Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thông tin chuyên đề XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.33 KB, 19 trang )

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LẬP PHÁP

Thông tin chuyên đề
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC - THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT GIÁO DỤC
(Tài liệu phục vụ Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIV)

Hà Nội, tháng 5 năm 2018


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………. 2
NỘI DUNG ……………………………………………………………………. 3
1. Quan niệm về xã hội hóa giáo dục ……………………………………………3
2. Thực trạng về xã hội hóa giáo dục ……………..……………………………. 8
3. Một số đề xuất sửa đổi Luật Giáo dục về xã hội hóa giáo dục ………………12
KẾT LUẬN …………………………………………………………………... 16

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút
các nguồn đầu tư khác cho giáo dục…” (Điều 61, Hiến pháp 2013).
Hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến sau
đại học, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu học tập của người dân. Tuy nhiên,


“Chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải
thiện còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu
tính liên thông, chưa thật hợp lý và thiếu tính đồng bộ. Công tác phân luồng và
hướng nghiệp còn hạn chế. Đổi mới giáo dục đào tạo có mặt còn lúng túng.
Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục
còn chậm, công tác đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ chế chính
sách có mặt chưa phù hợp; xã hội hóa còn chậm và gặp nhiều khó khăn”1.
Nhìn nhận từ góc độ kinh nghiệm quá trình phát triển các nền giáo dục
của các nước tiên tiến, thì có thể thấy rõ để phát triển giáo dục hiện nay cần phải
quan tâm mạnh mẽ hơn nữa tới xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục. Để làm điều này, trước hết cần phải xây dựng một hệ thống luật pháp phù
hợp, giúp cho việc hình thành các không gian giáo dục mở, nâng cao chất lượng
giáo dục. Cùng với đó là vai trò của quản lý nhà nước trong việc thúc đẩy xã hội
hóa lĩnh vực giáo dục nhằm phát huy cao nhất nguồn nhân lực, tài lực, trí lực
của xã hội đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục.
Để phục vụ các Vị đại biểu Quốc hội trong quá trình xem xét dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Viện Nghiên cứu lập pháp
thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội trân trọng giới thiệu chuyên đề “Xã hội hóa
giáo dục - Thực trạng và một số đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục”.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2016, trang 248.
1

2


NỘI DUNG

1. Quan niệm về xã hội hóa giáo dục

1.1. Khái niệm về xã hội hóa
“Xã hội hóa” là cụm từ được sử dụng nhiều trong sách báo, nghiên cứu,
xung quanh khái niệm xã hội hóa có những cách tiếp cận khác nhau.
Trong cuốn Một số thuật ngữ hành chính, có giải thích thuật ngữ: “xã hội
hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý
mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách
nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ
cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Nếu đặt trong hoàn cảnh,
thực tiễn mới hiện nay thì khái niệm về xã hội hóa trên tỏ ra phù hợp. Tuy nhiên,
vấn đề là cần có sự phân định rạch ròi, việc nào của Nhà nước, việc nào của tổ
chức, cá nhân khác và việc nào Nhà nước và tổ chức, cá nhân khác cùng làm để
tránh tình trạng Nhà nước ôm đồm nhưng thực hiện hiệu quả chưa cao, những
việc đáng ra nên giao cho các tổ chức, cá nhân khác2.
Một số quan điểm được nêu ra như: Xã hội hóa là việc tăng nguồn lực đầu
tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội hóa và thực hiện các mục tiêu
xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa - coi đây là một biện pháp rất cơ bản
nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh tế, của các tổ
chức xã hội, của mọi người3. Điểm chung của các quan điểm nói trên coi xã hội
hóa là việc huy động khu vực ngoài Nhà nước thực hiện những công việc do
Nhà nước thực hiện hoặc theo quan niệm phải do Nhà nước thực hiện.
Thế giới ngày nay đang có sự thay đổi mạnh mẽ và đặt ra những thách
thức, đòi hỏi Nhà nước phải hoạt động hiệu quả hơn trong khi có giới hạn về
nguồn lực đảm bảo và yêu cầu của người dân ngày càng đa dạng, phong phú

Phan Thị Bình Thuận, Hiểu thế nào về “xã hội hóa” ?. Trang tin điện tử Thời báo kinh tế Sài
Gòn online ( truy cập lần
cuối ngày 19/4/2018.
3
GS. Ngô Thành Dương, Bàn về khái niệm xã hội hóa. Trang tin điện tử Thông tin pháp luật
dân sự ( truy cập lần cuối ngày 19/4/2018.

2

3


hơn. Trong bối cảnh đó, Nhà nước cần tập trung vào các hoạt động phù hợp với
khả năng, tức là các hoạt động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then chốt
đối với phát triển và đồng thời củng cố các thiết chế công cộng, thu hút sự tham
gia của người dân để tạo ra việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng có
chất lượng ngày càng cao.
Khái niệm xã hội hóa được định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam là Nghị quyết số 90/CP (gọi tắt là Nghị quyết 90) ngày
21/08/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa: Xã hội hoá là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác
các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội; là xây dựng cộng
đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi
trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hoá. Tất nhiên, khái niệm đưa ra trong Nghị quyết 90 hướng tới xã hội hóa
trong một số lĩnh vực (giáo dục, y tế, văn hóa) nhưng có thể nói đây là khái
niệm có thể dùng chung trong nhiều lĩnh vực, nó bao hàm hai nội dung là sử
dụng nguồn lực xã hội và xây dựng trách nhiệm của xã hội. Nội dung về trách
nhiệm xã hội ít được đề cập trong các quan niệm của một số nhà nghiên cứu về
xã hội hóa.
Từ các khái niệm trên, nội dung khái niệm xã hội hóa được nhấn mạnh ở
những đặc điểm sau4:
Thứ nhất, xã hội hóa là quá trình mở rộng sự tham gia và huy động xã hội
trong việc chia sẻ trách nhiệm cùng với Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển
của một lĩnh vực nào đó mang tính chất xã hội rộng lớn.
Thứ hai, xã hội hóa là quá trình lâu dài, phức tạp, gắn với việc nhận diện,
xác định rõ ràng và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và

của từng chủ thể trong xã hội khi thực hiện các công việc mang tính chất xã hội
rộng lớn.

Trần Thu Hường, Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
( truy cập lần cuối ngày 18/4/2018.
4

4


Thứ ba, sự tham gia và huy động toàn xã hội được thực hiện theo những
phương thức, mô hình phong phú, đa dạng, phù hợp với năng lực, tạo sự chủ
động và bình đẳng của các chủ thể tham gia vào quá trình xã hội hóa.
Thứ tư, Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về dịch vụ
công. Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ cho tư nhân cung ứng thì Nhà
nước vẫn có trách nhiệm trong việc bảo đảm công bằng, chất lượng trong tiếp
cận, thụ hưởng các dịch vụ công.
1.2. Khái niệm về xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục được ghi nhận lần đầu trong Nghị quyết 90 của Chính
phủ, trong đó định nghĩa: “Xã hội hoá các hoạt động giáo dục… là vận động và
tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển
các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục… và sự
phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân”5.
Năm 2005, Quốc hội đã luật hóa nội dung xã hội hóa giáo dục trong Luật
Giáo dục. Điều 12 Luật Giáo dục năm 2005 quy định về xã hội hóa sự nghiệp
giáo dục gồm ba nội dung:
(i) Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước
và của toàn dân.
(ii) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực

hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục.
(iii) Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Như vậy, quan điểm về xã hội hóa giáo dục đã có những bước tiến mới,
trong đó Nhà nước không chỉ ghi nhận vai trò của Nhà nước trong giáo dục là
chủ đạo, mà còn khẳng định xã hội hóa giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng
Chính phủ, Nghị quyết số 90/CP ngày 21/08/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.
5

5


trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Bước tiến về sự tham gia của cộng đồng,
bên cạnh khuyến khích, còn tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển
sự nghiệp giáo dục. Luật cũng làm rõ hơn nội hàm của xã hội hóa giáo dục là sự
tham gia của cộng đồng trong đa dạng hóa loại hình trường, hình thức giáo dục,
trách nhiệm chung của gia đình và nhà trường trong giáo dục.
Đến ngày nay, cần tiếp tục nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục. Xã hội hóa
giáo dục không chỉ là vấn đề: Xã hội tham gia vào việc dựng trường, mở lớp,
hay tài trợ, mà còn có thể nghiên cứu huy động xã hội tham gia vào quá trình
xây dựng chương trình giáo dục. Đặc biệt giúp đa dạng hoá, hiện đại hóa
chương trình, nhằm đáp ứng được những đòi hỏi phong phú của xã hội. Ngoài
ra, giáo dục trong nhà trường phải luôn được gắn kết với xã hội, trên cơ sở
những nghiên cứu và tổng kết về các vấn đề xã hội, trong đó xã hội phải được
coi là một thực thể sống luôn phát triển không ngừng6.
PGS.TS. Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo

dục - Thanh niên - Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đưa ra định nghĩa: Xã
hội hóa giáo dục là quá trình chuyển giao những nội dung, nhiệm vụ của lĩnh
vực giáo dục mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện, cho người dân, tổ
chức thực hiện bằng nguồn tài chính ngoài Nhà nước theo quy định của Nhà
nước7.
Cũng có quan điểm cho rằng xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là quá trình
hướng mọi hoạt động giáo dục tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức, gia
đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và
an toàn. Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước,
giảm bớt ngân sách nhà nước mà ngược lại, Nhà nước cần tìm kiếm thêm các
Dương Quốc Việt, Luận về xã hội hóa giáo dục. Trang tin điện tử Tạp chí Tia sáng
( truy cập lần cuối ngày
16/4/2018.
7
PGS.TS. Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban VHGDTNTN&NĐ của QH, Góp ý
về quản lý tài chính và xã hội hóa giáo dục, Tọa đàm tham vấn chuyên gia do Ủy ban
VHGDTNTN&NĐ tổ chức ngày 25/01/2018 tại Hà Nội.
6

6


nguồn thu để tăng thêm ngân sách chi cho các hoạt động giáo dục đào tạo, đồng
nghĩa với việc Nhà nước phải quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
này. Bên cạnh đó, xã hội hoá giáo dục chính là đưa giáo dục gắn với xã hội, với
cộng đồng; giáo dục phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng.
Cần tránh đánh đồng xã hội hóa giáo dục với tư nhân hóa giáo dục. Có
người quan điểm sai lầm cho rằng tư nhân hóa giáo dục chính là xã hội hóa giáo

dục.
Nội dung hoạt động xã hội hoá giáo dục được Đảng, Nhà nước đề cập hết
sức phong phú, như: việc huy động các lực lượng xã hội đầu tư các nguồn lực
cho giáo dục; tham gia vào quá trình đa dạng hoá các loại hình trường, lớp, các
loại hình học tập; tạo lập và đẩy mạnh phong trào học tập rộng khắp trong xã
hội, mọi cá nhân, công dân học bằng nhiều hình thức khác nhau;...
1.3. Mục tiêu, vai trò xã hội hóa giáo dục
* Mục tiêu xã hội hóa giáo dục
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/04/2005 của Chính phủ về đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao khẳng
định hai mục tiêu là:
(i) Phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã
hội chăm lo sự nghiệp giáo dục;
(ii) Tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách,
người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày càng cao.
Đây là hai định hướng quan trọng để xã hội hóa giáo dục hướng tới. Bên
cạnh đó, trong quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục thì các mục tiêu khác cần
đạt được là:
- Tạo cơ chế quản lý giáo dục, tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng đa
dạng hóa.
- Phát huy nội lực trong xã hội, khơi dậy tính chủ động, tích cực, sáng tạo
của mọi tầng lớp nhân dân, tạo ra nguồn lực để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát
triển. Công cuộc đổi mới được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cho thấy, nguồn
7


lực trong xã hội nếu được khai thác, phát huy sẽ đạt kết quả to lớn. Chính vì vậy,
xã hội hóa giáo dục phải hướng tới mục tiêu khơi dậy tiềm năng cả về vật chất
và trí tuệ của người dân để phát triển giáo dục.
- Thực hiện công bằng xã hội, nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục của

mỗi người dân.
* Vai trò xã hội hóa giáo dục
Một số vai trò quan trọng của xã hội hóa giáo dục, đó là:
- Tăng nguồn đầu tư cho giáo dục. Đảng và Nhà nước xác định giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Do đó, bên cạnh nguồn đầu tư từ Nhà nước, xã hội hóa giáo
dục có vai trò trong việc tăng nguồn đầu tư cho giáo dục không chỉ là nguồn vốn
ngân sách nhà nước mà từ vốn trong nhân dân, trong xã hội,…
- Ở góc độ của người học, xã hội hóa giáo dục tạo điều kiện để người đi
học được tham gia học tập với nhiều loại hình phù hợp.
- Góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục.
2. Thực trạng về xã hội hóa giáo dục
2.1. Thực trạng quy định về xã hội hóa giáo dục
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về xã hội hóa giáo dục, Quốc
hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện xã
hội hóa giáo dục, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động xã hội hóa giáo
dục.
Quốc hội ban hành Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
tại Điều 9 quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phát triển giáo dục phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc
phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối
về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên
cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng”.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 về
chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
8


dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường… được sửa đổi, bổ sung một

số điều theo Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/06/2014. Các Nghị định này
đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi, ưu đãi, khuyến khích phát triển xã hội hóa
giáo dục.
Các nội dung của xã hội hóa sự nghiệp giáo dục bao gồm:
- Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước
và của toàn dân;
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục;
- Thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục;
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển
sự nghiệp giáo dục;
- Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh và an toàn;
- Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo phân cấp của Chính phủ, trong đó
có việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục; kiểm tra việc chấp hành pháp luật
về giáo dục của các cơ sở giáo dục trên địa bàn; có trách nhiệm bảo đảm các
điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các
trường công lập thuộc phạm vi quản lý; phát triển các loại hình trường, thực hiện
xã hội hoá giáo dục; bảo đảm đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quy định về xã hội hóa giáo dục
cũng còn một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, nhìn chung, các quy định về xã hội hóa giáo dục trong Luật
Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) mới chỉ mang tính
định hướng chung, khái quát, chưa có quy định cụ thể ngay trong Luật. Trong
khi đó, Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13, khoản 3 Điều 12 quy định về
xã hội hóa giáo dục đại học khá chi tiết về nội dung khuyến khích, tạo điều kiện
gồm: ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở
9



giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài
hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học
tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của
pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi.
Thứ hai, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ,
được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày
16/06/2014 quy định những ưu đãi về giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành
giải phóng mặt bằng; cho thuê đất, cơ sở vật chất với giá ưu đãi; ưu đãi tín
dụng;… thực tế triển khai còn hạn chế do nhiều nguyên nhân như: vượt quá khả
năng cân đối của ngân sách địa phương, thiếu quy hoạch sử dụng đất đai cho
mục đích xã hội hóa.
Thứ ba, trong quá trình thực hiện Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày
10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ quyết định danh mục chi tiết các loại hình,
tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường do quỹ đất tại
các đô thị có hạn nên các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập còn gặp
khó khăn trong việc được ưu tiên xem xét thực hiện giao đất, cho thuê đất, thuê
nhà theo Thông tư số 135/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008 của Bộ Tài chính
hoặc đã được giao đất, thuê đất, thuê nhà nhưng chưa bảo đảm diện tích tối thiểu
theo quy định.
Thứ tư, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ
quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ
năm học 2015 đến năm học 2021, nhưng có điểm chưa phù hợp với mặt bằng
giá cả, đã làm ảnh hưởng đến quyền tự chủ của các trường trong việc quản lý và
sử dụng các nguồn lực tài chính.
2.2. Thực trạng hoạt động xã hội hóa giáo dục
Quy định của pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần tham

gia xã hội hóa giáo dục. Hệ thống giáo dục quốc dân được đa dạng hóa, từng
bước xây dựng được xã hội học tập. Xã hội tham gia ở tất cả các cấp giáo dục,
10


từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học. Các trường ngoài công lập trong
những năm qua đã đạt được nhiều kết quả, nâng cao chất lượng giáo dục, đáp
ứng nhu cầu học tập của người dân. Theo thống kê giáo dục và đào tạo, tính đến
hết năm học 2014 - 2015 tổng số các cơ sở giáo dục của toàn ngành là 43.874
trường, trong đó có: 41.248 trường công lập (94%), 2.626 trường ngoài công lập
(6%); về quy mô, cả nước có 20.889.029 học sinh, sinh viên, trong đó các
trường ngoài công lập có 1.323.797 học sinh, sinh viên (6,4%)8.
Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, xây dựng
trường, cơ sở đào tạo để chuẩn bị nguồn nhân lực cho ngành mình: trường Đại
học Bưu chính Viễn thông (Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông); trường Đại
học Điện lực (Tập đoàn Điện lực Việt Nam); trường Đại học Dầu khí (Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam); trường Cao đẳng Vietronics Hải Phòng (Tổng
Công ty Điện tử và Tin học Việt Nam); trường Đại học FPT (Tập đoàn FPT);...
Các trường đã trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
mình và góp phần đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Việc phát triển các loại hình trường ngoài công lập đã giảm áp lực cho các
địa phương có nhu cầu cao về trường lớp, đáp ứng quy mô học sinh tăng nhanh,
đặc biệt là ở các thành phố trực thuộc Trung ương, “Mô hình trường chất lượng
cao, trường quốc tế thời gian qua đã phát triển mạnh mẽ, trong đó điển hình là
tại thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố có 19 trường phổ thông quốc tế,
trường có yếu tố nước ngoài với 1.345 giáo viên, 10.799 học sinh (trong đó có
5.080 học sinh Việt Nam)”9.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục cũng được tăng cường.
Hoạt động hợp tác phát triển giáo dục đào tạo được thực hiện theo nhiều hình
thức như: liên kết thành lập cơ sở giáo dục, đào tạo, công nhận văn bằng,... Nhờ


Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển, Về công tác xã hội hóa giáo dục ở
nước ta những năm qua và các giải pháp đồng bộ cần thực hiện thời gian tới. Trang tin điện tử Tạp chí
Cộng Sản ( truy cập lần cuối ngày 16/4/2018.
9
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển, Tài liệu đã dẫn.
8

11


đó, nhiều lĩnh vực và nhiều đối tượng thụ hưởng giáo dục ở nước ta có cơ hội
tiếp cận với dịch vụ giáo dục có chất lượng của các nước.
Bên cạnh đó, hoạt động xã hội hóa giáo dục có một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, một số chính sách xã hội hóa giáo dục triển khai chậm, hiệu quả
chưa cao. Việc xã hội hóa để xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời chưa
thực sự được giải quyết hoàn toàn trong thực tiễn. Theo Tổng điều tra Dân số và
Nhà ở Việt Nam năm 2009: Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trong độ tuổi mầm
non là 12,19%; độ tuổi tiểu học: 3,97%; độ tuổi trung học cơ sở: 11,17%10.
Hiện nay, cơ sở vật chất, mạng lưới trường lớp được đầu tư theo hướng
kiên cố hóa, chuẩn hóa. Tuy nhiên, một số nơi cơ sở vật chất trường lớp còn
thiếu thốn, tỷ lệ trường tạm còn nhiều11.
Thứ hai, các cơ sở giáo dục ngoài công lập chủ yếu tập trung ở một số
tỉnh, thành phố lớn, ảnh hưởng đến sự cân đối về mạng lưới phân bố các cơ sở
giáo dục đào tạo.
Thứ ba, tình trạng lạm thu nhân danh xã hội hóa giáo dục trong nhà
trường diễn ra ở một số trường, lớp.
Thứ tư, xã hội hóa giáo dục chủ yếu mới dừng ở thu hút nguồn vốn trong
xã hội vào xây dựng cơ sở vật chất (các trường dân lập), đem lại điều kiện giáo
dục tốt (ở các thành phố lớn, số học sinh trong lớp ở trường dân lập thường bằng

một nửa so với trường công lập,…). Tuy nhiên, có trường hợp còn nặng về yếu
tố học phí mà yếu tố của một “cơ sở giáo dục”, tập trung cho chất lượng giáo
dục còn chưa rõ nét.
3. Một số đề xuất sửa đổi Luật Giáo dục về xã hội hóa giáo dục
Quan điểm chung là cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung để
hoàn thiện các văn bản, chính sách liên quan đến xã hội hóa giáo dục, tạo hành

ThS. Nguyễn Hoa Mai, Xã hội hóa giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Trang
tin điện tử Tạp chí Lý luận chính trị ( truy cập lần
cuối ngày 16/4/2018.
11
ThS. Nguyễn Hoa Mai, Tài liệu đã dẫn.
10

12


lang pháp lý đầy đủ, thuận lợi để khuyến khích xã hội hóa đầu tư phát triển giáo
dục và đào tạo.
- Về đầu tư cho giáo dục: Đầu tư cho giáo dục cần được coi là đầu tư cho
tương lai, đầu tư cho phát triển của đất nước, chính vì vậy, ngân sách nhà nước
phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Bên cạnh
ngân sách nhà nước, cần huy động thêm các nguồn đầu tư đa dạng từ tổ chức, cá
nhân trong xã hội. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù
thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư.
Bên cạnh việc tăng ngân sách cho giáo dục đào tạo thì phải giải thêm bài toán:
Làm sao để giáo dục hấp thụ được vốn ngân sách đó, sử dụng nguồn vốn như
thế nào cho hiệu quả cao nhất.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư lâu dài, do vậy, pháp luật phải có cơ chế cụ
thể bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư cho giáo dục.

Bên cạnh quy định có tính nguyên tắc như Điều 13 Luật Giáo dục năm 2005
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) như hiện nay cần có những quy định cụ thể hơn.
Như vậy, mới khuyến khích được các cá nhân, tổ chức yên tâm đầu tư vào giáo
dục.
Điều 67 Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy
định về Quyền sở hữu tài sản, rút vốn và chuyển nhượng vốn, trong đó: “Tài
sản, tài chính của trường dân lập thuộc sở hữu tập thể của cộng đồng dân cư ở
cơ sở; tài sản, tài chính của trường tư thục thuộc sở hữu của các thành viên góp
vốn. Tài sản, tài chính của trường dân lập, trường tư thục được Nhà nước bảo
hộ theo quy định của pháp luật”. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để có quy định
đối với mô hình trường đối tác công tư. Quy định về tài chính, tài sản của trường
dân lập thuộc sở hữu cộng đồng dân cư ở cơ sở cũng chưa rõ ràng, không có chủ
thể tiếp nhận quyền này, bởi cộng đồng dân cư không phải là cá nhân hay pháp
nhân theo quy định của pháp luật, vì vậy, cần nghiên cứu quy định cụ thể hơn.
Ngoài ra, cần quy định ngay trong Luật việc rút vốn và chuyển nhượng vốn đối
với trường tư thục, bảo đảm sự ổn định và phát triển của nhà trường.
13


- Về chính sách hỗ trợ: Hiện tại Nhà nước đang sử dụng chính sách hỗ trợ
theo vùng (khoản 11 Điều 7 Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy
định về đối tượng được miễn học phí). Tuy nhiên, trong vùng khó khăn vẫn có
thể có người có điều kiện kinh tế, không cần hỗ trợ. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu
quy định việc hỗ trợ theo nhóm đối tượng như: hộ nghèo, hộ cận nghèo,...
- Tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào
tạo; trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng xã hội đối với giáo dục, thể hiện
quan điểm xã hội hóa sâu rộng về giáo dục.
- Nghiên cứu việc đa dạng sách giáo khoa trên cơ sở yêu cầu chung, cơ
bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo và phải được một Hội đồng do Bộ Giáo dục và
Đào tạo lập ra duyệt, từ đó có các bộ sách phù hợp với mục đích đào tạo của các

trường.
- Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, Nhà nước có chính sách huy động các
nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục - đào tạo, khuyến khích và tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo
dục, cần quan tâm hơn đến giáo dục kỹ năng sống và hướng nghiệp. Xây dựng
cơ chế quản lý, giám sát các nguồn đầu tư của xã hội cho giáo dục. Nghiên cứu
một số hình thức như: Trường công lập cũng như tư thục thuê giáo viên người
nước ngoài giảng dạy một số chương trình quốc tế; áp dụng mô hình đào tạo
chuyển tiếp bằng hình thức học 1 hoặc 2 năm trong nước, học 2 hoặc 3 năm ở
nước ngoài và do trường trong nước và trường nước ngoài cùng cấp bằng...
- Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải bảo đảm phát triển bền
vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên
tiến. Mở rộng hợp tác gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước và
quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo12. Cần xây dựng cơ chế,
chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư cho giáo
PGS.TS. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Một số quan
điểm cơ bản của Đảng về giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam
( truy cập lần cuối ngày 16/4/2018.
12

14


dục; có cơ chế, chính sách thu hút các nhà khoa học tham gia đào tạo, nghiên
cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
các trường đại học hàng đầu quốc tế mở cơ sở đào tạo ở Việt Nam, khuyến khích
đầu tư từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước xây dựng cơ sở giáo dục và đào tạo
chất lượng cao.


15


KẾT LUẬN

Xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng nêu rõ: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh
thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người
dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”13.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn khó khăn hiện nay, chúng ta cần
xây dựng kế hoạch đầu tư cho giáo dục trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, cần
đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục, trong đó hết sức coi trọng nguồn
lực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Chính vì vậy, xã hội hóa giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng để thu hút
các nguồn lực đầu tư trong xã hội với nhiều hình thức phù hợp để đổi mới, phát
triển nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đồng thời, cần ban hành các cơ
chế, chính sách cụ thể để ưu tiên, tạo điều kiện xã hội hóa giáo dục. Bên cạnh
đó, các Bộ, ngành, địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xã hội
hóa giáo dục đạt hiệu quả cao.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
( truy cập lần cuối ngày 16/4/2018.
13

16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
3. Nghị quyết số 90/CP ngày 21/08/1997 của Chính phủ về phương hướng
và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.
4. Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/04/2005 của Chính phủ về đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.
5. Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ, Nghị
định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/06/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội
hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao, môi trường.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2016, trang 248.
7. Trần Thu Hường, Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ luật học, Học viện
Chính

trị

quốc

gia

Hồ

Chí

Minh


( />
/2018/1/12/tran_thu_huong_vi.pdf), truy cập lần cuối ngày 18/4/2018.
8. PGS.TS. Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo
dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc Hội, Góp ý về quản lý tài
chính và xã hội hóa giáo dục, Tọa đàm tham vấn chuyên gia do Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tổ chức ngày 25/01/2018 tại Hà
Nội.
9. Phan Thị Bình Thuận, Hiểu thế nào về “xã hội hóa” ?. Trang tin điện tử
Thời báo kinh tế Sài Gòn online ( truy cập lần cuối ngày 19/4/2018.
10. ThS. Nguyễn Hoa Mai, Xã hội hóa giáo dục đáp ứng yêu cầu phát
triển và hội nhập. Trang tin điện tử Tạp chí Lý luận chính trị
( />

hoa-giao-duc-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-va-hoi-nhap.html), truy cập lần cuối
ngày 16/4/2018.
11. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển, Về công tác
xã hội hóa giáo dục ở nước ta những năm qua và các giải pháp đồng bộ cần thực
hiện

thời

gian

tới.

Trang

tin


điện

tử

Tạp

chí

Cộng

Sản

( truy cập lần cuối ngày
16/4/2018.
12. Dương Quốc Việt, Luận về xã hội hóa giáo dục. Trang tin điện tử Tạp
chí Tia sáng ( truy cập lần cuối ngày 16/4/2018.

18



×