VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN VĂN PHỜ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN VĂN PHỜ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH PHÚ
HÀ NỘI, năm 2018
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy Nhà nước xây dựng nền hành chính hiện đại nhằm phục vụ tốt
nhu cầu, lợi ích cho nhân dân, trong đó cán bộ, công chức lại càng có vai trò quyết
định đến hiệu quả tất yếu của bộ máy công quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi vấn đề, gốc có tốt thì ngọn mới tốt”;
Hiệu lực, hiệu quả, chất lượng của bộ máy nhà nước đều phụ thuộc vào trình độ,
năng lực, phẩm chất của đội ngũ này, đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp cơ sở.
Hệ thống chính trị của nước ta có 4 cấp. Chính vì vậy, cấp xã là đơn vị hành
chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta (cấp trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã). Năng lực và hiệu quả hoạt động của công chức cấp
xã có vai trò tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của đất nước trong mọi thời kỳ, mọi giai
đoạn cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng mới ngày nay cũng như
nước ta đã và đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “Cấp xã là nơi gần gũi nhân dân nhất,
là nền tảng hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Đội ngũ
cán bộ cấp xã luôn có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
phát triển kinh tế- xã hội; đồng thời họ phải thực sự là những người tận tâm, tận lực,
gương mẫu, “thật thà nhúng tay vào việc”, “nói đi đôi với làm”, “biết vận động dân
cho đúng và cho khéo”, “không để sót một người nào”, “phải thực sự óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” để cho “dân tin tưởng, dân yêu mến,
dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ” (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, Hội nghị Trung
ương khóa IX đã ra nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn, nội dung nghị quyết đã xác định: “ Xây dựng đội ngũ
cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
3
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy
sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” là
một trong những vấn đề cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở.
Điện Bàn là thị xã đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Nam. Điện Bàn được Ủy ban
thường vụ Quốc hội ra nghị quyết công nhận là thị xã vào tháng 3 năm 2015. Là Thị
xã đang ra sức nỗ lực phát triển nhanh, bền vững để sớm trở thành một trong những
trung tâm kinh tế động lực phát triển ở phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Để thực hiện
thắng lợi mục tiêu này thì một trong những giải pháp mang tính nền tảng, tác động
trực tiếp đến hiệu quả công việc, đó là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức của thị xã nói chung, trong đó có công chức xã, phường nói riêng. Tuy nhiên,
trong thời gian qua đánh giá lại đã cho thấy rằng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và chức danh quy hoạch, sử dụng cán bộ, chất
lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác cán
bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay trên địa bàn
thị xã Điện Bàn nhất là cán bộ, công chức cấp xã vẫn còn những hạn chế, bất cập
nhất định; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước không cao, trình độ năng lực, tinh thần trách nhiệm của một
bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ, việc tổng kết, đánh
giá để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức
chậm được tiến hành, hiệu quả chưa đi vào chiều sâu, thiết thực.
Từ những lý do nêu trên học viên chọn đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo,
Bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” để
nghiên cứu làm luận văn cao học chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách cán bộ, công chức là hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và
Nhà nước đối với đội ngũ CBCC, là công cụ và các giải pháp nhằm xây dựng đội
ngũ CBCC đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng.
4
Chính sách CBCC bao gồm: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, chính sách sử dụng và
quản lý CBCC, chính sách đảm bảo lợi ích động viên CBCC.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này học viên xin phép chỉ được nghiên
cứu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà cụ thể là thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã.
Nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ công chức cấp xã nói riêng, từ trước tới nay đã có nhiều nhà nghiên cứu,
các nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều công trình khoa
học đăng tải từ Trung ương đến địa phương, ở các Học viện, nhà trường, có thể kể đến
một số công trình tiêu biểu sau:
- Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và tác giả Trần
Xuân Sầm đồng chủ biên: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2001.
- Tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên: Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội, năm 2004.
- Sách: Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện
nay- Những vấn đề lý luận và thực tiễn. TS. Mạc Minh Sản, Nxb. Chính trị - Hành
chính, 2009.
- Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải chủ biên: Hỏi đáp về quản lý cán bộ công
chức cấp xã, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013.
Những công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, đã đi sâu vào nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn về cán bộ, công chức; chủ yếu tiếp cận và phân tích về cơ sở
lý thuyết, cơ sở pháp lý và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức trên thực tế.
Việc nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công
chức cấp xã hầu như chưa được đề cập đến.
Ngoài các công trình nêu trên, trong thời gian gần đây đã có rất nhiều công
trình khoa học, nhiều luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về vấn đề này, đơn cử một số
5
công trình tiêu biểu sau đây: Nguyễn Thị Tuyết Nga: Một số biện pháp hoàn thiện
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước ở tỉnh Phú Yên, Luận văn
Thạc sỹ quản lý công, Học viện hành chính quốc gia, năm 2002.
Dựa trên cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC; thực tiễn đào tạo, bồi
dưỡng CBCC trong các cơ quan nhà nước ở tỉnh Phú Yên, Luận văn đã đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhà
nước của tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng đến giải pháp tăng cường cơ sở vật chất,
trang thiết bị và đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng CBCC
của tỉnh.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học tập trung
nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như: Ngô Thành Can:
Cải cách quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao năng lực
thực thi công vụ. Học viện hành chính quốc gia đăng trên Tạp chí Viện khoa học tổ
chức nhà nước, năm 2013. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ quan niệm về đào tạo,
bồi dưỡng CBCC, quy trình đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện cải cách trong đào tạo,
bồi dưỡng CBCC nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Các công trình nghiên cứu nói trên đều có những đóng góp nhất định về mặt lý
luận và thực tiễn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng CBCC cấp xã nói riêng. Phạm vi nghiên cứu của các công trình trên được
thực hiện khá đa dạng, đa phần thực hiện ở một tỉnh hoặc một số cơ quan nhà nước
trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về công tác đào
tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Chính vì vậy, Học viên mạnh dạn chọn nội dung đề tài “Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh QuảngNam”.
Có thể nói rằng đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu về công tác đào tạo, bồi dưỡng
đối với đội ngũ công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và không
trùng lắp với các công trình nghiên cứu khác. Học viên mong muốn góp phần đánh
giá đúng thực trạng, đề ra những giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp
6
xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. Do vậy, học viên đi sâu
vào nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với 7 chức danh công
chức đối với cấp xã, trong đó trọng tâm đi sâu vào phân tích những ưu điểm, mặt
hạn chế, nguyên nhân, từ đó căn cứ các quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của
nhà nước để đề xuất các giải pháp mang tính thực tiễn cao để áp dụng tại thị xã
Điện Bàn..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Học viên tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo,
bồi dưỡng đối với công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để từ đó
xác định căn cứ để đề xuất các giải pháp mang tính thiết thực, hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn phải đi vào thực hiện một
số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
- Nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã hiện nay như: Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của CBCC cấp xã; mục
tiêu, nguyên tắc, yêu cầu, quy trình, sự cần thiết đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã. Nghiên cứu về các yếu tố có ảnh hưởng cũng như thực trạng
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã; Nêu lên những ưu điểm
và những bất cập, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này. Qua đó, đề
xuất một số giải pháp mang tính khả thi, đồng bộ hơn và đồng thời có những kiến
nghị đối với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan có liên quan ở các cấp nhằm tiếp
tục nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với CC cấp xã tại thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đối với công tác cán
bộ của thị xã nói chung và công chức xã, phường nói riêng trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã, từ việc phân tích nhu cầu cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, đến
thiết kế chương trình; xây dựng tài liệu; lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức
triển khai thực hiện. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đối với 07 chức danh công chức
chuyên môn xã- phường như: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn
phòng- thống kê; Địa chính- xây dựng- đô thị và môi trường (đối với phường) hay
Địa chính- nông nghiệp- xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính- Kế toán;
Tư pháp- hộ tịch; Văn hoá- xã hội.
+ Thời gian: từ năm 2012 đến năm 2017.
+ Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng công chức thuộc ở 20 xã, phường trên địa bàn của thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng
sản Việt Nam và các văn bản quản lý nhà nước đối với công chức và công tác đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn); nghị quyết của thị xã.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo cứu tài liệu; Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng
hỏi; Phương pháp phỏng vấn sâu.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số thủ pháp nghiên cứu như: thống kê, so
sánh, phân tích, luận giải...nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá về thực
trạng và đề ra các giải pháp thiết thực mang tính khả thi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã.
8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Số liệu thực tế và các giải pháp đặt ra tại luận văn có thể giúp cho các nhà
hoạch định chính sách có thể tham khảo và có những chính sách thiết thực, hiệu quả
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã phù hợp trong thực tiễn
hiện nay. Luận văn nghiên cứu thành công sẽ là tài liệu tham khảo giúp cấp ủy các
cấp lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, thiết kế nên chương trình, khung đào tạo, bồi
dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã phù hợp, sát với thực tiễn hơn. Luận văn
có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo để tiếp tục nghiên cứu phát triển
vấn đề này trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của Luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về
công tác ĐT, BD đối với đội ngũ công chức cấp xã; Chương 2: Thực trạng trong
công tác ĐT, BD công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Chương
3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong ĐT, BD công chức cấp xã tại
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái niệm công chức cấp xã và chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã
1.1.1.1. Công chức
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Công chức chỉ những người được các cơ
quan nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong các cơ quan
chuyên môn công quyền và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Từ Trung ương
đến cơ sở. Theo Luật Cán bộ công chức năm 2008: “Công chức là công dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.” [25, tr.51]
Như vậy, Công chức được hiểu là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong tổ chức (Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị- xã hội, trong Quân đội nhân dân (mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng); trong Công an nhân dân (mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp) và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị- xã hội, trong biên chế và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
10
Công chức khác với cán bộ ở chỗ, cán bộ được hiểu là những người được bầu
hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong tổ chức (Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội).
1.1.1.2. Công chức cấp xã
Theo Luật chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị định 92/2009/NĐ- CP
ngày 22/10/2009 của Chính Phủ quy định như sau: Công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng, giao giữ một chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã gồm các chức danh:
Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - Xây
dựng - Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông
nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã); Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ
tịch; Văn hoá - Xã hội. Như vậy chúng ta có thể xác định chức danh công chức cấp
xã có 07 chức danh công chức như Nghị định 92/2009- NĐ/CP đã đề cập ở trên.
Đối tượng này có đặc thù là làm công tác chuyên môn, tham mưu, giúp UBND thực
hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
1.1.2. Đặc điểm của công chức cấp xã
Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Đây là đội ngũ gần dân, sát dân nhất, trực tiếp triển khai các chủ trương,
chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân
dân, công chức cấp xã vừa tham gia công tác lại vừa sản xuất, kinh doanh, gắn với
lợi ích trong gia đình, dòng họ. Chính vì vậy, đã giúp cho đội ngũ công chức cấp xã
luôn hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương mà họ công tác,
sinh sống, bên cạnh đó công chức cấp xã còn thông thạo phong tục, tập quán, tâm lý
của nhân dân và có những điều kiện thuận lợi trong việc vận động, thuyết phục
nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước.
11
- Công chức cấp xã được tuyển dụng và xếp loại theo ngạch, bậc. Mỗi ngạch
được tiêu chuẩn hóa riêng biệt, gắn liền với đặc điểm và yêu cầu của từng vị trí
công việc cụ thể theo trình độ đào tạo.
- Đối với công chức Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã:
ngoài những tiêu chuẩn quy định chung đối với đội ngũ công chức cấp xã, còn phải
có khả năng phối hợp với các đơn vị Công an nhân dân, Quân đội nhân dân tham
gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân
sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, bảo vệ chế độ
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
- So với cán bộ chuyên trách cấp xã thì đội ngũ công chức cấp xã có tính ổn
định tương đối và có tính chuyên môn hóa cao. Hơn nữa, công chức cấp xã là những
người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các công việc hằng ngày của nhân dân và là
cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh trật tự, an
toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước được triển khai thực hiện và
nhanh chóng đi vào thực tiễn của cuộc sống. Các công việc quản lý nhà nước ở cơ
sở thường đa dạng và luôn có sự đan xen các mối quan hệ lợi ích; do đó, đòi hỏi
công chức cấp xã là “người làm dâu trăm họ”, họ phải giải quyết công việc của địa
phương đảm bảo đúng quy định, pháp luật của nhà nước, nhưng cũng phải hợp lòng
dân, được dân tin, dân yêu, dân chăm lo. Đa phần Công chức cấp xã là người địa
phương, chỉ có một số ít là người của địa phương khác hoặc được cấp trên tăng
cường về, hoặc luân chuyển từ địa phương này sang địa phương khác. Vì vậy, họ là
những người thường am hiểu rất rõ về đời sống kinh tế, tâm tư, nguyện vọng, sinh
hoạt thường ngày, văn hoá ứng xử, phong tục, tập quán, lối sống của người dân trên
địa bàn mình quản lý, làm việc. Điều này đã tạo được sự thuận lợi nhất định cho CC
cấp xã thực hiện việc quản lý nhà nước và giải quyết tốt các vấn đề phát sinh trên địa
12
bàn mà học đang sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, giữa họ với những người dân địa
phương thường có mối quan hệ huyết thống, quan hệ dòng tộc, bà con thân thuộc hay
quê hương, làng, bản; xóm, ấp, khóm...các mối quan hệ này đã ít nhiều gì cũng có sự
chi phối nhất định đến hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ công chức cấp xã, nhất
là trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhâncộng đồng- Nhà nước.
Công chức cấp xã phải giải quyết tất cả các công việc trong đời sống xã hội ở
địa phương, cơ sở mang tính thường xuyên để đảm bảo quyền và lợi ích, nguyện
vọng chính đáng của người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đội ngũ CC cấp xã
phần lớn là những người trưởng thành từ thực tiễn hoạt động phong trào của địa
phương hoặc được tuyển dụng nhưng không đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nên
hầu hết CC cấp xã chưa được đào tạo bài bản, đúng qui trình hay thực hiện việc
chuẩn hóa đối với đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, CC cấp xã sau khi được tuyển dụng
thì phải cử đi đào tạo và đào tạo lại nên năng lực thực hiện nhiệm vụ trong quản lý
nhà nước của đội ngũ này còn nhiều hạn chế nhất định. Thực tế đã cho thấy, một bộ
phận CC cấp xã thiếu những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ hoặc không am hiểu,
thành thạo mọi kỹ năng cần thiết cho hoạt động công vụ và một bộ phận CC cấp xã
có thái độ ứng xử chưa phù hợp trong xử lý và giải quyết công việc, tiếp xúc với
nhân dân.
Hiện nay, trình độ của công chức cấp xã đã từng bước được nâng lên đáng kể.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập về trình độ văn hoá, lý luận chính trị, nhận thức,
năng lực thực thi công vụ; một số CC cấp xã làm việc chủ yếu dựa trên những kinh
nghiệm thực tiễn được truyền từ các thế hệ đi trước hoặc một số CC trẻ có trình độ
chuyên môn nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn nên đã gặp không ít
khó khăn khi xử lý, giải quyết các tình huống xảy ra trong công việc được phân
công. Tất cả những điều nêu trên đã làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu
quả thực hiện nhiệm vụ tham mưu trong quản lý nhà nước ở địa phương được phân
công phụ trách.
Với những đặc điểm nêu trên, đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng CC cấp xã
13
cần có những cách thức, phương pháp, lộ trình và bước đi sao cho phù hợp, xem xét
cả về nội dung, chương trình và cách thức tổ chức thực hiện đối với từng đối tượng
đặc thù để đảm bảm tính hiệu quả lâu dài, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào
tao, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ sau khi được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng trong
bối cảnh ngày nay.
1.1.3. Vị trí, vai trò của CBCC cấp xã
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao về vai trò của cán bộ và
công tác cán bộ. Người khẳng định rằng: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều
do cán bộ tốt hoặc kém” [24, tr.280].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã
tiếp tục xác định rằng: “Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư”.
Như vậy, CBCC cấp xã nói chung và CC cấp xã nói riêng có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng: CC cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương, đường
lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước đề ra. Không có đội ngũ cán bộ nói
chung và cũng như đội ngũ công chức ở cơ sở nói riêng vững mạnh, nắm bắt, tuyên
truyền và triển khai thực hiện mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước thì dù đường lối, chủ trương chính trị có đúng
đắn đi chăng nữa thì cũng khó biến thành hiện thực, đi vào cuộc sống có hiệu quả.
Đội ngũ công chức này vừa là người trực tiếp tuyên truyền về các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành, vừa
là người làm cầu nối để phản ánh những tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần
chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước, để từ đó kịp thời có sự điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung sao cho đúng và phù hợp với thực tiễn của cuộc sống. Nói đúng hơn, ở
khía cạnh này, họ luôn có vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng
14
nhân dân. Nhiệm vụ của công chức cấp xã là thực thi công vụ mang tính tự quản
theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở
thông qua việc giải quyết các công việc hằng ngày mang tính chất quản lý, tự quản
mọi mặt ở địa phương (hay còn gọi là tự quản dân cư). Công chức cấp xã còn trực
tiếp bảo đảm trật tự kỷ cương tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân. Thông qua hoạt động
của đội ngũ công chức cấp xã, nhân dân được thể hiện quyền làm chủ và trực tiếp
thực hiện quyền tự quản của mình (người đại diện).
Thông qua việc tuyên truyền, tổ chức, lôi cuốn, phát động phong trào, theo
dõi, kiểm tra và nhân rộng các phong trào tốt, những cá nhân điển hình, tiên tiến,
khai thác tối đa nguồn lực về vật chất, tinh thần nội lực từ nhân dân và địa
phương để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo quốc
phòng- an ninh, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội ở cơ sở ngày càng có
hiệu quả.
Để đội ngũ Công chức cấp xã phát huy tốt vai trò đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
ta phải xây dựng đội ngũ này có đủ phẩm chất, năng lực cần thiết cho mọi hoạt động
thực thi công vụ. Như Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa khoá IX đã nhấn mạnh rằng : “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực
tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không
ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý
và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”. Trong đó đặc biệt quan tâm đến công
tác đào tạo, bồi dưỡng đối với Công chức cấp xã nhằm nâng cao chất lượng của đội
ngũ này, góp phần thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước ở cơ sở. Thực tiễn
đã cho chúng ta thấy rằng, địa phương nào có đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ
công chức nói riêng tốt thì địa phương đó chắc chắn rằng sẽ có sự phát triển cao trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và
Nhà nước cấp trên giao phó, đáp ứng được sự tin cậy, gửi gắm lòng tin của nhân dân
đối với đội ngũ cán bộ này.
15
1.2. Mục tiêu, nội dung, tầm quan trọng của chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã
1.2.1. Những khái niệm có liên quan
1.2.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng và Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo Nguyễn Thị Hồng Hải, trong Hỏi đáp về quản lý cán bộ công chức cấp
xã: “Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức đã được
đào tạo, nhằm củng cố, mở mang và trau dồi một cách có hệ thống những kỹ năng
và chuyên môn nghề nghiệp.” [21, tr.130-131]
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được hiểu như sau: đây là hoạt động
nhằm bổ sung, cập nhập kiến thức, kỹ năng chuyên môn cho CBCC trong một tổ
chức khi mà những kiến thức, kỹ năng được đào tạo trước đây đã lạc hậu, không đủ
để thực hiện có hiệu quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong tổ chức đó”. [21,
tr.161-162]
1.2.1.2. Đặc trưng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
+ Đối tượng người học là những người có kinh nghiệm ít hoặc nhiều trong
công tác; vì vậy, phương pháp bồi dưỡng phải khác so với phương pháp bồi dưỡng
thông thường của lứa tuổi học sinh, sinh viên.
+ Những người tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng này nhằm mục đích thực
thi công vụ tốt hơn; do đó, nội dung cũng phải phù hợp, thay đổi linh hoạt tuỳ theo
yêu cầu của mỗi vị trí trong hoạt động công vụ và nhu cầu thực tiễn của mỗi đối
tượng.
+ Đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm phát triển năng lực làm việc và nâng cao
khả năng thực hiện công việc của người học trong thực tế, đáp ứng được nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực của tổ chức trong thực thi công vụ.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng CBCC được hiểu như sau: đó là quá trình truyền
thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhập, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng tiêu
chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý, chức danh chuyên môn, vị trí công việc cho
CBCC trong tổ chức.
16
1.2.1.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Là một bộ phận của CBCC nói chung, CBCC cấp xã có những đặc điểm
chung cũng giống như CBCC; là những người thực thi công vụ, có ít nhiều kinh
nghiệm trong thực tiễn công tác. Bên cạnh đó, hoạt động của đối tượng này có đặc
thù như đã nói ở phần 1.1.2. Vì vậy cần có cách nhìn nhận rõ hơn về đào tạo, bồi
dưỡng đối với công chức cấp xã. Theo Nguyễn Thị Hồng Hải trong Hỏi đáp về quản
lý cán bộ công chức cấp xã: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã là một quá trình
truyền thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo
tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cho các cán bộ cấp xã. Còn đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã là một quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhật,
nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp. Việc đào tạo, bồi
dưỡng đối với công chức cấp xã chính là việc trang bị, bổ sung những kiến thức cần
thiết dựa trên các tiêu chuẩn, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng công chức,
trong đó tập trung vào việc vận dụng những kiến thức lý luận vào thực tiễn nhằm
giải quyết những vấn đề quản lý cụ thể.” [21, tr.132-133-134]
1.2.2. Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
nói riêng đây chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ
chức đạt được mục tiêu của mình với các mục đích đó là:
- Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan; thay đổi thái độ và
hành vi đến công việc để phát triển năng lực làm việc của công chức và nâng cao
khả năng thực hiện công việc trong thực tế của họ.
- Giúp công chức luôn phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân
lực trong tương lai của tổ chức đó.
- Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của đội ngũ công chức
này do thuyên chuyển (luân chuyển) công tác, giới thiệu đề bạt, bổ nhiệm, thay đổi
nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc ở vị trí công tác mới một
cách nhanh chóng và tiết kiệm; hoàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ
chức đề ra.
17
Như vậy, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung cũng như đội ngũ
công chức cấp xã nói riêng đây là một nhiệm vụ quan trọng trong tổ chức. Nó
không chỉ nhằm nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ công chức này trong hiện
tại mà chính là đáp ứng các yêu cầu về nhân lực trong tương lai của tổ chức; có vai
trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, hơn hết là góp phần tăng
cường tính hiệu lực, hiệu quả, không ngừng nâng cao trách nhiệm trong công tác
tham mưu, phối hợp quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở từng
địa phương xã, phường.
1.2.3. Mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã
Mục tiêu của việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này là cơ sở định
hướng cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng thực hiện có hiệu quả. Tuỳ theo yêu cầu
công việc, vị trí việc làm khác nhau của từng công chức cấp xã mà mục tiêu đào tạo,
bồi dưỡng đối với các đối tượng nêu trên cũng sẽ khác nhau.
Theo Quyết định số 163/QĐ- TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, giai đoạn
2016- 2025 là phải “bảo đảm nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ được
giao; ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp” [31, tr.63]. Với
mục tiêu: “hằng năm, có ít nhất 60% cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi
dưỡng và cập nhập kiến thức, kỹ năng, phương pháp, đạo đức công vụ” [31]. Như
vậy, mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã nằm trong hệ thống
mục tiêu chung của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã nêu trên. Đây là cơ
sở để các cơ quan có thẩm quyền cũng như chính quyền địa phương xác định mục
tiêu cụ thể trong quá trình triển khai hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với công
chức cấp xã.
1.2.4. Các nguyên tắc trong đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức
cấp xã, đòi hỏi phải tuân theo một số nguyên tắc cơ bản như sau:
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu công
việc của từng vị trí công chức và yêu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của địa
18
phương. Theo đó, tuỳ thuộc vào mỗi vị trí chức danh công tác khác nhau mà chúng ta
có những nội dung, yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
cũng như có những nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác nhau.
- Cơ quan quản lý đối với công chức phối hợp với đơn vị sử dụng công chức
cần phải có sự kết hợp đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng với các hoạt động có
liên quan như: quy hoạch cán bộ công chức, xác định nhu cầu đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phân bổ thời gian, nguồn
kinh phí, đánh giá hiệu quả sau khi đào tạo, bồi dưỡng và xác định người thay thế
công việc trong suốt quá trình mà đối tượng được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở từng
địa phương. Trong đó, khâu quy hoạch cán bộ là cơ sở then chốt trong việc cử cán
bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, kiến
thức quản lý nhà nước cũng như việc sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ sau này, khắc
phục trình trạng vừa hụt hẫng, vừa dư thừa, đào tạo, bồi dưỡng không gắn với mục
đích, mục tiêu, vị trí việc làm đối với đội ngũ cán bộ công chức. Vì vậy, từng địa
phương cơ sở xã, phường phải dựa trên danh sách quy hoạch, tạo nguồn cán bộ của
địa phương mình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (cấp xã phải được Ban
Thường vụ Thị ủy phê duyệt), qua đó, lãnh đạo địa phương phải nhất thiết phối hợp
với cơ quan quản lý CBCC để xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
sao cho phù hợp đối với từng chức danh dự nguồn, quy hoạch. Điều này chắc chắn
rằng sẽ khắc phục được tình trạng cử CBCC đi đào tạo, bồi dưỡng một cách dàn
trải, tràn lan, không đúng đối tượng như những hạn chế, tồn tại trong công tác cán
bộ mà lâu nay một số địa phương đã từng mắc phải, gây lãng phí nguồn ngân sách,
thất thoát tiền của, tốn kém thời gian, kinh phí, đi lại của chính cán bộ đó và ảnh
hưởng đến hoạt động chung của mỗi địa phương xã, phường trên địa bàn thị xã
Điện Bàn.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức phải đảm bảo tính công khai,
minh bạch, hiệu quả. Theo đó, các kế hoạch, chương trình, kinh phí về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải được công khai cho công chức biết để thực hiện. Do vậy, công
chức phải có trách nhiệm tham gia tích cực để hoàn thành tốt các chương trình, nội
19
dung đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu của tổ chức đặt ra.
1.2.5. Quy trình công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã
Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chính là quá trình tổ chức thực hiện việc
đào tạo, bồi dưỡng để đạt được mục tiêu của nó. Thông thường người ta cho rằng
quy trình đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng bao gồm các thành tố sau đây:
Xác định nhu cầu cần đào tạo,
bồi dưỡng
Xác định yêu cầu học tập
Kế hoạch, chương trình đào tạo,
bồi dưỡng là như thế nào
Kỹ thuật
Cơ sở để đào
tạo, bồi
dưỡng
Trang thiết
bị
Đội ngũ
Giáo viên,
giảng viên
Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng
Đánh giá công tác đào tạo, bồi
dưỡng
Một cách đơn giản hơn, quy trình đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
dựa trên cơ sở năng lực thực tiễn trong thực hiện công việc bao gồm 4 thành tố cơ
bản đó là:
20
Xác định yêu cầu học tập
Đánh giá công tác đào tạo,
bồi dưỡng
Lập kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng
Thực hiện kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng
1.2.5.1. Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã
Xác định nhu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức
cấp xã chính là vấn đề chúng ta đi vào trả lời các câu hỏi như: Những kiến thức,
kỹ năng cần thiết cho từng vị trí công việc? Những kiến thức, kỹ năng cần thiết
mà công chức hiện có? Những kiến thức, kỹ năng còn thiếu của công chức đối
với từng vị trí công việc của họ? Làm cách nào để xác định đúng những thiếu hụt
đó? Những khóa học (hay khóa đào tạo, lớp đào tạo, bồi dưỡng) nào cần tổ chức
để kịp thời khắc phục ngay những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ
công chức này? Để nắm bắt nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần sử dụng các
phương pháp như thế nào? Có thể đặt ra các phương pháp phổ biến nhất như sau:
+ Phân tích tổ chức, các kế hoạch hoạt động và kế hoạch nguồn nhân lực.
+ Phân tích công việc, phân tích đánh giá thực hiện công việc.
+ Điều tra khảo sát đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng (phiếu khảo sát, thảo
luận, lấy ý kiến chuyên gia sau đó tổng hợp và đi vào phân tích, đánh giá, kết luận
cụ thể).
Thông thường, người ta thực hiện các hoạt động xác định nhu cầu đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng đó là:
1. Làm rõ các yêu cầu. Xác định vấn đề nào cần đào tạo, bồi dưỡng, nhanh
chóng quyết định và đưa ra những nhiệm vụ mới, làm rõ những mong muốn,
nguyện vọng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng.
2. Lập kế hoạch thực hiện xác định nhu cầu đối với công tác đào tạo, bồi
21
dưỡng cán bộ. Phân tích nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng.
3. Đánh giá thực trạng về thực hiện công việc.
4. Xác định những sai sót, thiếu hụt trong thực hiện nhiệm vụ và những hành
vi, nhận thức sai lệch (nếu có).
5. Xác định nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng từ các bước 2, 3 thực hiện so sánh
với bước 4 như thế nào.
6. Xác định các mục tiêu và nội dung cần đào tạo, bồi dưỡng.
1.2.5.2. Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần trả lời các câu hỏi chính như: Mục
tiêu kế hoạch đặt ra? Nội dung đó là gì? Giao cho ai thực hiện? thời gian và địa
điểm tiến hành như thế nào? Cách thức tổ chức thực hiện ra sao? Kinh phí bao
nhiêu? Kiểm tra đánh giá như thế nào? Người ta dùng kỹ thuật như tại sao? Người
nào? Ai? Khi nào? ở đâu? Bao nhiêu…). Một vấn đề quan trọng nữa là cần phải xây
dựng một kế hoạch đào tạo cụ thể, rõ ràng, chi tiết, đảm bảo các nội dung sau:
- Mục đích tổng thể; Các mục tiêu cụ thể; Đối tượng: đối tượng học viên, tiêu
chuẩn để tuyển chọn tham gia đào tạo, bồi dưỡng; Hỗ trợ đối với việc học tập, trang
thiết bị; Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các hoạt động của học viên; Phân phối
thời gian; Nội dung chính: Các chủ đề; Tài liệu để đào tạo, bồi dưỡng; Người dạy:
giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, cộng tác viên; Các kết quả, tiêu chí cần đạt và
cuối cùng là Chương trình chi tiết.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, một kế hoạch tốt cần phải rõ ràng về mục tiêu
đào tạo, bồi dưỡng. Các mục tiêu cần được xây dựng theo kỹ thuật như,
Achievable- có thể đạt được, vừa sức, SMART: Specific- Cụ thể, Measurable- đo
lường được, Realistic- Thực tiễn, khả thi, Time-bound- thời hạn.
Để giúp cho việc thực hiện công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, người ta
thường đưa ra các công việc cần thực hiện trong thiết kế chương trình đào tạo, bồi
dưỡng như sau:
1. Xem xét về số lượng học viên, nghiên cứu lấy ý kiến của họ về chương trình.
2. Liệt kê những cách thức, hoạt động để đạt được mục tiêu này.
22
3. Quyết định loại hình thức đào tạo, bồi dưỡng nào: tại cơ quan (đào tạo, bồi
dưỡng trong công việc) hay tập trung ngoài cơ quan.
4. Quyết định hình thức phương pháp đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng- như
việc huấn luyện, kèm cặp hướng dẫn…
5. Thảo luận về chương trình, kế hoạch với những người có liên quan, với
chuyên gia, học viên và những người lãnh đạo, quản lý họ.
6. Hoàn thiện Chương trình.
Xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần đảm bảo theo công thức như
Current - Hiện hành, mới đây, Time limit - Thời gian giới hạn, Important - Quan
trọng, Challenging - Thách thức, khác trước, Elective - Tuyển chọn, tổng hợp,
PRACTICE: Practical - Tính thực tế, Relevant - Liên quan, Applicable - Tính áp
dụng,.
1.2.5.3. Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần trả lời các câu hỏi cơ
bản như: Có những hoạt động cụ thể nào? Phân công, phối hợp như thế nào sao
cho có hiệu quả nhất? Tổ chức sao cho chi phí phù hợp, tiết kiệm để đạt được kết
quả cao?. Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần tổ
chức thực hiện một cách nghiêm túc trong khâu này như vấn đề tổ chức như thế
nào, ai triệu tập, đại điểm ở đâu, ai quản lý, phụ trách, báo cáo viên, giảng viên đảm
bảo ra sao, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết.
1.2.5.4. Đánh giá đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
Trong quá trình tổ chức các hoạt động đi vào đánh giá chính sách thực hiện
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã cần đi thẳng vào đánh giá
những vấn đề mang tính cụ thể đó là: việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có đạt được
mục tiêu đề ra hay không? Học viên có tham gia tích cực vào quá trình đào tạo, bồi
dưỡng hay không? Công tác tổ chức có tốt hay không? Học viên học được những gì
và họ áp dụng được những điều gì đã học vào thực tế công việc sau này như thế
nào? Nội dung có phù hợp hay không? Chương trình có phù hợp hay không? Giảng
viên hay báo cáo viên có đáp ứng được yêu cầu của chương trình đào tạo, bồi dưỡng
23
hay không? Hiệu quả đem lại của chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong thực tiễn
công tác của công chức ra sao?
Theo các nhà nghiên cứu, có 4 cấp độ đánh giá trong chương trình đào tạo, bồi
dưỡng như sau:
1. Đánh giá phản ứng của người học: Họ đánh giá như thế nào về đào tạo, bồi
dưỡng vào các thời điểm trước, trong, cuối khoá đào tạo, bồi dưỡng và vào những
thời điểm sau công tác đào tạo, bồi dưỡng.
2. Đánh giá kết quả học tập: Xem học viên đã tiếp thu những gì từ khóa học.
Kiểm tra kiến thức, kỹ năng, thái độ và đối chiếu với những mục tiêu đã đề ra.
3. Đánh giá những thay đổi trong công việc: xem người học áp dụng những
điều đã học vào công việc như thế nào. Những thay đổi đối với việc thực hiện công
việc.
4. Đánh giá những tác động, hiệu quả của tổ chức: Việc đào tạo có tác động,
ảnh hưởng tới kết quả của tổ chức, hiệu quả của bồi dưỡng là như thế nào; thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ đã mang lại những hiệu quả gì? .
Tùy theo các cấp độ đánh giá mà người ta sử dụng các phương pháp đánh giá
khác nhau để xem việc thực hiện quy trình đào tạo, bồi dưỡng đạt được những kết
quả đến đâu, hiệu quả như thế nào.
1.3. Quy trình và các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã.
Theo Luật CBCC năm 2008 quy định: việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã
phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức danh, yêu cầu nhiệm vụ và phù
hợp với quy hoạch CBCC [25, tr.51]. Xuất phát từ tính chất công việc của hai đối
tượng trên khác nhau, do đó cần có những sự điều chỉnh nhất định về yêu cầu bồi
dưỡng cho phù hợp. Đối với cán bộ việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng tiêu chuẩn
của từng chức danh lãnh đạo, quản lý, tham mưu. Đối với công chức, việc đào tạo,
bồi dưỡng nhằm đáp ứng tiêu chuẩn đối với chức danh chuyên môn, nghề nghiệp.
Theo đó, việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần phải đảm bảo các yêu
cầu cụ thể sau:
24
1.3.1. Yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
1.3.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng các tiêu chuẩn chức vụ, chức danh
Căn cứ vào tiêu chuẩn công việc của từng đối tượng, Nhà nước đã quy định cụ
thể các tiêu chuẩn cần phải đảm bảo của CBCC nói chung và công chức ở cấp xã
nói riêng. Ví dụ như đối với cán bộ và công chức cấp xã thì dựa trên những quy
định của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, còn đối với công chức
cấp xã áp dụng thực hiện theo Nghị định số 112/2011/NĐ- CP ngày 05/12/2011 của
Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
- Bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị cho các chức danh công chức công
chức cấp xã; cập nhập nội dung các văn kiện, nghị quyết, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
- Về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước: bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản
lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh công chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo,
quản lý; cập nhập kiến thức về pháp luật, văn hoá công sở, nâng cao ý thức đạo đức
công vụ, đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể:
+ Công chức Tư pháp- Hộ tịch: thời gian bồi dưỡng là 02 tháng. [25]
+ Công chức Văn hoá- Xã hội: thời gian bồi dưỡng từ 02 hoặc 04 tháng.
+ Công chức Văn phòng- Thống kê: thời gian bồi dưỡng là 05 tuần.
+ Công chức địa chính- xây dựng- nông nghiệp- môi trường: thời gian bồi
dưỡng là 10 ngày.
+ Công chức Tài chính- Kế toán: thời gian bồi dưỡng từ 02 đến 03 tháng.
+ Chỉ huy trưởng Quân sự: thực hiện theo Quyết định số 360/QĐ- TM ngày
04/3/2011 của Bộ Tổng tham mưu- Quân đội nhân dân Việt Nam, ban hành chương
trình khung đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với Chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn. Đến nay ban hành khung đào tạo Trung cấp quân sự chuyên
nghiệp cơ sở, thời gian đào tạo là 24 tháng, kèm theo bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước, ngoại ngữ tiến anh, chứng chỉ tin học. Bồi dưỡng kiến thức tham mưu tổ
chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng- quân sự địa phương đạt theo tiêu chuẩn đã
quy định;
25