Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.1 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH NHÀN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ HUYỆN DUY TIÊN,
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH NHÀN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ HUYỆN DUY TIÊN,
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

Ngành: Chính trị
Mã số: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC LUẬN


HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn hoàn
thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đức Luận. Các tài liệu trích được trích
dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và đáng tin cậy.
Hà Nội, ngày......tháng 11 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Thanh Nhàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ............................................................................................................................... 6
1.1. Lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị............................................................ 6
1.2. Trung tâm BDCT cấp huyện...................................................................................... 22
1.3. Nội dung chương trình và chủ thể, đối tượng, phương pháp giáo dục LLCT của
Trung tâm BDCT cấp huyện ............................................................................................. 27
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LLCT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC LLCT CỦA TRUNG TÂM BDCT HUYỆN DUY
TIÊN, TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY.................................................................................. 35
2.1. Khái quát chung về huyện Duy Tiên và Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam hiện nay ................................................................................................................ 35
2.2 Thực trạng giáo dục LLCT của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
hiện nay................................................................................................................................ 42
2.3. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục LLCT của Trung

tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới ...................................... 60
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 79
PHỤ LỤC................................................................................................................................ 84


NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
1

TTBDCT

Trung tâm bồi dưỡng chính trị

2

LLCT

Lý luận chính trị

3

Quyết định 100-QĐ/TW

Quyết định số 100-QĐ/TW ngày 3/6/1995 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII)

4

CNH – HĐH


Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

5

Nxb

Nhà xuất bản

6

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục lý luận chính trị là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng của
Đảng, nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức, tư tưởng,
bản lĩnh chính trị, niềm tin, năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Nói về vai trò của giáo dục lý luận chính trị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
“Không có lý luận chính trị thì chí khí kém cương quyết, không trông xa thấy rộng, trong
lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời
cách mạng”. Lênin – người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản trên thế giới cũng đã từng
khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng”.
Trong giai đoạn hiện nay việc giáo dục lý luận chính trị lại càng trở lên quan
trọng, khi đất nước ta đang trên đà phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, có nhiều
thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn, thử thách. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch luôn muốn tìm cách chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều âm mưu, thủ
đoạn. Trong bối cảnh như vậy việc nâng cao hiệu quả giáo dục LLCT của Trung tâm

BDCT cấp huyện nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nâng cao bản lĩnh
chính trị, nâng cao cảnh giác cách mạng, chống “diễn biến hòa bình” cho cán bộ, đảng
viên ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới là nhiệm vụ rất nặng nề và có ý nghĩa
chính trị sâu sắc.
Ngày 3/9/2008 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Quyết định
185 – QĐ/TW về “chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện” đã quy định trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện có chức năng bồi
dưỡng, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, quan điểm,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác
đảng, công tác đoàn thể...cho cán bộ ở cơ sở góp phần giải quyết kịp thời những vướng
mắc, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng.
Sau quyết định số 100 – QĐ/TW ngày 3/6/1995 của Ban Bí thư trung ương Đảng
(khóa VII), Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam cùng các Trung tâm BDCT
cấp huyện khác trên cả nước đã lần lượt ra đời và đi vào hoạt động từng bước có hiệu

1


quả, góp phần không nhỏ vào nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Trong những năm qua Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên đã đạt được nhiều kết quả tích
cực trong công tác giáo dục lý luận chính trị.
Đối với tỉnh Hà Nam, Duy Tiên luôn được xác định là huyện trọng điểm về phát
triển công nghiệp của tỉnh. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay
đòi hỏi huyện Duy Tiên phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa hồng vừa chuyên,
vừa tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, vừa có trình độ lý luận, phẩm chất chính trị, đạo
đức cao. Tuy nhiên, qua thực tế đào tạo, bồi dưỡng cho thấy, hiệu quả giáo dục lý luận
chính trị của Trung tâm Bồi dưỡng LLCT huyện Duy Tiên chưa cao; hơn nữa, có một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở huyện Duy Tiên hiện nay còn hạn chế về trình độ lý luận
chính trị, phai nhạt lý tưởng nên vấn để quán triệt, vận dụng chủ trương, đường lối, chính
sách còn chậm và chưa hiệu quả. Thực tế đó cùng với yêu cầu đổi mới, công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở huyện Duy Tiên hiện nay đòi hỏi phải có những giải pháp khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên.
Xuất phát từ tình hình trên, chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu
quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam hiện nay” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục LLCT tại Trung tâm BDCT cấp huyện là
một vấn đề lớn và có ý nghĩa cấp thiết. Với chức năng là đơn vị đào tạo, bồi dưỡng về
LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở,
Trung tâm BDCT cấp huyện là cơ quan gắn bó, gần cơ sở nhất, sát cơ sở nhất, đặc biệt
trong điều kiện bùng nổ thông tin và mạng xã hội như hiện nay thì việc nâng cao hiệu
quả giáo dục LLCT của Trung tâm BDCT là nhiệm vụ quan trọng qua đó góp phần củng
cố, bồi đắp, giữ vững lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Việc nghiên
cứu, tổng kết và giải quyết các vấn đề đặt ra của các Trung tâm thường được thực hiện
thông qua các báo cáo hàng năm của Ban tuyên giáo huyện ủy và Tỉnh ủy các địa
phương. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng hợp các vướng mắc, tồn tại và kiến nghị từ

2


địa phương Ban tuyên giáo Trung ương phối hợp với các ngành liên quan đề xuất hướng
giải quyết phù hợp và kịp thời với Đảng và Nhà nước.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và thực trạng hiệu quả giáo dục
LLCT của Trung tâm BDCT cấp huyện, thời gian qua đã có nhiều tác giả với nhiều bài
viết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị của trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Điển hình là các công trình dưới đây.
- “Công tác tư tưởng – văn hóa ở cấp huyện” của PGS.TS Đào Duy Quát đã bàn
về công tác giáo dục LLCT ở cấp huyện và vai trò, nhiệm vụ của Trung tâm BDCT cấp
huyện, nhưng chủ yếu là bàn nhiều về mảng tư tưởng – văn hóa ở cấp huyện.
- “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở”

của TS. Vũ Ngọc Am đã đề cập đến yêu cầu khách quan phải tiếp tục đổi mới công tác
giáo dục LLCT ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đã căn cứ vào thực trạng giáo
dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên cấp cơ sở, những khó khăn, hạn chế còn
yếu kém tìm ra nguyên nhân của những hạn chế từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới
trong công tác đào tạo cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay.
- “Chất lượng hoạt động của các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” của Trịnh Thị Hoa, Luận văn Thạc sỹ xây
dựng Đảng, năm 2008. Luận văn đã đánh giá chất lượng hoạt động của các Trung tâm
BDCT huyện, thị xã, thành phố thông qua chất lượng của các lớp học, chất lượng học
viên. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động ở các Trung tâm
BDCT huyện, thị xã, thành phố.
Ngoài ra còn có nhiều công trình của các tác giả quan tâm đến hướng nghiên cứu
này. Chẳng hạn như: “Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị ở trường Chính trị
tỉnh Bắc Giang dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Quỳnh Mai (Luận văn
Thạc sỹ Hồ Chí Minh học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2012); “Biện
pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi
dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Thái Nguyên” của Nguyễn Thị Thìn (Luận văn thạc sỹ
quản lý giáo dục, Đại học sư phạm Thái Nguyên năm 2008); “Tỉnh Hải Dương xây dựng

3


Trung tâm BDCT cấp huyện đáp ứng yêu cầu tình hình mới” của Đặng Thị Bích Liên
(Tạp chí khoa giáo của Ban khoa giáo Trung ương số 6 năm 2007).
Các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo rất có giá trị và đã gợi mở cho
chúng tôi những ý tưởng sâu sắc trong quá trình thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên,
trong số các công trình đã đề cập ở trên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu
việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm bồi dưỡng chính trị
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay. Điều đó càng thôi thúc chúng tôi trong quá trình
thực hiện đề tài đã chọn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của
trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam từ năm 2008 đến 2018.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng hiệu quả giáo dục LLCT của Trung tâm
BDCT huyện Duy Tiên, tình Hà Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục LLCT của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong thời
gian tới.
4.2 Nhiệm vụ
- Khái quát, làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác giáo dục LLCT của Trung
tâm BDCT cấp huyện.
- Phân tích thực trạng, làm rõ hiệu quả giáo dục LLCT của Trung tâm BDCT
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong 10 năm qua (2008 – 2018).
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4


5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đè tài là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm của Đảng về lý luận chính trị và công tác giáo dục LLCT; nghị quyết, chương
trình hành động, Quyết định, Chỉ thị, Báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy Hà Nam và Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện Duy Tiên về công tác bồi dưỡng, giáo dục LLCT cho đội

ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; các tài liệu, sách báo có liên quan đến đề
tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích – tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê, điều tra
xã hội học, phỏng vấn,…để thực hiện mục đích mà đề tài đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về hiệu quả giáo dục lý
luận chính trị của Trung tâm BDCT cấp huyện ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn góp phần làm rõ hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm
BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
LLCT của Trung tâm BDCT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho cấp ủy, chính quyền huyện Duy Tiên đề ra những chủ trương, chính sách nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục LLCT ở địa phương nói chung và của Trung tâm BDCT
huyện nói riêng; kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng cho việc
nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận
văn được kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ
CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị

1.1.1. Lý luận chính trị
Thực tiễn đã chứng minh khi xã hội phân chia thành giai cấp thì bất kỳ một giai
cấp chính đảng nào muốn giữ vị trí thống trị thì trước hết phải nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho giai cấp mình. Mặt khác con người là chủ thể tư duy và hành động đồng
thời là chủ thể của lý luận, con người sáng tạo ra lý luận không phải một cách chủ quan
mà nó là sự phản ánh đời sống hiện thực thông qua sự nhận thức khoa học, hệ thống hóa,
khái quát hóa, trừu tượng hóa khoa học để hình thành lý luận, phản ánh những quy luật
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, lý luận được hiểu là một hệ thống
những tri thức khoa học được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn phản ánh những mối
quan hệ, bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật...
Xét về bản chất lý luận là một hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản
ánh những mối liên hệ, bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng trong một
lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan.
Lý luận được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [33, tr.487]. Tri thức lý luận thể
hiện trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật. Khác với kinh nghiệm, lý luận
mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản
chất, tính tất nhiên, tính qui luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện
tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc
hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri
thức kinh nghiệm. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen cũng từng chỉ rõ: “Sự quan sát theo kinh

6


nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu và nhiệm vụ của

nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận
động bên trong thực sự” [4, tr.343].
Như vậy lý luận chính là “hệ thống những tri thức đã được khái quát tạo ra một quan
niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện thực. Lý luận là sự phản ánh
và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi lý luận đều quy định bởi hoàn cảnh lịch sử, được hình
thành từ điều kiện cụ thể của lịch sử sản xuất, kỹ thuật và thực nghiệm” [59, tr.14].
Chính trị là một lĩnh vực đặc biệt rất phức tạp, nó liên quan đến lợi ích trực tiếp của
các giai cấp và các lực lượng xã hội nên có rất nhiều cách tiếp cận và nhìn nhận khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chính trị là mối quan hệ giữa các giai
cấp, dân tộc, quốc gia đối với quyển lực nhà nước. Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện giai cấp, phân chia giai cấp và nhà nước. Chính
trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác
dụng to lớn đối với kinh tế. Việc hình thành một quan điểm chính trị đúng là điều kiện để
giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Chính trị là một lĩnh vực rất tinh
tế, nhạy cảm, nó biểu hiện trên cơ sở các tri thức được tích lũy trong quá trình lịch sử và
những quan hệ gắn với con người, với giai cấp, dân tộc và thời đại.
Để có thể nhận thức sâu sắc được những quy luật khách quan của sự phát triển xã
hội và vận dụng chúng và sự nghiệp cách mạng cần phải dựa trên nền tảng lý luận Mác –
Lênin. Lý luận chính trị của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại và tổng kết
kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc lực cho việc giành và
giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân tộc. Theo Lênin, lý luận có
vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì
cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [67, tr.30-32].
Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [47, tr. 289]. Hệ thống lý luận chính trị của chủ
nghĩa cộng sản khoa học không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học, bóc trần sự bất
công tồn tại trong các xã hội có giai cấp đối kháng mà còn chỉ rõ căn nguyên của những

7



áp bức, bất công đó, đồng thời vạch ra con đường phương thức đấu tranh nhằm xóa bỏ
chế độ bất bình đẳng, xây dựng xã hội mới văn minh, tiến bộ. Vì vậy LLCT luôn là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của một Đảng.
Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước,... Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã
hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Giáo dục lý luận chính trị
1.1.2.1.Khái niệm giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục LLCT là một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng nói
chung, của công tác xây dựng Đảng nói riêng. Là quá trình truyền bá có hệ thống Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác giáo
dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận
thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Giáo dục LLCT nói chung là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các giai cấp
cầm quyền. Đối với nước ta giáo dục LLCT được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng,
định hướng và phát triển ngay từ khi chưa có Đảng. Trải qua quá trình thực tiễn giáo dục
LLCT đã đóng vai trò to lớn đối với những thắng lợi của cách mạng nước ta.
Theo TS. Ngô Văn Thạo cho rằng giáo dục LLCT là “...quá trình phổ biến, truyền
bá một cách cơ bản, có hệ thống nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiệm vụ
cơ bản của giáo dục LLCT là nâng cao nhận thức lý luận, qua đó xây dựng thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận duy vật, biện chứng, đạo đức,
lối sống, tạo nên bản lĩnh chính trị, niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cho cán bộ, đảng viên

và nhân dân” [57, tr.184].

8


Theo GS.TS Đào Duy Quát thì giáo dục LLCT “là việc làm truyền bá những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là quá trình tác động vào đối
tượng giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm,
những quan điểm...nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nhất trí cao với đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao
phẩm chất cách mạng và năng lực thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu
biết ấy vào cuộc sống” [64, tr.38].
Giáo dục lý luận chính trị là giải thích, tuyên truyền những vấn đề thuộc lý luận
chính trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã hội,
trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm tin của con người để đi
đến hành động đúng đắn. Giáo dục lý luận chính trị đem đến cho mọi người những hiểu
biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan, nhân sinh quan, đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống,
hoài bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ,
tiếp thu có chọn lọc cái mới... Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị là nghiên cứu tổng
kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hình thành và phát
triển tư tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn xã hội và đưa ra những dự báo để phát
triển cho tương lai.
Nhiệm vụ của giáo dục lý luận chính trị là thông qua các công cụ và phương tiện
để truyền bá những kiến thức phong phú của đời sống xã hội, các quan điểm, những
đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát triển của của xã hội. Với tầm quan trọng như
vậy Hồ Chí Minh cho rằng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng tiên phong phải
đạt trình độ tiên phong: "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng

phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam"[38, tr.268]. Bên cạnh đó giáo dục lý luận
chính trị cần phải định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của
các dân tộc trên thế giới. Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh" Hồ Chí Minh khẳng định:

9


“Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong"[32, tr.259].
Trong công tác xây dựng Đảng giáo dục LLCT góp phần quan trọng vào việc xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đồng thời trực tiếp góp phần xây
dựng con người mới có tinh thần tự giác, tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ xây
dựng xã hội mới.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) của Đảng đã xác định: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm
chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng
giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội.” [10].
Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục
LLCT cần có một thiết chế tổ chức với những hình thức và phương pháp tiên tiến, phù
hợp với những đặc trưng riêng của nó. Trong hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng
viên của Đảng Cộng sản Việt Nam chương trình giáo dục LLCT có nhiều cấp độ khác
nhau như: Cử nhân, cao cấp, trung cấp, sơ cấp, bồi dưỡng ngắn hạn... Ngoài ra còn có
các chương trình giáo dục lý luận chuyên đề; chương trình học tập, quán triệt các nghị
quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, Ban Bí
thư, kế hoạch tự học theo hướng dẫn của cơ quan phụ trách...
Những phân tích trên cho thấy, trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giáo dục
LLCT là truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước

tới cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận
thức chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn
họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống...chúng ta học tập lý luận là cốt để áp
dụng và thực tế” [46, tr.497].
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục LLCT có vị trí, vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Tầm quan trọng đó bắt nguồn từ vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với quá trình

10


phát triển của xã hội với tư cách là khoa học cách mạng của giai cấp công nhân và là hệ
tư tưởng của toàn xã hội trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các nhà mác xít đã chỉ rõ, cũng như thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam
đã chứng minh: giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn thoát khỏi áp bức và bóc
lột của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân thì không thể tiến hành cách mạng một cách
tự phát mà phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng tiền phong được vũ trang bằng chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là cơ sở để các đảng cộng sản đề ra
đường lối, chính sách của mình. Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì
cũng không thể có phong trào cách mạng...chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [67, tr.30-32].
Theo V.I.Lênin thì: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo
ra” [68, tr.352] để thâu thái vào đầu óc của mình toàn bộ kho tàng tri thức của nhân loại
và hiểu biết đó phải dẫn tới cuộc sống và hành động.
Hồ chí Minh từng xác định: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phục sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại” [34,
tr.684]. Muốn vậy phải có thói quen đem lý luận liên hệ với thực tiễn, “Mỗi cán bộ, đảng
viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái
bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông” [30, tr.234-235].

Với tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến tính thực tiễn, bất cứ
việc gì cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn. Muốn đạt được kết quả đó thì việc học
phải xuất phát từ yêu cầu của công việc và phải học cặn kẽ, thấu đáo. Người mong muốn
việc học - hành, tức là nhận thức - hành động phải đạt tới chỗ thấy cho hết, nhìn cho
thấu. Vì vậy, theo Người học tập ở trong nhà trường, trong sách vở chưa đủ, phải học cả
trong cuộc sống, học ở người khác… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Làm nghề gì cũng
phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm
cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ” [46,
tr.224]. Nội dung học tập cũng phải toàn diện: chương trình học vấn phổ thông, đại học,
chuyên môn nghiệp vụ, học tập lý luận Mác-Lênin, đường lối chủ trương của Đảng,

11


chính sách, pháp luật của nhà nước…, trong đó, việc học tập lý luận Mác-Lênin, đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một nội dung rất quan
trọng đối với các cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở được thực hiện trực
tiếp bởi các Trung tâm BDCT cấp huyện.
Lý luận chính trị ở Việt Nam là lý luận khoa học và cách mạng, mang bản chất
giai cấp công nhân và phản ánh tinh thần thời đại do cách mạng Tháng Mười sản sinh ra.
Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, thể hiện tập trung nhất lý luận và phương pháp cách
mạng trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là tư tưởng chủ
đạo xuyên suốt và bao trùm di sản tư tưởng lý luận Hồ Chí Minh trong thời đại mới, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vạch ra tính tất yếu của lịch sử của
cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thấy rõ được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị, Ở
nước ta, lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xếp chung vào hệ thống các
môn khoa học xã hội – nhân văn, giữ vị trí chủ đạo về tư tưởng, lý luận và phương pháp
luận cho khoa học xã hội – nhân văn đồng thời là cơ sở thế giới quan và phương pháp

luận chung cho mọi hoạt động nghiên cứu khoa học, là hệ tư tưởng của xã hội thì việc
học tập hệ thống lý luận này lại càng cần thiết và càng có ý nghĩa hơn.
Giáo dục lý luận chính trị là một nhiệm vụ trọng yếu trong công tác tư tưởng của
Đảng nhằm bồi dưỡng về lý luận chính trị, truyền đạt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, xây
dựng và quản lý Nhà nước cho cán bộ, đảng viên... góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo,
bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng để đội ngũ cán bộ cơ sở ngày càng
đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Do đó, đối tượng cán bộ
tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn tại hệ thống các Trường Chính trị tỉnh và
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện không chỉ được lĩnh hội, bồi dưỡng về tri thức mà
còn phải rèn luyện những kỹ năng cơ bản về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chuyên môn,
nghiệp vụ, tổ chức phong trào; rèn luyện tác phong, tính sáng tạo, độc lập trong làm
việc... Giáo dục lý luận chính trị có vai trò cơ bản sau đây:

12


Thứ nhất, giúp cho người học có sự hiểu biết sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện
hơn những tri thức lý luận chính trị - hành chính; từ đó trang bị cho mình vốn tri thức
khoa học lý luận.
Thứ hai, việc học tập, nghiên cứu lý luận chính trị nhằm củng cố niềm tin và bản
lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên; từ đó thúc đẩy
cán bộ, đảng viên tự giác, tự nguyện, hăng hái hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng do Đảng đề ra.
Thứ ba, việc học tập và nghiên cứu lý luận chính trị nhằm cung cấp cho người
học thế giới quan và phương pháp luận cách mạng và khoa học, từ đó vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống và công việc, để hoàn thành và hoàn thành xuất sắc công việc được giao.
Hơn hết là xây dựng mỗi quan hệ giữa người với người trên tinh thần tôn trọng, tương
trợ và thương yêu lẫn nhau.
Thứ tư, giáo dục lý luận chính trị góp phần hình thành và phát triển trí tuệ, nâng

cao trình độ và năng lực của người học giúp họ khẳng định bản thân và hòa nhập với xã
hội hiện đại. Thông qua việc trang bị những tri thức lý luận chính trị và phương pháp
luận khoa học, học viên tích cực, chủ động cố gắng trong học tập và rèn luyện để nâng
cao trình độ và năng lực tư duy lý luận khoa học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng nhằm giúp họ tăng khả năng thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
sâu rộng như hiện nay.
Có thể thấy, trong mọi giai đoạn cách mạng, việc giáo dục học tập lý luận chính
trị có vai trò rất quan trọng. Qua đó, giúp cán bộ, đảng viên được trang bị đầy đủ, toàn
diện hơn, có sự hiểu biết sâu sắc hơn tri thức lý luận chính trị; giữ vững bản lĩnh chính
trị; củng cố, tăng cường niềm tin vào tương lai của dân tộc, của cách mạng, lý tưởng
cộng sản; làm cho cán bộ, đảng viên tự tin hơn trong công tác, là cơ sở để cán bộ, đảng
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.1.2.3. Nội dung giáo dục lý luận chính trị
Nội dung của giáo dục LLCT rất rộng, bao gồm hệ thống những nguyên lý, luận
điểm, đề cập đến nhiều mặt, quy luật khác nhau của đời sống xã hội; bao gồm việc giáo
dục những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin; đường lối, quan điểm của

13


Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng; công tác xây dựng Đảng; đạo
đức cách mạng; chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước; những kinh nghiệm của
các nhà nước và tình hình thế giới. Đây là những nội dung chính trị cơ bản mang tính bắt
buộc mà mọi cán bộ, đảng viên của Đảng đều phải học, phải được đào tạo, bồi dưỡng với
những hình thức thích hợp.
Nhiệm vụ của giáo dục lý luận chính trị là thông qua các công cụ và phương tiện
để truyền bá những kiến thức phong phú của đời sống xã hội, các quan điểm, những
đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát triển của của xã hội.
Sớm thấy được vai trò của tác giáo dục lý luận chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận chính trị

là nhiệm vụ quan trọng của mình"[37, tr.117]. Bên cạnh đó, giáo dục lý luận chính trị
cần phải định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của các dân
tộc. Do đó, Người khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”[38, tr.268].
Từ ý nghĩa quan trọng như vậy có thể thấy giáo dục LLCT bao gồm những nội
dung cơ bản đó là:
Một là: giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục LLCT trang bị cho cán bộ, đảng viên những nội dung cơ bản về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu biết sâu sắc đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, biết vận dụng vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, giáo dục ý thức, tinh thần yêu nước, bảo vệ thành quả cách mạng, quan điểm
sống tích cực và tinh thần lao động hăng say; có trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê
hương, đất nước, có ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức cần cù, tiết kiệm, có tính tích
cực chính trị xã hội, không chạy theo lối sống thực dụng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng vì
trước hết nó là cơ sở để Đảng xác định rõ mục tiêu cách mạng. Đảng muốn lãnh đạo có
hiệu quả, đưa cách mạng đến thành công phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng

14


Đảng; phải coi trọng công tác xây dựng, hoàn thiện Cương lĩnh chính trị, đường lối đúng
đắn; từ mục tiêu chiến lược lâu dài đến mục tiêu cụ thể trước mắt của từng chặng đường;
xây dựng, tập hợp lực lượng, lựa chọn hình thức, bước đi và phương pháp cách mạng
thích hợp; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản. Muốn có Cương lĩnh, đường lối
đúng đắn, Đảng phải nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, nghĩa là phải
có trí tuệ và trình độ cao về lý luận.
Đối với mọi cán bộ đảng viên “Phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, củng

cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản” [39, tr.21].
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề để có lập trường giai cấp vững vàng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “ Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không có lập
trường giai cấp vững vàng” [40, tr.92].
Ngày nay dù cục diện thế giới có thay đổi, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
luôn kiên quyết bảo vệ giá trị bền vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và
sức sống mãnh liệt của học thuyết. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII thông qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, “làm cho thế giới quan
Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội” [9, tr.26-31].
Bên cạnh việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì một
nội dung quan trọng khác không thể thiếu trong công tác giáo dục LLCT là giáo dục
đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là những nội
dung không chỉ định tính trong nhận thức lý luận cho cán bộ, đảng viên mà còn định
hướng, định lượng cho cán bộ, đảng viên hành động; cũng chính là một biểu hiện của nội
dung gắn liền lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy đạo đức

15


cách mạng của của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết
làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng” [36, tr.288].
Bước vào thời kỳ đổi mới đẩy mạng CNH, HĐH đất nước, sự vận dụng đúng đắn
và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ

hết. Học tập, quán triệt những quan điểm cơ bản và vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ
Chí Minh và thực tế cuộc sống trong học tập và rèn luyện là nhân tố quan trọng cho việc
nâng cao chất lượng giáo dục LLCT trong tình hình hiện nay.
Hai là: giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng và truyền thống yêu nước, truyền
thống văn hóa của dân tộc.
Giáo dục LLCT không chỉ giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng Hồ Chí
Minh mà còn giáo dục cho cán bộ, đảng viên tinh thần yêu nước, yêu chế độ, trung thành
với đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta. Đồng thời, có tác dụng cổ vũ mỗi cán bộ,
đảng viên có tinh thần giữ gìn an ninh trật tự và trật tự an toàn xã hội, đề cao cảnh giác,
sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của kể địch,
nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục truyển thống dân tộc, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên là
một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính. Giáo dục
truyền thống lịch sử và cách mạng thật sự có ý nghĩa lớn lao trong việc xây dựng con
người mới. Nhớ về cội nguồn và hiểu sâu sắc những bước đi đầy chông gai của cha ông,
những hy sinh cao đẹp của lớp lớp những người con đi trước từ đó nuôi dưỡng tư tưởng,
tâm hồn con người để sống và làm việc xứng đáng với các thế hệ đi trước. Và để thực
hiện được điều đó thì điều quan trọng cần phải thực hiện đó là giáo dục phẩm chất đạo
đức cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh với người cách mạng trước hết phải giác ngộ đạo
đức cách mạng, cách mạng trước hết phải giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cách
mạng thật tốt cho cán bộ, đảng viên “Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng,
chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm
mới chóng” [38, tr.261].

16


Nhiệm vụ giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, giáo dục cho cán bộ, đảng
viên truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước để

chúng ta luôn tự hào về truyền thống xây dựng và đấu tranh chống xâm lược của dân tộc.
Giáo dục về lịch sử ra đời và phát triển của Đảng, đường lối lãnh đạo của Đảng trong
thời kỳ mới, tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh cách mạng và truyền
thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của giai cấp công nhân, của các lực lượng vũ
trang...bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lòng kính trọng, tình thương yêu sâu sắc với
đồng bào, đồng chí, đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đồng thời nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trước những âm mưu chia rẽ xuyên
tạc của kẻ thù.
Trong giáo dục LLCT bên cạnh việc giáo dục lý luận Mác – Lênin cần phải chú
trọng đến việc giáo dục các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa,
kỹ thuật, lao động và sản xuất, học đi đôi với hành. Vì học tập lý luận Mác – Lênin mới
củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững được lập trường, nâng cao sự hiểu biết, mới
làm tốt nhiệm vụ được giao. Nội dung của giáo dục LLCT chính là những vấn đề nhằm
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; là nền độc lập, tự do; là sự toàn vẹn lãnh
thổ; là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người một cách
toàn diện nhất, triệt để nhất như trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: “Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh ,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới” [13, tr.17-18].
1.1.2.4. Phương pháp tổ chức, dạy và học LLCT

17



Theo chúng tôi, để tổ chức, dạy và học lý luận chính trị cần phải bám sát vào
những chỉ dẫn mà Hồ Chí Minh đã đưa ra:
Thứ nhất, dạy và học lý luận chính trị phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học,
phải biết tự động học tập, phải lấy tự học làm cốt.
Hồ Chí Minh đề cao vấn đề tự học trong công tác giáo dục lý luận chính trị.
Người cho rằng học tập ở trường của đoàn thể không phải như học ở các trường lối cũ,
không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập.
Phải giành nhiều thời gian cho khâu tự học của học viên, bao gồm tự nghiên cứu
làm đề cương, thảo luận, tranh luận... theo sự hướng dẫn của giáo viên. Đây là phương
pháp dậy học hiện đại tới nay còn nguyên ý nghĩa – là phương pháp lấy người học làm
trung tâm, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn: nêu vấn đề, đặt câu hỏi, tạo tình huống,
khêu gợi thắc mắc, hình thành mâu thuẫn, kích thích độc lập suy nghĩ, tìm tòi giải pháp
để cuối cùng người học đạt tới tri thức, trong đó có sự gắn chặt giữa lý luận và thực tiễn.
Phương pháp này được thực hiện tốt ở các trường Đảng thì sẽ chuyển từ phương pháp
cũ, từ cách truyền thụ kiến thức một chiều – thầy giảng, trò ghi, sang cách tổ chức quá
trình nhận thức năng động của người học, thông qua người học và người dạy cùng làm
việc trên lớp, trong thảo luận hoặc người học tự động làm việc theo hướng dẫn của giảng
viên.
Thực hiện phương pháp này bắt buộc người học phải chuẩn bị kỹ nội dung qua
các khâu học tập trên cơ sở giáo trình, giáo khoa và tài liệu tham khảo có liên quan.
Người nói: phải khiêm tốn, thật thà trong học tập, cái gì biết thì nói biết, không biết thì
nói là không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập. Mặt khác cũng
phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ
phải hoàn thành cho được... nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước
bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.
Thực hiện phương pháp này cũng đòi hỏi người giảng viên phải có sự đầu tư và
chuẩn bị thật chu đáo từ khâu soạn bài giảng, thực hiện bài giảng, thảo luận... Đồng thời,
người giảng viên phải không ngừng cập nhật, bổ sung kiến thức về lý luận cũng như thực
tiễn để không ngừng nâng cao tri thức của người thầy. Như vậy mới có thể “biết mười


18


dạy một” mà những điều dạy đó lại phải là kết quả của sự chọn lọc, gợi mở hướng dẫn
cho học viên biết tự động học tập nâng cao hiểu biết. Người dạy: Trong khi giảng dạy
cần phải khơi dậy tính chủ động của người học. Đặc biệt là gợi ý để trao đổi những kinh
nghiệm công tác (cả kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại), từ đó gom
lại thành bài học quý. Bởi vì mỗi cán bộ ở các lĩnh vực công tác khác nhau đều có những
bài học kinh nghiệm bổ ích, nếu biết tập hợp lại và đem ra trao đổi sẽ làm cho hiệu quả
công tác của các đồng chí khác cao hơn, tránh những sai lầm đã gặp phải.
Hai là, trong dạy và học lý luận chính trị, phải thực hành phương pháp “nêu cao
tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “phải khiêm tốn, thật thà...đào sâu suy nghĩ khi
nghiên cứu các tác phẩm của Mác – Lênin, các bài giảng của các đông chí giáo sư bạn,
khiêm tốn học tập các đồng chí giáo sư bạn, cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói
không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập” [42, tr.499].
Đối với phương pháp này, không chỉ yêu cầu đối với người học mà còn đòi hỏi
đối với người dạy phải độc lập suy nghĩ, đào sâu hiểu kỹ, suy nghĩ chín chắn mới có thể
giúp người học hiểu sâu lý luận, nâng cao tư tưởng, giữ vững lập trường.
Hồ Chí Minh yêu cầu trong giảng dạy phải nắm chắc lý luận, phải xác định được
nội dung cốt lõi, nội dung chính, trọng tâm cần nắm vững và vận dụng; có như vậy mới
khắc phục được tình trạng phiến diện chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng, tình trạng
chung chung, đại khái, chỉ biết rừng mà không biết các loại cây cụ thể. Đồng thời trong
huấn luyện phải chú ý vào rèn phương pháp, kỹ năng, tạo cho người học nắm được bản
chất linh hồn của các quan điểm lý luận, có thể độc lập, tự chủ xử trí đúng công việc
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ba là, công tác giáo dục lý luận chính trị phải thiết thực, cụ thể, phù hợp với
đối tượng, với thực tiễn.
Công tác giảng dạy phải xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước, của địa

phương phù hợp với từng đối tượng cán bộ công tác ở cơ quan, ban ngành cấp tỉnh, cấp
huyện, thị... Việc huấn luyện cốt yếu ở thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều. Nhằm “cốt
yếu là phải làm cho người đọc thấu hiểu vấn đề. Nhưng thấu hiểu vấn đề cũng có nhiều

19


cách: có cách thấu hiểu thật tỷ mỉ, nhưng dạy theo cách đó tốn rất nhiều thì giờ. Trái lại,
cũng có cách dạy bao quát mà vẫn làm cho người học hiểu thấu được” [41, tr.47].
Giảng viên cần hiểu rõ và nắm chắc nhu cầu nhận thức của người học và mối liện
hệ giữa nội dung học tập với chức trách, nhiệm vụ của người học và thực tiễn địa phương,
đơn vị công tác của họ. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng giảng dạy và huấn luyện
phải gắn lý luận với thực tế trong quá trình giảng dạy. Phải dạy người học cả kỹ năng tiếp
cận và phương pháp thực hành để vận dụng lý luận đó vào cuộc sống và thực tế công tác của
họ. Nếu chỉ dạy lý luận mà không dạy thực hành thì mới chỉ đạt một nửa yêu cầu mà thôi.
Người viết, lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn.
Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Điều kiện có ý nghĩa quyết định hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị là đội
ngũ và chất lượng giảng viên làm công tác đào tạo.
Hồ Chí Minh cho rằng: không phải ai cũng huấn luyện được nhất là người huấn
luyện của Đoàn thể cần phải có trình độ hiểu biết chuyên sâu. Người đã đặt vấn đề “phải
lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh
đạo cần phải tham gia việc dạy” [43, tr.273], người huấn luyện phải làm kiểu mẫu về mọi
mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc...
Hồ Chí Minh cho rằng, do chức năng của mình, một đặc trưng, phẩm chất của
người giảng dạy lý luận chính trị là phải không ngừng học tập, người giảng viên phải có
lòng đam mê, khiêm tốn học tập, không có thái độ kỳ thị, học thêm mãi, biết kết hợp và
làm giàu trí tuệ của mình. Người giảng viên nào tự cho mình là đã biết đủ cả rồi, thì
người đó dốt nát nhất và người đó không thể làm công việc giảng dạy được. Người giảng

viên lý luận chính trị phải thực hiện học không biết chán, dạy không biết mỏi. Nếu ngưng
học tập thì kiến thức lý luận đó sẽ trở nên cũ, xơ cứng, nó không phản ánh thực tiễn sinh
động nên làm cho việc dạy và học không có hiệu quả.
Năm là, tổ chức quản lý học viên trong quá trình đào tạo.
Muốn huấn luyện lý luận chính trị trước hết phải có tổ chức, có lãnh đạo sâu sát tỉ
mỉ và chu đáo.

20


×