Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Bài giảng môn Giáo dục học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.73 KB, 117 trang )

BÀI GIẢNG:
GIÁO DỤC HỌC


PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
Chương I
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. Đối tượng – Nhiệm vụ – Phương pháp nghiên cứu GDH
1.1.1. Đối tượng của giáo dục học
Đối tượng nghiên cứa của giáo dục học là một quá trình sư phạm toàn vẹn hay là quá
trình giáo dục tổng thể, cụ thể: nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình
giáo dục con người và trên cơ sở đó thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và các
hình thức tổ chức quá trình đó nhằm đạt tới kết quả tối ưu trong những điều kiện xã
hội nhất định. Quá trình giáo dục giáo dục chính là: quá trình toàn vẹn hình thành
nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt
động và quan hệ giữa người với người giáo dục và người được giáo dục, nhằm
truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Quá trình giáo dục tổng thể này bao gồm nhiều quá trình bộ phận hợp thành như quá
trình giáo dục (hẹp), dạy học, giáo dưỡng…
1.1.2. Nhiệm vụ: ( HD SV tự học)
Giáo dục học là một khoa học cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Giải thích nguồn gốc phát sinh, phát triển và bản chất của hiện tượng giáo dục, phân
biệt, các mối quan hệ có tính quy luật và tính ngẫu nhiên. Tìm ra các quy luật có chi
phối quá trình giáo dục để tổ chức chúng đạt hiệu quả tối ưu.
- GDH nghiên cứu, dự báo tương lai gần và tương lai xa của GD, nghiên cứu xu thế
phát triển và mục tiêu chiến lược của giáo dục trong mỗi giai đoạn phát triển của XH
để xây dựng chương trình giáo dục và đào tạo.
- Nghiên cứu xây dựng lý thuyết GD mới, hoàn thiện các mô hình giáo dục, dạy học,
phân tích kinh nghiệm giáo dục, tìm ra con đường ngắn nhất và các phương tiện để
áp dụng chúng vào thực tiễn giáo dục.



- Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và công nghệ, GDH còn nghiên cứu tìm tòi
các phương pháp và phương tiện GD mới nhằm nâng cao hiệu quả GD.
- Ngoài ra còn một số nhiệm vụ khác như: kích thích tính tích cực học tập của học
sinh, nguyên nhân của việc kém nhận thức, các yếu tố lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh, tiêu chuẩn giáo viên..v..v.)
1.1.3. Phương pháp
1.1.3.1.. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục.
* Khái niệm về PPNC KHGD
- Phương pháp nghiên cứu khoa học là những con đường, cách thức để giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu, đồng thời được coi là công cụ để nhận thức khoa học.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học là tổ hợp các thao tác, biện pháp thực tiễn hoặc
lý thuyết mà nhà khoa học sử dụng để nhận thức, khám phá đối tượng tạo ra những
kiến thức về đối tượng.
* Mục đích: Nhận thức và cải tạo thế giới
* Chức năng:
- Mô tả: thực trạng các sự vật hiện tượng
- Giải thích: nguồn gốc phát sinh, phát triển, hủy diệt của svht, nguyên nhân, cấu
trúc, so sánh, mâu thuẩn…
- Dự báo: đưa ra tiên đoán, dự kiến về một sự vật, hiện tượng trong tương lai.
- Giải pháp: đưa ra các giải pháp phù hợp.
1.1.3.2. Các giai đoạn cơ bản của một quá trình nghiên cứu.
* Giai đoạn chuẩn bị:
- Xác định tên đề tài


- Xây dựng đề cương nghiên cứu
- Lựa chọn các phương pháp nghiên cứu.
- Chuẩn bị những cơ sở vật chất và kỹ thuật cho quá trình nghiên cứu
* Giai đoạn thực hiện công trình

- Thu thập số liệu thông qua nghiên cứu lý luận
- Điều tra khảo sát thực tiễn
- Xử lý thông tin
- Tổ chức thực nghiệm khoa học ( nếu có)
- Viết công trình nghiên cứu
+ Lời mở đầu
+ Nội dung
+ Kết luận
+ Danh mục tài liệu tham khảo
+ Phụ lục.
* Giai đoạn nghiệm thu bảo vệ công trình
- Viết tóm tắt công trình
- Trình bày kết quả nghiên cứu trước hội đồng.
1.1.3.3. Các phương pháp nghiên cứu khoa học Giáo dục


Quan sát sư phạm, Thực nghiệm khoa học, Tổng kết kinh nghiệm, Trò chuyện,
phỏng vấn, Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của đối tượng, Điều tra, trắc nghiệm.
Sau đây chúng ta nghiên cứu sơ lược một số phương pháp nêu trên.
1.1.3.3.1- Phương pháp quan sát.
* Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích các hiện tượng sư phạm hoặc quá
trình giáo dục để thu lượm số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến
của hiện tượng đó.
* Dựa vào quan hệ giữa người quan sát và đối tượng quan sát mà có các loại quan
sát sau: Quan sát trực tiếp, Quan sát gián tiếp, Quan sát tự nhiên, Quan sát kín đáo.
* Dựa vào thời gian và không gian, có các loại sau: Quan sát liên tục, Quan sát gián
đoạn, Quan sát theo đề tài tổng hợp, Quan sát theo chuyên đề.
* Khi quan sát thì cần chú ý các yêu cầu sau :
- Có mục đích rõ ràng khi tiến hành quan sát.
- Khéo léo, kín đáo.

- Thu thập tài liệu phải trung thục, chính xác.
- Kết hợp các phương tiện kỹ thuật khi quan sát ....
1.1.3.3.2. Phương pháp trò chuyện.
* Trò chuyện là phương pháp dùng lời để tìm hiểu, khai thác đối tượng nghiên cứu.
Phỏng vấn cũng là một kiểu trò chuyện, song có sự định hướng trong trao đổi ý kiến,
nhà nghiên cứu đặt câu hỏi, đối tượng trả lời.
* Khi sử dụng phương pháp này cần đảm bảo các yêu cầu sau:


- Nắm được đặc điểm tâm lý đối tượng.
- Xắc định mục đích buổi trò chuyện.
- Trước khi trò chuyện cần tạo ra không khí vui vẻ cởi mở..
1.1.3.3.3 . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
* Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đem lý luận phân tích thực tiễn
giáo dục, rồi từ phân tích thực tiễn giáo dục mà rút ra lý luận giáo dục mới.
* Kinh nghiệm giáo dục có thể là :
- Kinh nghiệm giảng dạy.
- Kinh nghiệm giáo dục
- Kinh nghiệm tổ chức sinh hoạt tập thể.
- Kinh nghiệm tổ chức lao động sản xuất.
- Kịnh nghiệm quản lý nhà trường...
* Tổng kết kinh nghiệm thường trải qua các bước sau:
- Xác định đối tượng : Đối tượng tổng kết kinh nghiệm giáo dục là những kinh
nghiệm thành công, những công việc đã đạt kết quả tốt.
- Dựng lại quá trình phát triển của đối tượng được tổng kết theo trình tự lôgic lịch sử.
Trong bước này cần nêu rõ:
+ Hoàn cảnh nảy sinh kinh nghiệm và thực trạng chất lượng ban đầu.
+ Yêu cầu khách quan về những động lực thúc đẩy sự phát triển.



+ Những chuyển biến căn bản của đối tượng, những biện pháp tạo ra những chuyển
biến đó.
+ Tình trạng thực tế hiện nay của đối tượng.
- Xử lý và rút ra kết luận .
Khám phá mối liên hệ giữa các biện pháp và hiệu quả giáo dục của nó. Đây là cơ sở
để rút ra lý luận khái quát.
- Kiểm nghiệm lý luận trong thực tiễn.
1.1.33.4 .Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động : Là phương pháp khai
thác đối tượng một cách gián tiếp thông qua các sản phẩm do chính họ tạo ra.
Phương pháp này giúp ta thu thập được những số liệu và dữ kiện phản ánh nhiều mặt
và khá sâu về đối tượng nghên cứu.
Sản phẩm hoạt động có thể là : Hồ sơ sổ sách, Bài làm, Sản phẩm lao động, Giáo án,
Các đồ dùng dạy học, Sổ chủ nhiệm, Nhật ký ...
1.1.3.3.5. Phương pháp đọc sách và tài liệu.
Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình nghiên cứu đối
tượng.
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục, người ta thường sử dụng các tài liệu
sau:
- Tác phẩm của Mác - Ăng ghen - Lê nin.
- Tác phẩm của Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.


- Văn kiện đại hội Đảng và Nhà nước.
- Sách báo, tạp chí có liên quan.
1.1.3.3.6. Phương pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm là phương pháp chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu trong điều
kiện khống chế nhằm xác định mối quan hệ giữa từng nhân tố với hiện tượng.
Có hai loại thực nghiệm:
- Thực nghiệm tự nhiên : Được tiến hành trong điều kiện nhân tố thực nghiệm, được

lồng vào hoạt động bình thường của đối tượng.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm : Được tiến hành qua những tác động có tính
chất sư phạm rõ rệt.
1.1.3..4. Đánh giá một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục.
Đánh giá công trình nghiên cứu khoa học giáo dục sự so sánh thực trạng của đối
tượng đánh giá với chuẩn được quy định.
* Để đánh giá chính xác, công tác đánh giá cần thỏa mãn các yêu cầu:
- Có chuẩn rõ ràng
- Hiểu chuẩn và vận dụng được chuẩn vào điều kiện cụ thể
-

Cán bộ đánh giá trong sạch, đảm bảo tính khách quan khi đánh giá.

- Việc kiểm tra công tác đánh giá phải được tổ chức chặt chẽ và khoa học.
* Nội dung đánh giá một công trình khoa học bao gồm:
- Tính cấp thiết của đề tài
- Tính sáng tạo, đóng góp của đề tài


- Tính chính xác, độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu
- Khả năng vận dụng và phát triển của vấn đề.
- Hiệu quả kinh tế xã hội.

1.2. Những khái niệm (phạm trù) cơ bản của giáo dục học
1.2.1. Giáo dục ( theo nghĩa rộng )
Quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có
kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được
giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
1.2.2. Giáo dục ( theo nghĩa hẹp )
Là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể (QTSP; QTGDTT)- là quá trình hình

thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những
hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao
động, tư tưởng chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh…
Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là hình thành phẩm chất đạo đức của
con người.
1.2.3. Giáo dưỡng
Người ta cho rằng, giáo dưỡng là quá trình con người tiếp thu một cách có hệ thống
tri thức nhất định để nâng cao trình độ học vấn cho bản thân. Con đường nâng cao
học vấn chủ yếu là học tập, trong đó tự học, tự bồi dưỡng giữ vai trò chủ yếu.
Theo UNESCO thì giáo dưỡng chủ yếu nói về quá trình chăm sóc, giáo dục nhưng
nhấn mạnh hơn về sự nuôi nấng, giáo dục cả về thể chất lẫn tinh thần, tạo cho con
người phát triển cân đối, hài hòa.
1.2.4. Dạy học.
Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, là quá trình tác động giữa
giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội


loài người ( kiến thức, kn, kx…) để phát triển những năng lực và phẩm chất của
người học theo mục đích giáo dục.
Như vậy thế mạnh của dạy học là nhằm hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng kỹ
xảo chung và riêng làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên
biệt.
Ngoài ra, trong giáo dục học chúng ta còn đề cập đến vấn đề:
- Giáo dục lại: là hoạt động có hệ thống nhằm làm lại, sửa lại nhân cách đã hình
thành sai lầm do giáo dục sai hoặc do môi trường ảnh hưởng tới.
- Tự giáo dục: là hoạt động điều chỉnh bản thân một cách có hệ thống và tự giác
nhằm trau dồi, hoàn thiện mặt tốt và khắc phục cái xấu của mỗi con người.
1.2.5. Công nghệ giáo dục:
Công nghệ giáo dục (hẹp) là việc sử dụng vào việc dạy học và giáo dục các phát
minh, các sản phẩm của công nghệ thông tin và các phương tiện kỹ thuật dạy học.

Công nghệ giáo dục (rộng): theo Unesco thì đây là một tập hợp gắn bó chặt chẽ
những phương pháp, phương tiện kĩ thuật học tập và đánh giá được nhận thức và sử
dụng tùy theo những mục tiêu đang đeo đuổi, có liên hệ với nội dung giảng dạy và
lợi ích của người học.
1.3. Giáo dục học là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.3.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội
- Từ khi xã hội loài người xuất hiện, các thế hệ luôn gắn bó với nhau trong nhiều lĩnh
vực hoạt động: lao động, giao lưu, chính trị, văn hóa, khoa học, kĩ thuật…Trong đó,
giáo dục là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển mãi với xã hội loài người. Hiện
tượng này biểu hiện ở chỗ, thế hệ trước truyền lại những kinh nghiệm xã hội cho thế
hệ sau nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mọi mặt của đời sống xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử, thế hệ sau lĩnh hội có chọn lọc những kinh nghiệm xã hội đó để tham
gia vào mọi hoạt động xã hội, qua đó nhân cách được hình thành và phát triển. Kinh
nghiệm xã hội bao gồm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, niềm tin, thái độ…của con người
trong hoạt động.


- Giáo dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có ý thức và phát triển cao chĩ
riêng biệt có trong xã hội loài người, nhờ đó giúp cho con người , nhờ đó giúp cho
con người trở thành chủ thể nhận thức, cải tạo, sáng tạo cả thế giới, đồng thời nhận
thức, cải tạo và sáng tạo chính bản thân mình.
- Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người.
- Giáo dục nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
- Giáo dục là một hiện tượng vĩnh hằng, giáo dục chỉ biến mất khi con người không
còn.
1.3.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
1.3.2.1. Tính lịch sử
Giáo dục chịu sự quy định của lịch sử - xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử có nền
giáo dục riêng, mỗi một xã hội có nền giáo dục riêng. Chẳng hạn: trong giai đoạn

cộng sản nguyên thủy, giáo dục chủ yếu là sự truyền thụ kinh nghiệm hoạt động săn
bắt, hái lượm từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Trong xã hội phong kiến, do sự quan
niệm phụ nữ là kẻ tiểu nhân (nho giáo), chính vì lẽ đó phụ nữ, con nhà nghèo khổ
( cũng được xem là kẻ tiểu nhân) đều không được đến trường. Điều này hoàn toàn
trái ngược với quan niệm của chúng ta ngày nay, giáo dục cho tất cả mọi người, và ai
cũng có quyền được học hành, mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau trong
giáo dục.
1.3.2.2. Tính giai cấp
Giáo dục là một thiết chế xã hội, nó chịu sự điều phối của nhà nước, điều phối của
giai cấp thống trị. Mỗi một giai đoạn lịch sử, giáo dục đều nhằm phục vụ cho giai
cấp thống trị. Do đó giáo dục mang tính giai cấp. Chẳng hạn: Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ, giáo dục chỉ phục vụ cho giai cấp chủ nô, con em chủ nô, tầng lớp trên
mới được đi học, nô lệ không được học, không được xem là công dân. Mục đích
giáo dục là đào tạo những con người phục vụ cho giai cấp chủ nô. Từ đó sinh ra nội
dung giáo dục cũng thế: dạy cho con em chủ nô cách cai quản nô lệ, cách bóc lột,
luật pháp nhà nước, dạy cách bắn cung, đàn áp nô lệ, cưỡi ngựa, bơi lội…còn trong
xã hội phong kiến cũng vậy, chỉ có con em tầng lớp phong kiến mới được đi học,


còn em tầng lớp nông dân… không được đi học. Mục đích giáo dục là đào tạo con
em họ trở thành những “kỵ sĩ”, người “phong nhã”, nội dung giáo dục là: 7 tuổi sống
với gia đình, 7 – 14 tuổi sống trong cung điện một lãnh chúa, làm thị đồng học
phong thái của của lối sống thượng lưu. Từ 14 – 21 tuổi làm tong sĩ học tập cách
giao tiếp, đối nhân xử thế, học các môn cưỡi ngựa, bơi lội, ném lao, đánh kiếm, săn
bắn, đánh cờ, làm thơ. 21 tuổi được thi sát hạch về quân sự và các vấn đề: đạo đức,
nguyên tắc cơ bản về hôn nhân – gia đình, chiến tranh, tôn giáo, ..được trao chức kỵ
sĩ ở trong buổi lễ quan trọng. Trong xã hội XHCN chúng ta, nền giáo dục mang tính
giai cấp công nhân, quyền lợi của các giai cấp khác đều thống nhất với quyền lợi của
giai cấp công nhân.
Như vậy, giáo dục luôn luôn chịu sự quy định của xã hội, giáo dục không thể vượt

ra khỏi sự quy định của xã hội, xã hội là vòng kim cô của giáo dục.
1.3.3. Chức năng xã hội của giáo dục
1.3.3.1. Chức năng kinh tế - sản xuất.
- Đây là chức năng quan trọng nhất mà xã hội đặt ra cho giáo dục, giáo dục không
thể trực tiếp thực hiện chức năng này mà phải thông qua con người, thông qua hệ
thống nguồn nhân lực mà giáo dục tạo nên. Qua giáo dục sẽ cung cấp cho xã hội đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, có trình độ cao, thông minh
hơn, khéo léo, làm việc hiệu quả hơn, và đào tạo được đội ngũ lao động trong các
lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau.
- Để thực hiện chức năng này yêu cầu:
+ Giáo dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Xây dựng một hệ thống ngành nghề đào tạo cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát
triển kinh tế - sản xuất đất nước.
+ Đào tạo các loại hình cán bộ đa dạng, tránh thừa thầy thiếu thợ.
+ Có trình độ chuyên môn – kỹ thuật, có phẩm chất cao, thỏa mãn yêu cầu thời đại.
1.3.3.2. Chức năng chính trị - xã hội.
- Giáo dục nhằm phục vụ cho nền chính trị - xã hội của một quốc gia. Thông qua quá
trình giáo dục này để hình thành cho học sinh những đường lối chính trị mà đất nước


đã lựa chọn. Để thực hiện chức năng này, chúng ta cần quan tâm đến những vấn đề
sau:
+ Giáo dục cho các thế hệ con người Việt Nam phấn đấu vì một nước đất nước: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Thực hiện tốt mục đích giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển
nhân tài, tạo ra sự bình đẳng trong tầng lớp dân cư.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ do dân, vì dân để phục vụ.
1.3.3.3. Chức năng văn hóa – tư tưởng.
+ Giáo dục có tác dụng to lớn trong vấn đề hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ bản
sắc văn hóa truyền thống của dân tộc như: tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, hiếu

học, cần kiệm…
+ Góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế giới
quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội.
Tóm lại, để thực hiện chức năng của mình đối với xã hội, giáo dục không thực hiện
trực tiếp mà chủ yếu thông qua con người do hệ thống giáo dục quốc dân đào tạo ra.
Thông qua con người tác động đến toàn xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa. Vì vậy giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa mở cửa tiến
vào tương lai.
1.3.4. Vị trí xã hội của giáo dục
Từ xa xưa, cha ông ta đã xem vai trò, vị trí của giáo dục luôn được đưa lên hàng
đầu:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
Hay
“Không thầy đố mày làm nên”,
“ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”…
Ngày nay vai trò đó của giáo dục cũng luôn luôn được gìn giữ và phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta luôn luôn xác định “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”, “giáo dục là chìa khóa mở
cửa tiến vào tương lai”…Từ việc xác định vị trí của giáo dục trong xã hội như vậy


cho thấy giáo dục đóng vai trò quan trọng trong xã hội, là yếu tố quan trong quyết
định sự tồn tại, phát triển của một đất nước, một quốc gia.
Chính vì xác định vị trí đó của giáo dục mà Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan
tâm và đầu tư cho giáo dục, tỷ lệ % ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng cao
hàng năm. Thực tế cho thấy những quốc gia, đất nước nào đầu tư cho giáo dục nhiều
thì quốc gia đó có sự phát triển về kinh tế, xã hội.
Trong xã hội hiện nay vị trí vai trò của giáo dục càng được coi trong. Khi loài
người đang còn tồn tại thì giáo dục luôn là yếu tố để thúc đẩy sự phát triển của xã

hội loài người, vị trí của giáo dục luôn luôn được xem trọng và mãi mãi chiếm vị trí
hàng đầu trong xã hội.Như vậy: Giáo dục luôn luôn chịu sự chế ước của xã hội, và
ngược lại giáo dục cũng luôn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đóng vị trí
quan trọng trong xã hội.

1.4. Cấu trúc của Giáo dục học
- Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận
dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch
sử giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết
đối với giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của
các thời đại khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội của
giáo dục ở từng thời đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của
giáo dục.
Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt
xuất, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục
có giá trị trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi
mới, bắt kịp xu thế của thời đại.


- Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng
bao gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học vườn trẻ, mẫu giáo, giáo dục
học cho lứa tuổi đi học.
Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên
môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ
thuật…). Tuy đối tượng phục vụ có khác nhau, nhưng các phân môn giáo dục học kể
trên đều có cơ sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kĩ
năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở những lĩnh vực khác nhau.
- Ngành giáo dục học chuyên biệt (đặc biệt) cũng là một bộ phận của giáo dục học
có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ có tật
nguyền về thị giác, thính giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ.

- Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ
môn có vai trò quan trọng như : Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa,
sinh, kĩ thuật, v.v..còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn"
1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục học là một khoa học xã hội, nó có liên
quan mật thiết với các khoa học, trước hết là với các khoa học xã hội.
Giáo dục học có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học như đạo đức học, mỹ
học, kinh tế học, văn học…
1.5.1. Triết học Mác - Lê nin : Triết học Mác - Lê nin là nền tảng khoa học cho sự
phát triển của khoa học giáo dục.
Đồng thời có một số vấn đề mà cả hai ngành khoa học này cùng quan tâm nghiên
cứu. Đó là các vấn đề :


- Sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và mục đích giáo dục xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác.
- Mối liên hệ giữa tập thể và cá nhân ...
1.5.2. Với đạo đức học.
Đạo đức học giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về công tác giáo dục
đạo đức, thế giới quan, tư tưởng chính trị cho học sinh.
1.5.3. Với sinh lý học.
Sinh lý học là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục
học phải dựa vào những thành tựu của sinh lý học đặc biệt là sinh lý học thần kinh
cấp cao, về hoạt động của hai hệ thống tín hiệu, về sự phát triển và vận hành của các
giác quan và hoạt động của chúng ...
1.5.4. Với tâm lý học.
Tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa học về các cơ chế diễn
biến và điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con
người theo lứa tuổi trong từng hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ chức

quá trình sư phạm.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều ngành khoa học khác như điều khiển học, tin học
đang thâm nhập và được ứng dụng trong nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo dục,
tạo ra những cách thức tổ chức mới, phương pháp và phương tiện mới trong lĩnh vực
giáo dục và dạy học.
• Thực hành xu thế phát triển của giáo dục Việt Nam hiện nay ( đọc thêm)


Trong quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta có những biến chuyển sâu rộng, tích
cực trên nhiều lĩnh vực, trong đó có khoa học giáo dục. Để đáp ứng được những yêu
cầu của thực tiễn, hướng phát triển của khoa học giáo dục là “đẩy mạnh nghiên cứu
và ứng dụng khoa học và công nghệ, nghiên cứu những vấn đề khoa học giáo dục
phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục”. Từ định hướng này có các vấn
đề cần được tập trung nghiên cứu trong khoa học giáo dục :
1. Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề trong phạm trù phương pháp luận khoa học
giáo dục, đảm bảo tiếp cận với xu thế phát triển mới mẻ, đa dạng của giáo dục và
khoa học giáo dục trong thời kì mới.
2. Về việc thay đổi cách nhìn nhận, xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học
giáo dục nói chung và giáo dục học nói riêng.
3. Trong nội dung của giáo dục học, nhiều lĩnh vực mới hình thành và nhiều phạm
trù vốn có đang trở nên quá đơn giản, không bao hàm đầy đủ các nội dung khoa học
mới, thành tựu lí luận mới.
4. Trong giai đoạn giao lưu quốc tế mở rộng và phát triển như hiện nay, cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật được áp
dụng vào các công trình nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và giáo dục học nói
riêng. Do đó nhiều phương tiện kĩ thật mới, phương pháp nghiên cứu cũng được
dùng trong nghiên cứu giáo dục học. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tự rút kinh
nghiệm, cải tiến bổ sung và hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu giáo dục…
5. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn nổi bật cần được nghiên cứu :
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò, vị trí, tác dụng của giáo dục trong

giai đoạn mới, trong đó xác định mối tương quan biện chứng giữa giáo dục với phát
triển kinh te á– xã hội.
- Vấn đề phương thức tổ chức giáo dục.


- Vấn đề giáo dục nhân cách của con người, mối liên quan giữa những chuẩn mực –
giá trị đang hình thành trong điều kiện kinh tế thị trường với những khuôn mẫu mà
nhà trường đang giáo dục cho học sinh.
- Việc kết hợp giữa giáo dục văn hóa với giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề…
Giáo dục phát triển theo xu hướng trên sẽ đảm bảo được sự thích ứng với các yêu
cầu phát triển, đảm bảo các tính chất nhân văn, dân tộc, đại chúng, thiết thực.
Chương II: Giáo dục và sự phát triển nhân cách
1. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
• Khái niệm về con người:
- Theo Từ điển Tiếng Việt, con người được hiểu :
+ Là động vật tiến hóa nhất
+ Có khả năng nói, tư duy, sáng tạo
+ Sử dụng công cụ trong quá trình lao động sáng tạo.
Trong Luận cương về Phơ bách, K. Mác đã khẳng định về bản chất con nguời :
“bản chất con người không phải là cái trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội”.
Qua sự khẳng định của của Mác, chúng ta thấy có ba điều cần lưu ý :
+ Con người tồn tại trong rầt nhiều mối quan hệ xà hội mà ngời đó tham gia.
+ Bản chất con ngưòi không phải là cái trưù tượng, vốn có của mỗi cá nhân. Bản
chất con người bao giờ cũng được thể hiện trong cuộc sống, trong lao động, nói
một cách khác là trong hoạt động thực tiển.
+ Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể
xác, phần tự nhiên của con người.



Trong một con người, bao giờ cũng bao gồm hai bộ phận : Phần tự nhiên và phần
xã hội.
Chính K. Mác đã chỉ ra : ”Con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp, với tư
cách là thực thể tự nhiên sống, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên,
những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động.”
- Trái với quan điểm của K. Mác về bản chất con người, có một số quan niệm
phiến diện về con người sau :
+ Con người như một tồn tại thần bí. Quan điểm này cho rằng trong con người ta
có một con người nhỏ xíu tồn tại và nó điều khiển con người thể xác mà ta thấy.
+ Con người tồn tại như một sinh vật. Họ cho rằng cuộc sống của con người đều
do bản năng quyết định. Đó là các bản năng sống, chết, duy trì nòi giống…
+ Con người tồn tại như một cái máy.
+ Con người chính trị.
+ Con ngưòi xã hội.
+ Con người là cái máy biết suy nghĩ biết yêu đương…
• Khái niệm về cá nhân
Cá nhân là một con người cụ thể, là một thành viên của một xã hội nhất định, sinh
sống và hoạt động trong những điều kiện xã hội nhất định.
Cá nhân bao gồm hai phần:
- Về mặt thể chất.
+ Cá nhân là một cơ thể sống, có đặc điểm chung về mặt hình thái và sinh lí của
loài người.
+ Cá nhân có những đặc trưng cho riêng mình.
- Về mặt tâm lí.


+ Mỗi cá nhân đều có một đời sống tâm lí nhất định. Tâm lí người khác về chất so
với tâm lí động vật. Đó là đời sống tâm lí có ý thức.
+ Tâm lí người là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là não bộ – các

giác quan (hệ thần kinh)
+ Thực chất tâm lí người là sự phản ánh thế giới khách quan vào não bộ bằng hoạt
độnh của bản thân mỗi người.
+ Năng lực phản ánh tâm lí của con người được thể hiện:
o
o
o

Các quá trình tâm lí ;
Các trạng thái tâm lí;
Các thuộc tính tâm lí.

Các thuộc tính tâm lí của con người được hình thành thông qua các quá trình,
trạng thái tâm lí.
Hệ thống những thuộc tính tâm lí của con người là bộ phận quan trọng nhất trong
đời sống tâm lí của mỗi cá nhân con người.


Khái niệm về nhân cách

- Con người sống, hoạt động trong các mối quan hệ đa dạng.
+Khi con người được nhìn nhận là một đại diện cho loài người thì đó là một cá
nhân.
+ Khi con người tham gia vào các hoạt động có mục đích có ý thức thì con người
được xem như một chủ thể.
+ Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội, tham gia tích
cực vào các mối quan hệ xã hội thì con người được xem như là nhân cách.
- Như vậy, khi nói tới khái niệm nhân cách, phải xem xét:



- Nó bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một
con người.
- Những thuộc tính này được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữ con
người và con người trong xã hội…
Khi nói tới nhân cách, cần nhấn mạnh đến một trong những yếu tố quan trọng
nhất của nó, đó là các giá trị, bao gồm:




Các giá trị tư tưởng.
Các giá trị đạo đức.
Các giá trị nhân văn.

Hệ thống các giá trị này được hình thành và cũng cố bởi năng lực nhận thức kinh
nghiệm sống của mỗi cá nhân trong quá trình thể nghiệm lâu dài. Nội dung của
định hướng giá trị là niềm tin, thế giới quan đạo đức, nguyên tắc sống… của con
người.
- Khi nói tới nhân cách con người Việt Nam, ta thấy có sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt phẩm chất (đức) và năng lực (tài) .
- Đức : Hệ thống thái độ của con người.
- Tài : Hiệu quả tác động của nhân cách tới các đối tượng xung quanh.
Đức bao gồm các mặt:
Các phẩm chất xã hội : Các quan điểm niềm tin tư tưởng – chính trị, thế giới
quan khoa học, thái độ đới với các hoạt động.
• Các phẩm chất cá nhân: Nếp sống, thói quen, những ham muốn…
• Các phẩm chất ý chí: Tính kỉ luật, tính tự giác, tính tự chủ, tính mục đích…


Tài bao gồm các mặt:

Khả năng thích ứng, năng lực sáng taọ, linh hoạt, mềm dẽo trong cuộc sống,
hoạt động.






Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu hiện cái riêng cái bản lĩnh của cá nhân.
Khả năng hành động

Hành động có mục đích, có điều khiển, chủ động, tích cực, sáng tạo, đạt kết quả
tốt…
+ Khả năng giao tiếp
Xây dựng, duy trì được các mối quan hệ tốt đẹp vời mọi người xung quanh.
- Như vậy, chúng ta có thể hiểu nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi
người, là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh
thần của mỗi người.
- Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Con người sinh ra chưa có nhân cách. Chính trong quá trình sống, hoạt động, giao
lưu … mà con người tự hình thành và phát triển nhân cách của mình bằng con
đường xã hội : Lĩnh hội các di sản văn hóa vật chất và tinh thần của loài người.
+ Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển được hiểu là:
Là sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
• Sự phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới.
• Động lực của sự phát triển là giải quyết các mâu thuẩn bên trong của sự vật
hiện tượng.


+ Cần chú ý, sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân không phải là

một.
- Sự phát triển cá nhân bao gồm các mặt phát triển sau:
 Sự phát triển về mặt thể chất.
 Sự phát triển về mặt tâm lí.
 Sự phát triển về mặt xã hội.


Sự phát triển cá nhân là quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và tinh
thần, các sức mạnh bản chất của con người.
- Vì nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi người nên sự phát triển nhân
cách phải được hiểu sự phát triển mặt tâm lí xã hội của con người.
Trong các sách giáo dục học trước đây, một số tác giả có sự hiểu biết lẫn lộn giữa
sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân. Nếu quan niệm như vậy thì có
thể hiểu khái niệm cá nhân là khái niệm nhân cách. Nhưng trong thực tế, hai khái
niệm này không phải là một!
Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không chỉ về lượng mà cả những
biến đổi về chất trong mỗi nhân cách. Đó là quá trình nảy sinh cái mới và hủy diệt
cái cũ.
+ Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố,
trong đó có hai nhân tố cơ bản sau:
- Nhân tố sinh học
- Nhân tố xã hội
Các nhân tố này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách không phải có
giá trị song song hoặc bằng nhau hoặc độc lập đối với nhau. Vì vậy, khi xem xét
mối quan hệ giữa các yếu tố thúc đẩy đến sự hình thành và phát triển nhân cách
cần phải thật sự khách quan, đúng đắn và khoa học.
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách
2.1. Bẩm sinh – di truyền
Bẩm sinh là những đặc điểm, thuộc tính của cá nhân khi sinh ra đã có.
• Di truyền là thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những đặc điểm giống chúng

(sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học của cha mẹ, thế hệ trước).



Vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân
cách:
Vấn đề di truyền những tư chất và nhất là các năng lực (nghệ thuật, khoa học,
kiến trúc…) ở trẻ em là một vấn đề quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.
o
Di truyền tạo sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả
năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định.
o
Nhà giáo dục cầøn quan tâm đúng mức để phát huy hết bản chất tự nhiên
đó của con người ; cần phát hiện sớm, có kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng kịp thời
nhằm phát triển tài năng cho trẻ em.

Di truyền không quyết định những giới hạn tiến bộ của xã hội loài người.
o
Di truyền tạo ra tiền đề cho sự phát triển nhân cách.
o
Trên cơ sở tiền đề ấy, phải có môi trường sống thích hợp, hoạt động tích
cức và được sự giáo dục đúng đắn thì bẩm sinh di truyền mới trở thành hiện thực.
• Quá trình phát triển con người xét về mặt sinh lí cũng là một quá trìnhphức
tạp.
• Cần chú ý :
o
Chú ý đúng mức đến vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát
triển nhân cách.
o
Nếu xem nhẹ yếu tố bẩm sinh di truyền thì chúng ta đã bỏ qua một tiền

đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển tâm lí.
o
Nếu đánh giá quá cao yếu tố bẩm sinh di truyền sẽ dẫn tới sai lầm về mặt
nhận thức, phủ nhận khả năng biến đổi bản chất của con người, phủ nhận vai trò
của giáo dục và tự giáo dục.


2.2. Môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã
hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
• Môi trường sống được chia thành 2 loại :
o
Môi trường tự nhiên : bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ
cho hoạt động của con người.
o
Môi trường xã hội, bao gồm :



Môi trường chính trị : chế độ chính trị, giai cấp…
Môi trường kinh tế sản xuất : chế độ kinh tế, quan hệ sản xuất, cơ sở sản xuất –
kinh doanh …
Môi trường sinh hoạt xã hội: gia đình, các tổ chức phục vụ sinh hoạt cộng đồng.
Môi trường văn hóa: hệ tư tưởng, nhà trường, cơ quan văn hóa - giáo dục, phương
tiện thông tin đại chúng…
Môi trường xã hội được chia thành 2 loại :
Môi trường lớn : đặc trưng chủ yếu bởi tính chất của Nhà nước, chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, hệ thống các quan hệ sản xuất…
• Môi trường nhỏ : là một bộ phận của môi trường lớn trực tiếp bao quanh trẻ,
đó là : gia đình, nhà trường, bạn bè, đoàn - đội, người lớn thân thuộc, cơ sở sản

xuất mà trẻ tham gia, cơ sở văn hóa địa phương…


Vai trò môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân cách
Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi
trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên động cơ, mục đích, cung cấp
phương tiện, điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm
lĩnh các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn hóa để hình thành, phát triển và hoàn
thiện nhân cách của mình.
• Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách tùy thuộc :
o
Lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó
(tiếp thu, chấp nhận hay phủ định phản đối)
o
Xu hướng, năng lực của cá nhân tham gia vào cải biéân môi trường (tích
cực hay tiêu cực, mạnh hay yếu)
• Trong sự tác động qua lại giữa môi trường và nhân cách, cần chú ý đến hai mặt
của vấn đề :
o
Tính chất tác động của hoàn cảnh sống đã phản ánh vào nhân cách.



×