Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN HƢƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG
CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Minh Phƣơng

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo PGS.TS Nguyễn Minh
Phương.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn Thạc sĩ Chính sách công với Đề
tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta
hiện nay” là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời khai này.

Học viên



Hoàng Thị Lan Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở NƢỚC TA .... 9
1.1. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã ............................................................................................................ 9
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.... 22
1.3. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã ...................................................................................... 26
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã ................................................................................................. 26
1.5. Nội dung các bước tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã .......................................................................................................... 31
1.6. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã .......................................................................................................... 35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƢỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ ........................................................... 37
2.1. Khái quát về số lượng và chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở nước ta
hiện nay ............................................................................................................... 38
2.2. Kết quả và hạn chế trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã ở nước ta hiện nay ........................................................................... 44
2.3. Đánh giá chung ............................................................................................ 59
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÔNG CHỨC
CẤP XÃ .............................................................................................................. 65
3.1. Mục tiêu và định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng công chức cấp xã................................................................................ 65
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã ................................................................................................. 71
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB

: Cán bộ

CC

: Công chức

CBCC

: Cán bộ công chức

CCHC

: Cải cách hành chính

CCCX

: Công chức cấp xã

CNH


: Công nghiệp hóa

DTTS

: Dân tộc thiểu số

ĐTBD

: Đào tạo, bồi dưỡng

HĐH

: Hiện đại hóa

HĐND

: Hội đồng nhân dân

QLNN

: Quản lý nhà nước

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

bảng
2.1.a

Tên bảng

Trang

Cơ cấu về chức danh công chức cấp xã

37

2.1.b

Cơ cấu về độ tuổi công chức cấp xã

38

2.1.c

Cơ cấu về trình độ văn hóa công chức cấp xã

38

2.1.d

Cơ cấu về trình độ chuyên môn công chức cấp xã

39

2.1.e


Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị công chức cấp xã

39

2.1.g

Cơ cấu về trình độ quản lý nhà nước công chức cấp xã

40

2.1.h

Cơ cấu về trình độ ngoại ngữ công chức cấp xã

40

2.1.i

Cơ cấu về trình độ tin học công chức cấp xã

41



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã, phường, thị trấn (hay còn gọi là chính quyền cấp
xã) có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn
chỉnh của nhà nước ta, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, trực tiếp

thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị,
an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa xã hội ở cơ sở, đảm bảo cho các chủ
trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống, nâng cao đời sống mọi mặt
của nhân dân.
Ở cấp cơ sở, đội ngũ công chức có vai trò hết sức quan trọng trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công
vụ. Đội ngũ công chức cấp xã (CCCX) là những người gần dân nhất, sát dân
nhất, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đến
được với nhân dân hay không, đến đúng, đến đủ và có được nhân dân tiếp thu
đúng đắn hay không đều thông qua đội ngũ CCCX. Vì vậy, việc quan tâm xây
dựng đội ngũ CCCX có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có
ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng.
Ngay từ những năm đầu lập nước, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của cán bộ “cán bộ là cái gốc
của mọi việc”; “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” và Người cũng khẳng định: "Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để
đặt chính sách cho đúng". [18, tr 269]. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX đã xác định: "Xây dựng đội ngũ cán bộ (CB) cơ sở
có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy
1


sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công
tác đào tạo bồi dưỡng giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ
cơ sở". Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh cần phải
“xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu

trong tình hình mới” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI tr.252). Qua đó cần
phải “rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý CBCC; nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC; nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cả về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực điều hành, quản lý nhà nước”. Có như
thế mới tạo ra được một đội ngũ CBCC “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng
được yêu cầu trong tình hình mới.
Theo Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt kế hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu
góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị,
tinh thông nghiệp vụ có đủ năng lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại (6); Nghị quyết số 30c/NĐ-CP,
ngày 08/11/2011 của Chính phủ về “Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011 - 2020”, nêu lên một trong năm mục tiêu quan trọng
là xây dựng đội ngũ CBCC, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ,
đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước (9). Như vậy,
Đảng và Nhà nước ta đều chú trọng đến chính sách đào tạo bồi dưỡng
(ĐTBD) để nâng cao chất lượng đội ngũ CC nói chung và đội ngũ CCCX nói
riêng nhằm đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý nhà nước (QLNN) ở
chính quyền nhà nước và cấp cơ sở.
Tuy nhiên, do nhiều lý do chủ quan, khách quan việc thực hiện chính
sách ĐTBD chưa đạt hiệu quả, vẫn còn có không ít CCCX chưa qua đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ, không được thường xuyên bồi dưỡng bổ trợ kiến thức
nghiệp vụ chuyên môn và các kỹ năng cần thiết khác cho công tác QLNN ở
2


địa phương. Chính vì lý do trên, tác giả chọn Đề tài “Thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay” làm luận văn
Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Chính sách đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã đã được nhiều nhà
khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu, điển hình là những công trình,
bài viết sau:
- Viện Khoa học tổ chức nhà nước - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ
(2000)“Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã”. NXB. Chính trị
Quốc gia. Sách đề cập đến các nội dung về chính quyền cấp xã và QLNN ở
cấp xã bao gồm các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và tổ chức,
hoạt động của chính quyền cấp xã, công tác quốc phòng an ninh cấp xã, phát
triển kinh tế, tạo việc làm thực hiện xóa đói giảm nghèo ở cấp xã, QLNN về
địa giới hành chính và đất đai cấp xã… Trong đó có dành một phần viết về
cán bộ chính quyền cấp xã với các nội dung chính: Những yêu cầu đối với cán
bộ chính quyền cấp xã; Tác phong làm việc của người CB CCCX.
- Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Kỷ yếu, tọa đàm khoa học: “Xây
dựng, củng cố bộ máy chính quyền và hệ thống chính trị cấp xã, quan điểm,
phương hướng, giải pháp”. Kỷ yếu là tập hợp của 10 báo cáo, tham luận, bài
viết của các chuyên gia bàn về nội dung xây dựng chính quyền cơ sở. Các
tham luận đều nhất trí khẳng định bộ máy chính quyền và hệ thống chính trị ở
xã có vị trí, vai trò rất quan trọng, vì đây là cơ sở gắn bó, tiếp xúc trực tiếp với
nhân dân, phản ánh đầy đủ mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân dân, thể hiện
trực tiếp cụ thể hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng và QLNN đối với các
hoạt động kinh tế xã hội ở cơ sở.
- Lê Chi Mai (2002), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản;
- Nguyễn Khắc Bộ, “Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của chính
3


quyền cơ sở”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2006;
- Đoàn Văn Tình “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, số 12/2013. Bài viết đã phân tích cụ thể việc thu hút nguồn nhân

lực có trình độ, có đủ năng lực đảm bảo hiệu quả làm việc của CB CCCX.
Tuy nhiên, cần áp dụng cho phù hợp để đáp ứng được những yêu cầu thiết
thực của mỗi địa phương.
Một số Đề tài nghiên cứu khoa học:
- TS. Thang Văn Phúc, Bộ Nội vụ, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Đề tài
khoa học cấp Nhà nước KX.04.09. Đề tài đã luận chứng tính tất yếu khách
quan của việc xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và yêu cầu về số lượng, chất lượng đối với đội ngũ
CBCC trong điều kiện mới. Trên cơ sở đó, đề tài đã đánh giá thực trạng và đề
xuất quan điểm, giải pháp xây dựng đội ngũ CBCC trong hệ thống chính trị
nói chung và CBCC trong các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, cơ
quan nhà nước. Đề tài đã có chương riêng về thực trạng và giải pháp xây
dựng đội ngũ CBCC cấp cơ sở. Trong đó có đề cập đến yêu cầu chung của bộ
máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc điểm của hệ thống chính trị
cơ sở và đội ngũ nhân lực chuyên môn ở địa phương hiện nay.
- TS. Trần Quang Minh (2001)“Cơ sở khoa học của việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở cấp xã”, Đề tài cấp Bộ, Bộ Nội vụ. Ở đây,
tác giả nhấn mạnh thực trạng đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở nước ta hiện nay dựa
trên nghiên cứu về số lượng, cơ cấu, chất lượng, trình độ văn hóa, trình độ lý
luận chính trị, trình độ QLNN, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời, tác
giả đưa ra những yêu cầu của thời kỳ đổi mới và nhiệm vụ ĐTBD cán bộ
chính quyền cơ sở, đề xuất một số giải pháp quan trọng như nâng cao năng
4


lực và chất lượng QLNN về công tác ĐTBD; Củng cố và tăng cường chất
lượng hoạt động của hệ thống các cơ sở ĐTBD cán bộ chính quyền cơ sở;
Tăng cường đầu tư, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động ĐTBD CBCC cơ sở.
- Hồ Công Dũng (2009) “Nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức cơ sở Tây Nguyên”, Đề tài cấp Bộ, Bộ Nội vụ. Đề tài tập trung xác định
đúng thực trạng đội ngũ CBCC với các điểm mạnh, điểm yếu và những bất
cập tại khu vực Tây Nguyên, tác động của chúng tới sự phát triển kinh tế xã
hội, an ninh quốc phòng khu vực. Trên cơ sở đó dự báo nhu cầu phát triển
nguồn CBCC tại các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2006 - 2010 và xây dựng hệ
thống giải pháp phát triển đội ngũ CBCC cơ sở Tây Nguyên đến năm 2010.
- Vũ Minh Bồng (2008) “Nghiên cứu các giải pháp xây dựng và phát
triển cán bộ, công chức dân tộc thiểu số người Khmer”. Đề tài cấp Bộ, Bộ Nội
vụ. Đề tài gồm 03 chương: Điều kiện, đặc điểm vùng Tây Nam Bộ và vai trò
của đội ngũ CBCC người Khmer đối với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây
Nam bộ; Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CBCC người dân tộc
Khmer qua các thời kỳ lịch sử và thực trạng của đội ngũ CBCC người Khmer
hiện nay; Phương hướng, mục tiêu và các giải pháp xây dựng và phát triển đội
ngũ CBCC người Khmer ở các tỉnh Tây Nam bộ từ năm 2007 - 2015.
- TS. Nguyễn Ngọc Vân (2014) “Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu
chí đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, Đề tài cấp
Bộ, Bộ Nội vụ. Đề tài đã góp phần làm rõ các yếu tố quyết định chất lượng
ĐTBD và nghiên cứu tương đối toàn diện, có tính hệ thống các tiêu chí đánh
giá trong sự tương quan giữa chúng. Các tiêu chí đánh giá được nghiên cứu,
đề xuất cụ thể hóa thành các tiêu chí: Đánh giá chương trình, tài liệu; đánh giá
giảng viên; đánh giá cơ sở ĐTBD; đánh giá học viên; đánh giá khóa học;
đánh giá tài chính và quản lý tài chính.
- Đỗ Thị Thu Hằng (2004); “Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức
cấp xã trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Hành chính
5


Quốc gia. Luận văn gồm 3 chương: Một số vấn đề chung về CCCX và năng
lực CCCX trong bộ máy chính quyền cơ sở; Phân tích và đánh giá thực trạng
năng lực của đội ngũ CCCX; Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng

lực của đội ngũ CCCX trong giai đoạn hiện nay.
- Lê Phương Thảo (2014), “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã từ thực tiễn huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ
Chính sách công. Luận văn đề cập một cách tổng thể quá trình ĐTBD CB
CCCX, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Đồng thời, rút ra một
số bài học kinh nghiệm trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách
ĐTBD CB CCCX tại huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
Nội dung những tài liệu trên đề cập tới những vấn đề chung về lý luận;
nâng cao năng lực và xây dựng đội ngũ CB CCCX; chính sách ĐTBD CB
CCCX ở một địa phương cụ thể, chưa có đề tài nào đánh giá một cách toàn
diện về thực hiện chính sách ĐTBD CCCX ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên đây
là nguồn tài liệu có giá trị để luận văn kế thừa và phát triển hệ thống cơ sở lý
luận của đề tài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu không trùng lắp với các công trình
đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách và đánh giá
thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CCCX, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ĐTBD CCCX ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CCCX;
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CCCX ở nước ta
hiện nay.
6


- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ĐTBD
CCCX ở nước ta.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là việc thực hiện chính sách ĐTBD CCCX (xã,
phường, thị trấn) ở nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách ĐTBD CCCX ở
nước ta hiện nay.
- Thời gian: Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CCCX từ
2011- 2016 và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
ĐTBD CCCX giai đoạn 2017 - 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện chính sách ĐTBD
CCCX.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp - diễn dịch, kết hợp gắn lý luận với
thực tiễn để làm rõ các nội dung luận văn cũng như chọn lọc những kinh
nghiệm thực tiễn sát với những vấn đề cần giải quyết của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách ĐTBD CCCX và đề xuất một số giải pháp quan trọng, có tính khả thi nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ĐTBD CCCX ở nước ta hiện
nay.
- Về thực tiễn:
+ Luận văn cung cấp thêm các luận cứ khoa học giúp các cấp lãnh đạo,
7


quản lý trong công tác ĐTBD đội ngũ CCCX.
+ Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho những người quan tâm đến

vấn đề phát triển CCCX.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã.
Chƣơng 2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã ở nước ta hiện nay.
Chƣơng 3. Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở NƢỚC TA
1.1. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dƣỡng
công chức cấp xã
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm công chức
Theo Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự

nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật [22].
1.1.1.2. Khái niệm công chức cấp xã
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008,
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước [22].
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 61, Luật cán bộ, công chức năm 2008,
thì CCCX có các chức danh sau:

9


- Trưởng Công an;
- Chỉ huy trưởng Quân sự;
- Văn phòng - thống kê;
- Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
- Tài chính - kế toán;
- Tư pháp - hộ tịch;
- Văn hóa - xã hội [22].
Thông tư số 06/2012/TT-BNV, ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể và nhiệm vụ công chức xã, phường, thị
trấn quy định chức trách của CCCX là làm công tác chuyên môn thuộc biên
chế của UBND cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp UBND cấp xã thực
hiện chức năng QLNN về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các
nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND cấp xã giao [5].
Như vậy có thể hiểu, CCCX là công dân Việt Nam đáp ứng các yêu cầu

tuyển dụng về chuyên môn, nghiệp vụ, phù hợp với các điều kiện thực tế của
cấp xã theo quy định của pháp luật về CCCX được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước.
1.1.1.3. Khái niệm chính sách và chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã
- Khái niệm chính sách:
Theo Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế
hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự
ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của
họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó
trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.
10


Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà
lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
- Khái niệm chính sách công:
Thuật ngữ “chính sách công” được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống
cũng như trong ngôn ngữ hàng ngày nhưng với những cách hiểu chưa hoàn
toàn thống nhất. Từ giác độ ngôn ngữ học, chính sách công được hiểu là “chủ
trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực
kinh tế - xã hội”. James Anderson định nghĩa chính sách “là một quá trình
hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hay nhiều chủ thể trong việc

giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”. Như vậy, các nhà nghiên cứu khi nói
tới “chính sách” đã không chỉ đề cập tới chính sách công mà còn nói tới cả
những chính sách của các doanh nghiệp, các hiệp hội,…
Trong một số tài liệu và văn bản chính thức, người ta có thể đề cập tới
cả chính sách của Đảng và chính sách của Nhà nước (ví dụ như trong cụm từ
“chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước”) nhưng thông thường trong khoa
học chính sách, chủ thể ban hành chính sách được hiểu là Nhà nước (tức là
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Trong nghiên cứu này, chính sách
công được hiểu theo nghĩa này.
Theo nghĩa rộng nhất, chính sách công có thể hiểu là “chính phủ lựa
chọn làm hoặc không làm”. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng những
hoạt động đột xuất hay ngẫu nhiên của các chính khách không thể được gọi là
chính sách. Quan điểm này phân biệt một quyết định đơn lẻ với một chuỗi các
11


quyết định nằm trong hệ thống hoạt động đã được xây dựng sẵn một cách có
định hướng và mục tiêu và chỉ có những quyết định có tác động tới đời sống
xã hội lâu dài và sâu sắc mới có thể được coi là chính sách công. Khi hiểu như
vậy, có thể định nghĩa chính sách công là một hệ thống các quyết định và hoạt
động có tính toán và có mục tiêu của chính quyền.
Như vậy, có thể định nghĩa chính sách công là cách thức hành động do
nhà nước lựa chọn và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
để giải quyết một vấn đề phát sinh trong một giai đoạn nhất định, định hướng
cho xã hội phát triển một cách thống nhất theo mong muốn của nhà nước.
Nội dung của một chính sách có thể được ghi nhận lại dưới nhiều hình thức
khác nhau (vật mang chính sách) như các văn bản quy phạm pháp luật, các
bài phát biểu của lãnh đạo, các báo cáo tường trình…. Tuy nhiên hình thức
thể hiện quan trọng nhất của các chính sách công chính là pháp luật hay nói
cách khác, pháp luật chính là sự thể chế hóa về mặt nhà nước của chính sách.

Chính sách công là một trong những công cụ quản lý quan trọng của nhà
nước. Thông qua hệ thống chính sách công nhà nước giải quyết các vấn đề
đang hoặc sẽ phát sinh trong xã hội, tác động lên các hoạt động của các đối
tượng trong xã hội để định hướng cho các hoạt động này theo mong muốn của
nhà nước. Tuy nhiên, để chính sách công thực sự là công cụ thúc đẩy sự phát
triển xã hội, nhà nước khi ban hành và thực thi chính sách công cần nghiên
cứu và xem xét các quy luật vận động khách quan của xã hội, không chỉ dựa
vào ý chí chủ quan của nhà nước.
- Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng do GS. Nguyễn Như Ý
chủ biên, là “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, đào tạo là “làm cho trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”.
12


Bồi dưỡng, theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên: 1. Làm
khoẻ thêm, mạnh thêm, bồi dưỡng sức khoẻ; 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi
dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học, Bồi dưỡng: 1. Làm cho tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ;
2. Làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất.
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ, 1. Đào
tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo
quy định của từng cấp học, bậc học. 2. Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập
nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc [8].
Đào tạo bồi dưỡng CC (trong đó có CCCX) có nhiều điểm khác biệt so
với các loại hình đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân:
Thứ nhất, đối tượng ĐTBD là CC; những người đang làm việc trong hệ
thống cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội… Đó là
những người đã va chạm với thực tiễn, nghề nghiệp đã ổn định. Quá trình

ĐTBD CC không còn hoặc không phải trang bị những kiến thức cơ bản hay
chuyên ngành nữa, mà là một hệ thống kỹ năng, kỹ xảo; là khả năng vận dụng
và giải quyết các tình huống cụ thể. Đó là quá trình tiếp thu kiến thức một
cách sáng tạo, có phê phán ở trình độ cao những hiểu biết và những kỹ năng
về nghề. Bên cạnh đó, một trong những yêu cầu quan trọng của ĐTBD CC là
nhằm nâng cao năng lực làm việc hiện tại cũng như trong tương lai của họ,
xây dựng nên hành vi và thái độ làm việc đúng đắn, phục vụ nhà nước và
nhân dân một cách công minh và tận tụy.
Thứ hai, hình thức thể hiện văn bằng trong ĐTBD CC là chứng chỉ
không phải là do Bộ Giáo dục và Đào tạo với tư cách là cơ quan thay mặt nhà
nước quản lý về giáo dục và đào tạo cấp, mà đó là sự chứng nhận của các cơ
sở đào tạo trên nguyên tắc phân cấp của Chính phủ và các cơ quan quản lý có
thẩm quyền. Chứng chỉ được cấp trong ĐTBD CC là cơ sở để cho CC được
bố trí, sử dụng theo quy định.
13


Ngoài ra, việc ĐTBD CC được thực hiện theo những quy định khác biệt
so với đào tạo trong hệ giáo dục quốc dân, được thực hiện trong hệ thống các
cơ sở ĐTBD CC của nhà nước không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; hoạt
động theo nguồn kinh phí riêng và theo những chương trình nội dung do hệ
thống cơ quan QLNN về công tác ĐTBD CC nhà nước ban hành…
Như vậy, khái niệm đào tạo và bồi dưỡng rất gần nhau, trong đào tạo đã
bao hàm nghĩa bồi dưỡng, nó khác với bồi dưỡng ở chỗ đào tạo chỉ quá trình
trang bị những kiến thức, kỹ năng mới mà trước đó người CC chưa được đào
tạo. Một cách cụ thể hơn, người ta cho rằng, bồi dưỡng là quá trình nâng cao
trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo. Thông thường,
trong hoạt động công vụ, bồi dưỡng có nhiệm vụ cập nhật, trang bị thêm,
trang bị mới những kiến thức, kỹ năng, thái độ cho CC để thực hiện tốt hơn,
hiệu quả hơn nhiệm vụ được giao.

Việc tách bạch khái niệm đào tạo và bồi dưỡng chỉ để tiện cho việc
phân tích cặn kẽ sự giống nhau và khác nhau giữa ĐTBD. Thực tế xét theo
khung cảnh ĐTBD CC thì, trong đào tạo đã bao hàm nghĩa bồi dưỡng.
Do vậy, có thể quan niệm về ĐTBD như sau: Đào tạo, bồi dưỡng chính
là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt
được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị
của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người, là cán bộ, công chức làm
việc trong tổ chức.
- Khái niệm chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về
ĐTBD công chức (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/05/2010), tại Điều 5
giải thích:“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri
thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” và “Bồi dưỡng là
hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”[8].
14


Theo quan niệm về chính sách công và nhiệm vụ công tác ĐTBD CC
nêu trên có thể quan niệm: “Chính sách ĐTBD CCCX là tổng thể những quan
điểm, thái độ, quyết định, quy định của Nhà nước với mục tiêu các giải pháp,
công cụ cụ thể ĐTBD nhằm xây dựng đội ngũ CCCX có đủ trình độ, năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát
triển đất nước”.
1.1.1.4. Khái niệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Thực hiện chính sách ĐTBD CCCX là toàn bộ quá trình đưa chính sách
ĐTBD đó vào thực tiễn cuộc sống xã hội.
Việc thực hiện chính sách ĐTBD CCCX là toàn bộ quá trình chuyển
hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực nhằm đạt được mục tiêu nhất
định. Thực hiện chính sách ĐTBD CCCX tốt sẽ giúp cho các nội dung công
việc được triển khai theo đúng kế hoạch, hướng tới đạt được mục đích đề ra,

giúp chính sách đi vào thực tế đời sống, phù hợp với nhu cầu phát triển của
đất nước.
1.1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Căn cứ Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số 18/2010/NĐCP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐTBD CC; Thông tư số 03/2011/TTBNV ngày 25/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP; Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch ĐTBD CC giai đoạn 2011 2015; Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ CBCC, viên chức, người DTTS trong
thời kỳ mới”, thực hiện chính sách ĐTBD CCCX, gồm các nội dung sau:
1.2.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị
Đội ngũ CCCX là những người tổ chức thực hiện các đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước nên cần có một trình độ lý luận
chính trị nhất định. Trình độ lý luận chính trị được biểu hiện qua trình độ
15


nhận thức các quy luật, đặc biệt là quy luật kinh tế, xã hội; là sự nhận thức
đúng đắn đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ CCCX có
trình độ lý luận chính trị tốt, thể hiện được ý thức tuân thủ kỷ luật Đảng, đi
đầu trong chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống
lại các biểu hiện lệch lạc, sai trái trong quá trình công tác và đời sống xã hội.
Trình độ lý luận chính trị là một trong những yêu cầu kiến thức quan
trọng của đội ngũ CCCX cần phải có. Bởi vì, muốn cho hoạt động của CCCX
đi đúng hướng và có hiệu quả như mong muốn của Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Mỗi người CC cơ sở phải hiểu mình đang sống trong chế độ xã hội nào,
đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước ra làm sao và phải tổ chức thực
hiện đường lối ấy như thế nào, có như vậy thì mỗi CC cơ sở khi thi hành
nhiệm vụ mới biết mình phải làm gì và làm như thế nào cho đúng.
Việc thực hiện chế độ ĐTBD quy định tại Điều 4 Nghị định số
18/2010/NĐ-CP, tùy theo ngạch và chức vụ lãnh đạo, quản lý đang giữ,
CCCX có trách nhiệm thực hiện chế độ ĐTBD lý luận chính trị theo quy định

của cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam [8].
Thực hiện ĐTBD về lý luận chính trị là ĐTBD kiến thức chủ nghĩa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt các chủ trương chính sách
của Đảng và Pháp luật của Nhà nước thông qua các lớp Trung cấp lý luận
chính trị, Cao cấp lý luận chính trị ….để cập nhật đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng đội ngũ
CBCCCX có lập trường chính trị vững vàng, thái độ chính trị đúng đắn, phẩm
chất tư tưởng tốt. Đây là điều kiện nền tảng để CCCX đủ sức lãnh đạo, quản
lý, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng địa phương vững mạnh về
an ninh, chính trị, kinh tế và xã hội.
1.2.2.2. Đào tạo bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Đội ngũ CCCX là những người luôn phải giải quyết những tình huống
quản lý tại cơ sở, liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân địa phương.
16


Đội ngũ này cần phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của
vị trí việc làm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ thể hiện sự hiểu biết, khả
năng thực hành về một hoặc một số chuyên môn, nghề nghiệp gắn với các
nhiệm vụ được giao. Trình độ đó còn được phản ánh qua nhiều khía cạnh về
ngành, bậc, hình thức đào tạo; kỹ năng và kinh nghiệm công tác.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ CCCX được biểu hiện
thông qua nhiều cấp độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp và đại học; ở mỗi cấp độ là
sự thể hiện bề dày kiến thức, kỹ năng chuyên môn của người CC. Chính vì
vậy, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ là nền tảng của hoạt động công vụ.
Không có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ thì không thể thực hiện đúng, thực
hiện đủ, không thể có sáng tạo trong công việc. Trong khi đó, nội dung hoạt
động chuyên môn của các chức danh chuyên môn cấp cơ sở là thể hiện trực
tiếp đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, có tác động trực tiếp đến
cuộc sống sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn, có tác động rất lớn đến an ninh

chính trị, xã hội của địa phương.
Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch cho
CC cơ sở, như: bồi dưỡng kiến thức về hội nhập quốc tế, kỹ năng hành chính,
đạo đức công vụ, đào tạo ngoại ngữ, tin học,… Mục tiêu xây dựng đội ngũ
CCCX có đủ trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả QLNN nói chung và trên từng địa bàn nói riêng về các lĩnh vực
công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính, văn phòng - thống kê, tài chính - kế
toán… yêu cầu phải thực hiện nhiệm vụ cấp bách là ĐTBD trình độ chuyên
môn cho đội ngũ CCCX.
1.2.2.3. Đào tạo bồi dưỡng về trình độ quản lý nhà nước
Trình độ quản lý nhà nước là mức độ đạt được hệ thống tri thức về
lĩnh vực quản lý nhà nước, như kiến thức bộ máy nhà nước, pháp luật, nguyên
tắc, công cụ quản lý nhà nước,... Hệ thống kiến thức đó giúp đội ngũ CCCX
hiểu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của bản thân, những gì được và không được làm;
17


sử dụng thuần thục các công cụ quản lý, sáng tạo và linh hoạt các phương
pháp quản lý, từ đó thực thi công vụ đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao.
Kiến thức quản lý nhà nước là kiến thức rất quan trọng và cần thiết đối
với CCCX. Đây chính là cơ sở để người CC hiểu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của
mình là gì và thực hiện như thế nào, công cụ quản lý, kỹ năng và phương
pháp ra sao, giúp họ hiểu được sự vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà
nước nói chung và ở cơ sở nói riêng, từ đó thực thi công vụ một cách có hiệu
quả, phù hợp với quy định của nhà nước.
Với đặc điểm hoạt động của CCCX là rất đa dạng và phức tạp, hoạt động
trên một diện nội dung rất rộng, bao quát toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn địa phương. Do đó, những kiến thức quản lý
lại đòi hỏi những nội dung khác nhau và loại kiến thức khác nhau. Tóm lại,
người CCCX phải được trang bị kiến thức QLNN một cách toàn diện về hầu

hết các lĩnh vực.
Để quản lý được tốt theo mục tiêu cải cách nền hành chính, người CCCX
phải được trang bị kiến thức về pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay
và với sự hạn chế về trình độ đào tạo, chúng ta không đòi hỏi người CCCX
phải hiểu hết, hiểu sâu về các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đội ngũ CCCX phải được trang bị
những kiến thức tối thiểu về những quy định của pháp luật, về những vấn đề
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở nói chung và của
từng loại chức danh công chức nói riêng.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ trang bị kiến thức QLNN cho đội ngũ
CCCX, một yêu cầu đặc biệt quan trọng là nội dung phải cụ thể và phải xây
dựng được các kỹ năng quản lý thông qua xử lý các tình huống quản lý. Điều
này xuất phát từ đặc điểm về trình độ và tính chất về hoạt động của CCCX,
mặt khác cũng là để thực hiện mục tiêu chuyên môn hóa các lĩnh vực hoạt
18


động ở cấp xã, cũng như chuyên môn hóa đội ngũ CCCX.
Như vậy thực hiện chính sách ĐTBD về trình độ QLNN nhằm xây dựng
một đội ngũ CCCX vững mạnh, tăng cường khả năng thích ứng trước những
yêu cầu, nhiệm vụ mới trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
1.2.2.4. Đào tạo bồi dưỡng về trình độ tin học, ngoại ngữ
Tính chất hoạt động của đội ngũ CCCX, sự nâng cao mặt bằng dân trí
và những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ CNH
HĐH đất nước đòi hỏi CCCX phải được trang bị nhiều loại kiến thức khác
nhau, bổ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ được tốt hơn. Vì vậy, thực hiện tốt
ĐTBD về tin học sẽ trang bị những kiến thức cơ bản về tin học, sử dụng công
cụ tin học, khai thác thông tin trên mạng nhằm đảm bảo an toàn an ninh thông
tin, từng bước hiện đại hóa và tăng cường năng lực của nền hành chính nhà
nước; thực hiện tốt ĐTBD về ngoại ngữ giúp tăng cường khả năng giao tiếp,

nghiên cứu, dịch thuật tài liệu nước ngoài phục vụ thiết thực cho lĩnh vực
chuyên môn của đội ngũ CCCX.
1.2.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc
Đội ngũ CCCX công tác tại vùng có đông đồng bào là người DTTS
sinh sống có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc lãnh đạo, tuyên
truyền vận động đồng bào các dân tộc thực hiện các chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương. Vì vậy, khi được đào tạo
cơ bản, họ sẽ nắm vững được các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước,
góp phần tích cực trong công tác xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy sự công bằng,
tiến bộ xã hội, qua đó thu hẹp khoảng cách chênh lệch về đời sống vật chất
văn hoá, tinh thần giữa các dân tộc.
Yêu cầu cấp bách của công tác quản lý và phát triển kinh tế - xã hội,
giữ gìn an ninh, quốc phòng đòi hỏi đội ngũ CC cấp cơ sở công tác ở các
vùng có đồng bào DTTS phải biết tiếng dân tộc để giao tiếp và sử dụng trong
công tác. Để việc học tiếng DTTS trở thành nhiệm vụ thường xuyên đối với
19


×