đương thời.
- Ở những nước tư bản chủ nghóa, giai cấp công nhân về
cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản
và bò bóc lột giá trò thặng dư.
- Ở những nước xã hội chủ nghóa, giai cấp công nhân
cùng với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất
chủ yếu và giữ vai trò lãnh đạo quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghóa.
II. NỘI DUNG VÀ ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1 . Nội dung sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân
Nêu một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lòch sử của
giai cấp công nhân là : xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghóa; xoá
bỏ chế độ người bóc lột người; tự giải phóng giải mình, giải
phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu; xây dựng xã hội cộng sản
văn minh. Ph. ngghen viết: Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế

giới ấy, – đó là sứ mệnh lòch sử của giai cấp vô sản hiện đại.
2. Những điều kiện khách quan quy đònh sứ mệnh lòch
sử của giai cấp công nhân
Luận thuyết về sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân được
C. Mác và Ph. ngghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ những điều
kiện khách quan quy đònh sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân.
- Thứ nhất : Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất
gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến trong xã hội tư bản. Vì
vậy, sự phát triển giai cấp công nhân (tức sự phát triển của
lực lượng sản xuất) tất yếu sẽ phá vỡõ quan hệ sản xuất tư
bản. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho
sự tiến bộ của lòch sử sẽ lãnh đạo các giai cấp lao động xây
dựng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn phương thức
sản xuất tư bản chủ nghóa .
- Thứ hai : Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất
công nghiệp hiện đại, do đó, giai cấp công nhân có xu hướng
ngày càng đông. Do được rèn luyện trong nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, nên trình độ mọi mặt của giai cấp công nhân
ngày càng cao. Đống thời chính nền sản xuất công nghiệp hiện
đại đã đoàn kết và tổ chức giai cấp công nhân thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh.
- Thứ ba : Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân không có
tư liệu sản xuất, phải đi làm thuê, bò giai cấp tư sản áp bức,
bóc lột nặng nề, họ là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp
tư sản. Vì vậy, xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt
để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghóa.

22



Điều kiện sinh hoạt khách quan của giai cấp công nhân quy
đònh rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng
toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghóa. Trong cuộc cách
mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới
về mình.
- Thứ tư : Đòa vò kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến
giai cấp công nhân trở thành giai cấp duy nhất có sứ mệnh lòch
sử, mà còn tạo cho giai cấp công nhân những khả năng để họ
hoàn thành sứ mệnh lòch sử : đó là khả năng đoàn kết, thống
nhất giai cấp, khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động,
các dân tộc bò áp bức trên thế giới; khả năng giác ngộ về
đòa vò lòch sử của gia cấp mình; khả năng hành động để từng
bước đạt mục tiêu của cách mạng; khả năng đi đầu trong cuộc
đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới.
Lòch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C.Mác,
Ph.ngghen và V.I.Lênin về sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh nhằm thực hiện sứ
mệnh lòch sử của giai cấp công nhân không diễn ra một cách
bằng phẳng, dễ dàng. Sau sự sụp đổ CNXH hiện thực ở Liên Xô
và Đông u, phong trào công nhân thế giới đang đứng trước
những khó khăn, thử thách to lớn. Tuy nhiên xét về toàn bộ sự
phát triển của xã hội loài người thì giai cấp công nhân - lực
lượng sản xuất tiến bộ nhất của thời đại, vẫn đang ngày càng
hoàn thiện những điều kiện khách quan cho việc thực hiện sứ
mệnh lòch sử của mình.
III. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một

cách khách quan. Song, để nó trở thành hiện thực thì phải thông
qua hoạt động của nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân.
Trong những nhân tố chủ quan, việc thành lập ra Đảng Cộng sản
trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu
tố quyết đònh nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể
hoàn thành sứ mệnh lòch sử của mình.
1. Bản thân giai cấp công nhân
Trong suốt quá trình lòch sử hình thành và phát triển; giai
cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành về
mọi mặt, cụ thể như:
Về số lượng, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền
sản xuất công nghiệp hiện đại nên nó không ngừng tăng lên
rõ rệt ở tất cả các nước, ở các lónh vực, kể cả trong “ nền
kinh tế tri thức”. Sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp
hiện đại làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, vì vậy cơ cấu giai
cấp công nhân ngày càng đa dạng (Theo Tổ chức lao động Quốc
tế (ILO) năm 1900 toàn thế giới có 80 triệu công nhân; năm
1990 có 600 triệu; năm 1998 có 800 triệu, …).

23


Về chất lượng, sự phát triển của khoa học - công nghệ và
nền sản xuất công nghiệp hiện đại làm cho trình độ học vấn,
trình độ tay nghề, trình độ nghiệp vụ, trình độ nhận thức, trình độ
tổ chức sản xuất của giai cấp công nhân ngày càng cao.
Là hiện thân của phạm trù lao động trong nền sản xuất
công nghiệp tư bản chủ nghóa, giai cấp công nhân bò giai cấp tư
sản bóc lột giá trò thặng dư để làm tăng tư bản của chúng
lên; giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau

của cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh của họ chống giai
cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.
Thoạt đầu, cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công
nhân riêng lẻ, kế đến là những công nhân cùng một công
xưởng, và sau đó là bởi những công nhân cùng một ngành
công nghiệp, cùng một đòa phương chống lại người tư sản trực
tiếp bóc lột họ. Việc tăng thêm phương tiện giao thông do đại
công nghiệp tạo ra giup cho công nhân các đòa phương tiếp súc
với nhau. Sự tiếp súc đó đã tập trung nhiều cuộc đấu tranh đòa
phương, đâu đâu cũng mang tính chất giống nhau, thành một cuộc
đấu tranh toàn quốc, thành một cuộc đấu tranh giai cấp. Bất cứ
cuộc đầu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu tranh chính
trò. Từ đấu tranh kinh tế trước mắt như: đập phá máy móc, đình
công, bãi công… Nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân
phát triển mạnh trong các nước tư bản chủ nghóa, tiêu biểu là:
Phong trào hiến chương ở Anh, khởi nghóa công nhân Li – ng ở
Pháp, khởi nghóa công nhân Xi – Lê – Di ở Đức… Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân có tổ chức, là bước chuyển phong
trào công nhân sang hoạt động chính trò, đấu tranh chính trò, thông
qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn. Sự tổ chức của
những người vô sản thành giai cấp phát triển cao, dẫn đến hình
thành chính đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản.
1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng
của giai cấp công nhân .
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát
triển mạnh, đòi hỏi sự ra đời lý luận khoa học dẫn đường. C.
Mác và Ph. ngghen, hai nhà khoa học và cách mạng thiên tài
đã sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của sự phát
triển lòch sử. Chủ nghóa Mác phản ánh đúng lỳ luận của phong

trào công nhân, chỉ ra một cách đúng đắn con đường, điều
kiện, biện pháp… để giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng
xã hội. Vì vậy, nó được giai cấp công nhân tiếp thu nhanh chóng
và coi đó là “ vũ khí lý luận” của giai cấp mình.
Khi lý luận của Chủ nghóa Mác thâm nhập vào phong trào
công nhân, bộ phận ưu tú trong giai cấp công nhân tiếp thu
được, họ dựa vào lý luận của chủ nghóa Mác để xây dựng cương
lónh, đường lối, chiến lược, sách lược. Họ đứng ra tổ chức, lãnh
đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở nước mình. Chính

24


bộ phận ưu tú trong giai cấp công nhân đã hình thành nên chính
Đảng của giai cấp công nhân ở mỗi nước - đó là Đảng Cộng
sản.
V.I. Lênin đã khái quát, Đảng Cộng sản là sự kết hợp
phong trào công nhân với chủ nghóa xã hội khoa học.
Sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân là tất
yếu. Tuy nhiên ở mỗi nước, sự kết hợp ấy lại được thực hiện
bằng những con đường khác nhau tuỳ theo điều kiện lòch sử cụ
thể. Đối với những nước thuộc đòa, nửa thuộc đòa, sự hình thành
chính Đảng của giai cấp công nhân (Đảng Cộng sản) thường là
sự kết hợp giữa Chủ nghóa Mác Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước chân chính.
Khi Đảng Cộng sản ra đời và giữ được vai trò lãnh đạo, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách là một
giai cấp thực sự cách mạng. Do đó, sự ra đời của Đảng cộng sản
là nhân tó quyết đònh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lòch sử của

giai cấp công nhân.
3. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công
nhân
Đảng chính trò là tổ chức cao nhất của một giai cấp, nó
đại biểu tập trung cho nguyện vọng, trí tuệ, lợi ích của giai cấp
đó. Đối với giai cấp công nhân đó là Đảng Cộng sản, mối
quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân được thể
hiện như sau :
- Đảng Cộng sản không những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích
của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân
dân lao động và dân tộc.
Đảng Cộng sản là tổ chức chính trò cao nhất, chặt chẽ
nhất của giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là
bộ tham mưu có trình độ lý luận cao nhất, vững vàng, kiên đònh
về lập trường giai cấp, có đường lối chiến lược và sách lược
đúng đắn,
để lãnh đạo giai cấp công nhân và cả dân tộc
hoàn thành sứ mệnh lòch sử của mình.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của Đảng
Cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng làm cho Đảng Cộng sản
tồn tại và lớn mạnh. Do đo,ù giữa Đảng Cộng sản và giai cấp
công nhân có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những
đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công
nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh của giai cấp
công nhân, phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
và phải phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Theo quan điểm của đảng ta: Với một Đảng Cộng sản chân
chính, thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân đối với toàn xã hội.


25


×