Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào từ kinh nghiệm của pháp luật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.46 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ARTAR SENGDAVONG

ĐỀ TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG CỦA NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO TỪ KINH NGHIỆM CỦA PHÁP LUẬT CỦA NƢỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

ARTAR SENGDAVONG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tên đầy đủ

BTTH

Bồi thƣờng thiệt hại

BVQLNTD

Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

CHDCND

Cộng hoà dân chủ nhân dân

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

NTD

Ngƣời tiêu dùng



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ
PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG....................................6
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ....................................................6
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng .............................................................................6
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các nhân tố tham gia và các
yếu tố tác động đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............................................8
1.2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng .......................................................13
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...............................13
1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................16
1.2.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .............................18
1.2.4. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ..............19
1.3. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.......................................................................21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG CỦA NƢỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ....................................................................................25
2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng của Lào .......................25
2.1.1. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng ............................25
2.1.2. Các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà sản xuất, cung cấp hàng
hóa, dịch vụ ............................................................................................................34
2.1.3. Trách nhiệm từ phía Nhà nước ....................................................................44
2.1.4. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng ......................48
2.1.5. Những biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ........................................................................................................................50

2.2. Thực tiễn thi hành pháp pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ................54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..........................................................................................63


Chƣơng 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, BẢO
ĐẢM HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO.........................64
3.1. Bài học kinh nghiệm của Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng Việt Nam số
59/2010/QH12 về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ................................................64
3.2. Định hƣớng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả pháp luật
Lào về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ..................................................................73
3.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật Lào về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trên cơ sở kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam ....................................................73
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Lào về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trên cơ sở kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam ....................................................74
3.2.3. Giải pháp thực thi hiệu quả pháp luật Lào về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ........................................................................................................................83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ..........................................................................................86
KẾT LUẬN ..................................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................89


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngƣời tiêu dùng (NTD) là một lực lƣợng đông đảo và có vai trò vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội nói chung. Thực tế
cho thấy, khi kinh tế phát triển thì văn hóa, chính trị, xã hội cũng có những sự tiến bộ

tƣơng ứng. Do đó, việc nghiên cứu về hành vi tiêu dùng và củng cố hơn nữa vai trò
của NTD là rất quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu của NTD, từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình
và sự thịnh vƣợng cho nền kinh tế. Với vai trò quan trọng nhƣ vậy, lẽ ra NTD phải
đƣợc các doanh nghiệp tôn trọng và bảo vệ quyền lợi. Tuy nhiên, NTD lại đang là
những ngƣời phải chịu thiệt thòi khi thực hiện hành vi tiêu dùng. Nhất là trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trƣờng, quyền lợi của NTD – bên yếu thế trong mối quan hệ với các tổ chức, cá
nhân, sản xuất kinh doanh ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng. Vì nhu cầu lợi nhuận,
đạo đức kinh doanh suy đồi, không ít nhà cung cấp đã lạm dụng ƣu thế của mình để
khai thác, bóc lột, lừa dối NTD bằng rất nhiều hình thức: sản phẩm không đúng chất
lƣợng, không đủ số lƣợng, quảng cáo gian dối,... hơn thế nữa, tính mạng, sức khỏe
NTD đứng trƣớc sự đe dọa bởi thực phẩm độc hại, sản phẩm không an toàn...
Mặc dù Luật Bảo vệ NTD số 02/NA (Law on Consumer Protection No.
02/NA) đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào)
thông qua vào ngày 30/6/2010, nhƣng cho đến nay quyền lợi của NTD vẫn đang và
có nguy cơ tiếp tục bị vi phạm trầm trọng. Luật Bảo vệ NTD số 02/NA mặc dù có
những tiến bộ nhất định trong việc BVQLNTD, tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau,
Luật bảo vệ NTD Lào số 02/NA năm 2010 vẫn chƣa phải là một sản phẩm “hoàn
hảo”, là một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi ích hợp pháp của NTD hiện nay.
Chính vì vậy, bên cạnh nhu cầu nâng cao “chất lượng” của bản thân pháp
luật hiện hành về BVQLNTD, thì việc thông qua điều chỉnh pháp luật để tăng
cƣờng các khả năng và nhiệm vụ của các thiết chế BVQLNTD là nhu cầu cấp bách
đặt ra hiện nay. Điều này có ý nghĩa rất lớn không những đối với sự phát triển của
nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, mà còn là điều kiện không thể thiếu đƣợc của một
xã hội văn minh, công bằng và nhân đạo. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận về pháp luật BVQLNTD, cũng nhƣ thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật
BVQLNTD là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đƣa ra định hƣớng, giải pháp cụ thể
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.



2

Là một lƣu học sinh ngƣời Lào, tôi thấy rằng, Việt Nam và Lào có những
điểm tƣơng đồng về hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội, tuy
nhiên, nền lập pháp của Việt Nam lại cao hơn so với Lào. Do đó, trong quá trình
hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng (BVQLNTD), việc học
tập những kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam là điều cần thiết. Nhận thức đƣợc
điều này, tôi đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ kinh nghiệm của pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với hy vọng có thể góp một phần phân
tích về thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật BVQLNTD cũng nhƣ nâng cao
hiệu quả trong công tác BVQLNTD ở Lào trong trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng là những vấn đề đƣợc rất nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới. Hầu nhƣ năm nào, các bài nghiên cứu về BVQLNTD liên quan
đến trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp cũng đƣợc đăng tải.
Ở Việt Nam, vấn đề BVQLNTD cũng rất đƣợc quan tâm, với một loạt các
công trình nhƣ: “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người tiêu
dùng” – Tác giả Nguyễn Văn Cƣơng; “Tính cắt khúc trong việc xây dựng và thực
thi luật ở Việt Nam: Từ thực tiễn soạn thảo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010” - Tác giả Nguyễn Văn Cƣơng; Tài liệu hội thảo “Pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội; Đề tài khoa học “Nghiên cứu vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng trong
việc bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội do
Nguyễn Thị Vân Anh chủ biên; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của Võ
Thị Hạnh năm 2015; “Chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi
vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ

luật học của Đặng Đình Ngọc năm 2013; “Trách nhiệm của thương nhân trong việc
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” - Luận văn thạc sĩ luật học
của Nguyễn Thị Thu Hiền năm 2011; …
Ở nƣớc CHDCND Lào, cùng với sự phát triển kinh tế thị trƣờng, vấn đề
BVQLNTD cũng dần đƣợc quan tâm, tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ NTD
chỉ đƣợc đề cập đến một cách khái quát trong các sách, tài liệu, hoặc nghiên cứu trên
một số khía cạnh trong một số tạp chí chuyên ngành, trong đó có thể kể đến các công
trình nhƣ: Tài liệu “Nội dung cơ bản của Nghị định số 15/PMO ngày 04/02/2004 về
cạnh tranh thương mại” của Cục Tuyên truyền - Phổ biến pháp luật, Bộ Tƣ pháp Lào


3

năm 2004; Tài liệu “Giới thiệu nội dung cơ bản của Luật Bảo vệ người tiêu dùng số
02/NA ngày 30/6/2010” của Cục Tuyên truyền - Phổ biến pháp luật, Bộ Tƣ pháp Lào
năm 2010; bài viết “Chế định chống cạnh tranh không lành mạnh – Quy định pháp
luật và một số vấn đề cần bàn luận” của tác giả Xổm Xay Xỉ Hà Chắc đăng trên Tạp
chí Luật học số 10/2005, tr. 42-48; bài viết “Nghị định 15/PMO về cạnh tranh thương
mại và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng” của tác giả Sith Ma la vông đăng trên Tạp chí
Luật học, số 12/2009, tr.40-43; bài viết “Sự cần thiết phải sửa đổi hoàn thiện pháp
luật về cạnh tranh thương mại Lào trong bối cảnh hội nhập hiện nay” Phô Thi Lát
Phôm phô Thi đăng trên Tạp chí Giáo dục lý luận, số 12/2014, tr.25-28; bài viết
“Pháp luật bảo vệ NTD trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay” của tác giả Sith
Ma la vông đăng trên Tạp chí Alunmay, số 5/2015, tr.30-35;...
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài mà tác giả tiếp
cận đƣợc, có thể thấy rằng, cũng nhƣ Việt Nam, vấn đề quyền lợi NTD và vấn đề
BVQLNTD ở Lào mới chỉ đƣợc quan tâm nghiên cứu từ sau khi đất nƣớc chuyển từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trƣờng và đặt biệt là trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, quyền lợi của NTD ngày càng bị

xâm hại nghiêm trọng. Nhu cầu bảo vệ NTD xuất hiện đồng thời với khá nhiều
công trình nghiên cứu dƣới nhiều khía cạnh các nhau. Tuy nhiên, nếu nhƣ ở Việt
Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về bảo vệ NTD, thì ở
Lào, phần lớn các công trình khoa học pháp lý về lĩnh vực này đƣợc công bố dƣới
hình thức các bài viết đƣợc đăng trên các tạp chí khoa học. Do đó vẫn chƣa thể giải
quyết một cách thỏa đáng, hệ thống tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến bảo vệ
NTD. Nhìn chung các công trình trên chỉ đề cập đến một số hoặc một khía cạnh nào
đó của vấn đề BVQLNTD; chƣa luận giải và đề xuất cụ thể và toàn diện các giải
pháp nhằm đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo vệ hữu hiệu NTD Lào khi quyền lợi của họ bị
vi phạm khá nghiêm trọng nhƣ trong bối cảnh hiện nay. Hơn nữa, cho đến nay,
chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào đề cập tới vấn đề hoàn thiện pháp
luật tiêu dùng của Lào trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm từ pháp luật BVQLNTD
của Việt Nam. Chính vì vậy, có thể nói, đề tài nghiên cứu là một trong những vấn
đề khá mới trong những năm gần đây.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: là những nội dung pháp luật liên quan
đến vấn đề BVQLNTD trong Luật bảo vệ NTD số 02/NA năm 2010 của nƣớc


4

CHDCND Lào; thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật BVQLNTD ở Lào; kinh
nghiệm của Việt Nam trong xây dựng pháp luật BVQLNTD.
- Phạm vi nghiên cứu: Bên cạnh việc đặt trọng tâm vào nghiên cứu những
vấn đề mang tính lý luận, luận văn chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, đánh giá tính
phù hợp, thống nhất, hợp lý và khả thi của Luật bảo vệ NTD số 02/NA năm 2010
của nƣớc CHDCND Lào trong những năm qua, trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những
hạn chế và phƣơng hƣớng hoàn thiện. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu một số
quy định về BVQLNTD của pháp luật BVQLNTD ở Việt Nam nhằm đƣa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, góp phần giải quyết những điểm khuyết

trong lý luận cũng nhƣ trong thực tiễn áp dụng pháp luật BVQLNTD của Lào.
4. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về NTD, các quyền cơ bản của NTD, nghĩa
vụ của các chủ thể khác, quan hệ tiêu dùng và pháp luật BVQLNTD.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật BVQLNTD cũng nhƣ việc thực
thi pháp luật BVQLNTD ở nƣớc CHDCND Lào.
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD nƣớc CHDCND Lào.
5. Các câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn phải trả lời các câu hỏi nghiên
cứu sau:
- Cơ sở lý luận NTD, quan hệ tiêu dùng, các quyền của NTD, nghĩa vụ của
các chủ thể khác trong hệ thống pháp luật BVQLNTD nhƣ thế nào?
- Vai trò, vị trí của NTD, pháp luật BVQLNTD trong hệ thống pháp luật Lào
nhƣ thế nào?
- Sự ghi nhận quyền và BVQLNTD ở một số quốc gia trên thế giới đã để lại
những kinh nghiệm gì cho pháp luật Lào?
- Pháp luật hiện hành quy định về BVQLNTD khi quyền lợi của NTD bị xâm
phạm nhƣ thế nào?.
- Thực trạng áp dụng pháp luật BVQLNTD ở Lào trong thời gian qua đã đạt
đƣợc những thành tựu, cũng nhƣ còn những khó khăn, vƣớng mắc gì, nguyên nhân
của chúng?
- Pháp luật Việt Nam về BVQLNTD quy định nhƣ thế nào? Những bài học
kinh nghiệm rút ra?


5

- Tính cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật BVQLNTD nƣớc CHDCND
Lào và những đề xuất phƣơng hƣớng, những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp

luật BVQLNTD cũng nhƣ nâng cao hiệu quả công tác BVQLNTD ở Lào.
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng
nhiều phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phƣơng pháp phân tích để phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật; phƣơng pháp tổng hợp để tổng hợp các kết quả của thực
tiễn thi hành pháp luật; phƣơng pháp diễn giải - quy nạp để trình bày các nội dung
cụ thể; phƣơng pháp so sánh để so sánh quy định pháp luật về BVQLNTD của Việt
Nam với các quốc gia khác trên thế giới.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn đạt đƣợc là: giải quyết một cách thỏa
đáng những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật BVQLNTD ở nƣớc CHDCND
Lào. Luận văn cũng nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
BVQLNTD của Lào hiện hành. Trên cơ sở đó chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý
cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật BVQLNTD sao cho phù hợp với đòi hỏi khách
quan của nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ phù hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và
yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc CHDCND Lào trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Những
kết quả này mang ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với nƣớc CHDCND Lào. Là
sự đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật BVQLNTD,
góp phần quan trọng trong việc BVQLNTD, đảm bảo trật tự và công bằng xã hội.
Luận văn cũng có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật BVQLNTD.
8. Bố cục của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, để
đảm bảo tính hợp lý, logic của nội dung luận văn, luận văn đƣợc kết cấu thành 03
(ba) chƣơng:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm của Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng và một số giải pháp hoàn thiện, bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.


6

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Dƣới giác độ kinh tế học, khái niệm NTD đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội.
NTD là những con ngƣời, là tất cả chúng ta1. NTD là một bộ phân bao gồm những
ngƣời trong xã hội mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ của những ngƣời kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ. Đó có thể là tổ chức, cũng có thể là cá nhân, cũng có thể là hộ
gia đình mua hàng hoá để sử dụng, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc
cũng có thể sử dụng dịch vụ của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Có thể nói, bất cứ
cá nhân, tổ chức nào mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của chính bản thân mình, của ngƣời khác đều đƣợc coi là NTD.
NTD luôn là một bộ phận chiếm số lƣợng lớn trong xã hội.
Ngƣời tiêu dùng là đối tƣợng đƣợc pháp luật bảo vệ đặc biệt hơn trong quan
hệ với doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm về NTD ở các quốc
gia trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Qua nghiên cứu pháp luật bảo vệ
NTD của một số quốc gia trên thế giới, ta có thể nhận thấy quan niệm về NTD ở các
nƣớc là khác nhau, nhƣng có thể tựu chung lại ở 2 nhóm:
- Pháp luật Trung Quốc, Hoa Kỳ và Châu Âu, quy định NTD chỉ là thể nhân
(cá nhân). Pháp nhân do có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong
quan hệ với doanh nghiệp trên thị trƣờng nên pháp luật không cần phải can thiệp
sâu vào quan hệ tiêu dùng của họ.
- Pháp luật Hàn Quốc quy định NTD bao bồm cả thể nhân và pháp nhân.

Quy định này tuy hơi rộng và có quan điểm cho rằng nó sẽ làm giảm hiệu lực của
Luật bảo vệ NTD2. Tuy nhiên cách quy định này đã khắc phục đƣợc hạn chế của
cách quy định thứ nhất. Bởi lẽ, không phải lúc nào pháp nhân cũng là ngƣời đủ khả
năng để đối mặt đƣợc với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả
là nếu Luật bảo vệ NTD không bảo vệ họ nhƣ đối với các cá nhân tiêu dùng khác
thì quyền lợi của một nhóm đối tƣợng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, điều này
sẽ gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.
1

Nguyễn Thị Vân Anh và đ.t.g (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, NXB Công an
nhân dân, Hà nội, tr.14.
2
Bộ Công thƣơng (2009), Báo cáo tóm tắt nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xây dựng pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng và đề xuất cho Việt Nam, Hà Nội, tr.3.


7

Ngoài ra, còn có một cách tiếp cận nữa tƣơng đối mới mẻ là quy định những
ngƣời mới chỉ đƣợc chào hàng hoặc đƣợc đề nghị mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ
đã có thể đƣợc coi là NTD3. Cụ thể, Điều 3 Luật Bảo vệ NTD Thái Lan năm 1979
quy định: “Người tiêu dùng là người mua hàng hoá hoặc dịch vụ hoặc được chào
mua hàng hoá hoặc dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử
dụng hàng hoá, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù người
này không trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng hoá, tiêu thụ dịch vụ đó”4.
Mặc dù có sự khác nhau về quan niệm NTD, song hầu hết các quốc gia trên
thế giới quy định một ngƣời sử dụng hàng hóa, dịch vụ đƣợc coi là NTD khi họ sử
dụng hàng hóa, dịch vụ đó vào mục đích phi thƣơng mại. Điều đó có nghĩa là, đa số
các quốc gia giới hạn NTD là các cá nhân mua sắm hàng hóa, dịch vụ không nhằm
mục đích hoạt động kinh doanh, thƣơng mại hoặc hoạt động nghề nghiệp chuyên

nghiệp và cơ sở xác lập quan hệ tiêu dùng thông qua quan hệ mua bán hoặc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ.
Ở Việt Nam, từ sau năm 1986, khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị
trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, khái niệm
NTD xuất hiện với đúng nghĩa là thành tố thị trƣờng. Khái niệm NTD chính thức
đƣợc ghi nhận lần đầu trong Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999. Năm 2010, Luật
BVQLNTD đƣợc ban hành, tiếp tục kế thừa Điều 1 của Pháp lệnh ghi nhận tại
Khoản 1 Điều 3 “người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Ở nƣớc CHDCND Lào, Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ NTD số 02/NA năm
2010 định nghĩa về NTD là “Người tiêu dùng có nghĩa là cá nhân, pháp nhân hoặc
tổ chức mua hoặc sử dụng hàng hoá và dịch vụ hợp pháp mà không có mục đích lợi
nhuận”. Nhƣ vậy, cả Việt Nam và Lào đều quy định NTD bao gồm cả tổ chức và cá
nhân. Việc quy định nhƣ vậy là rất hợp lý, bởi lẽ, trong thực tiễn, không chỉ cá nhân
là đối tƣợng dễ bị xâm phạm quyền lợi mà rất nhiều tổ chức cũng không đủ khả
năng đối mặt với vi phạm từ nhà sản xuất kinh doanh. Đồng thời, các tổ chức này
cũng phải mua các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu để phục vụ cho các cán bộ, nhân
viên của họ và giá trị giao dịch của họ tƣơng đối lớn.

3

Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thƣơng (2010), “So sánh Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng một số nƣớc trên
thế giới – Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự thảo Luật bảo vệ ngƣời
tiêu dùng của Việt Nam”, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam do Cục
Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương thực hiện, tr.20-21.
4
Võ Thị Hạnh (2015), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trƣờng Đại học luật Hà Nội, tr.5-6.



8

Về mục đích mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của NTD thì nội hàm khái niệm
NTD tại Khoản 1 Điều 3 Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam đã chỉ rõ mục
đích của hoạt động mua là để phục vụ “tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình,
tổ chức”. Còn Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ NTD Lào số 02/NA năm 2010 của Lào
quy định mục đích của hoạt động mua là “không nhằm mục đích lợi nhuận”. So
sánh cho thấy, mục đích mua hàng hóa dịch vụ trong pháp luật Việt Nam hẹp hơn
so với pháp luật Lào. Nhƣng theo tác giả, việc giới hạn mục đích của pháp luật Việt
Nam là phù hợp, không quá rộng đến mức khó thực hiện đồng thời cũng không quá
hẹp đến mức làm hạn chế quyền của mỗi NTD.
Tuy nhiên, cả hai đạo Luật vẫn chỉ sử dụng một khái niệm rất chung chung là
“người” để giải thích cho khái niệm NTD. “Ngƣời” (mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ) là thể nhân (cá nhân), pháp nhân, tổ chức hay bao gồm cả thể nhân, pháp nhân
và tổ chức? Đây là câu hỏi đã đƣợc tranh luận rất rất nhiều, nhƣng cho đến nay, các
nhà làm luật vẫn tiếp tục sử dụng cách giải thích gây nhiều tranh cãi này.
Từ những phân tích trên, tác giả luận văn có thể đƣa ra khái niệm NTD nhƣ
sau: NTD chính là cá nhân/tổ chức/pháp nhân mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức và không vì mục đích
lợi nhuận; những cá nhân/tổ chức/pháp nhân đó có thể trực tiếp hoặc không trực
tiếp giao kết hợp đồng với tổ chức, cá nhân sản xuất/ kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các nhân tố tham gia
và các yếu tố tác động đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1.1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
BVQLNTD là làm sao để quyền lợi của NTD không bị xâm hại, làm sao để
NTD tránh đƣợc những rủi ro khi tham gia vào tiêu dùng. Điều này rất cần thiết bởi
vì NTD có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Nền kinh tế
phát triển thì sản xuất kinh doanh phải diễn ra suôn sẻ, mặt khác, sản xuất kinh
doanh lại gắn liền với tiêu dùng. Do đó, muốn nền kinh tế phát triển thì phải kích
thích đƣợc tiêu dùng và bảo đảm nhu cầu của NTD phải đƣợc đáp ứng. Vấn đề

BVQLNTD luôn là vấn đề trọng tâm đƣợc nhiều các ngành các cấp quan tâm.
Khi nền kinh tế còn ở trình độ sơ khai, quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các cá nhân với nhau trong xã hội và
hàng hóa, dịch vụ cũng ở dạng đơn giản, dễ nhận biết và việc đàm phán hợp đồng
diễn ra không quá phức tạp. Tuy nhiên, thế kỷ XX đánh dấu sự phát triển vƣợt bậc
của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin; hàm
lƣợng chất xám trong hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng; nhiều sản phẩm rất khó có


9

thể kiểm tra chất lƣợng bởi một ngƣời bình thƣờng. Các giao dịch dân sự giờ đây đã
chuyển từ thế bình đẳng sang tình trạng lợi thế nghiêng về phía nhà cung cấp (nhà
chuyên môn), bởi vì nhà cung cấp là bên nắm mọi ƣu thế về chất lƣợng của hàng
hóa, dịch vụ bao gồm tính năng, công dụng, thành phần cấu tạo, khuyết tật ẩn giấu,
những nguy hiểm tiềm tàng. Mặt khác, nhà cung cấp cũng là ngƣời nắm ƣu thế
trong kỹ năng đàm phán, giao kết hợp đồng...5 Vì vậy mà NTD khi tham gia quan
hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ với thƣơng nhân gặp nhiều điểm bất lợi trong đó có
thể khái quát thành 4 yếu thế cơ bản sau: yếu thế về thông tin; yếu thế về khả năng
đàm phán; yếu thế về khả năng chi phối giá cả và các điều kiện giao dịch; yếu thế
về khả năng chịu các rủi ro phát sinh từ quá trình tiêu dùng hàng hóa6.
Chính vì những yếu thế nhƣ vậy, NTD đã trở thành đối tƣợng đƣợc pháp luật
quan tâm bảo vệ và xuất hiện khái niệm BVQLNTD. Theo đó, BVQLNTD được
hiểu là việc đảm bảo quyền lợi cho những cá nhân/tổ chức/pháp nhân mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Để đảm bảo phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội, Điều 2 Luật Bảo vệ NTD số
02/NA năm 2010 của Lào đã định nghĩa: “Bảo vệ người tiêu dùng là việc áp dụng
các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, tài sản, quyền hợp pháp và lợi ích của người tiêu
dùng do ảnh hưởng của việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ như thực phẩm, thuốc
men, mỹ phẩm, chữa bệnh, kể cả giải quyết tranh chấp xảy ra giữa người tiêu dùng

và nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”.
1.1.2.2. Các nhân tố tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền:
Bảo vệ quyền lợi NTD là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý
nhà nƣớc và đƣợc hiện thực hóa bởi một hệ thống quy định pháp lý cụ thể. Thực
tiễn cho thấy, khi nền kinh tế thị trƣờng càng phát triển, mức độ tự do hóa thƣơng
mại càng gia tăng thì càng nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hƣởng đến quyền lợi
NTD. Việc chờ đợi ý thức trách nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu thiếu
vắng một hệ thống quy định pháp lý là điều không thể, bởi họ còn bị chi phối bởi
nhiều yếu tố liên quan đến lợi nhuận, cạnh tranh… Những quy định pháp lý sẽ là cơ
sở cho các nhà sản xuất kinh doanh ý thức đƣợc vấn đề quyền lợi NTD và trách
5

Nguyễn Hữu Huyên (2010), “Kinh nghiệm pháp luật của Pháp và EU về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng”,
Hội thảo khoa học Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện, tháng
9/2010, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, tr.98-99.
6
Nguyễn Thị Vân Anh (2010), “Tổng quan hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng”, Hội thảo khoa học Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – thực trạng và hướng
hoàn thiện, tháng 9/2010, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, tr.8.


10

nhiệm của mình trong việc BVQLNTD. Bên cạnh đó, NTD cũng có cơ sở để thực
hiện quyền lợi của mình. Trong trƣờng hợp các doanh nghiệp không tuân thủ đúng
quy định của pháp luật liên quan đến BVQLNTD thì hệ thống pháp lý sẽ tạo khung
quy định những biện pháp xử phạt và cƣỡng chế đối với những doanh nghiệp đó.
Vấn đề BVQLNTD không chỉ thể hiện trong các văn bản pháp luật mà còn
trong thiết chế thực thi pháp luật nhƣ các cơ quan Nhà nƣớc, cơ quan hành chính, hệ

thống tòa án các cấp, các tổ chức BVQLNTD. Nhà nƣớc ở bất cứ quốc gia nào cũng
luôn có vai trò to lớn trong bảo vệ NTD. Đó là cơ quan lập ra các chính sách, tổ
chức thực hiện các chính sách và kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách
bảo vệ NTD ở nƣớc mình. Các tổ chức phi chính phủ nhƣ Hiệp hội bảo vệ NTD và
các cơ quan quản lý của nhà nƣớc nhƣ Cục Quản lý cạnh tranh, Cục quản lý thị
trƣờng... phải tham gia đôn đốc, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở sản xuất
kinh doanh hàng hóa và dịch vụ để họ có ý thức hơn về việc đảm bảo quyền lợi
NTD. Nhờ đó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi gây tổn hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của NTD. Chính quyền và các đoàn thể có trách nhiệm tuyên
truyền giáo dục kiến thức về tiêu dùng, cung cấp thông tin về chất lƣợng hàng hóa,
giám sát thị trƣờng, kịp thời can thiệp những hành vi vi phạm quyền lợi NTD, cũng
nhƣ chấn chỉnh, kiểm tra về chuyên môn theo từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh để
bảo đảm độ an toàn cao cho NTD.
Thứ hai, Người sản xuất, kinh doanh: Ngƣời sản xuất, kinh doanh muốn phát
triển bền vững thay vì chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình thì phải hơn nữa đến
quyền và lợi ích chính đáng của NTD. Họ phải có trách nhiệm đối với NTD về sự
an toàn khi sử dụng sản phẩm, phải phục vụ tốt NTD, hƣớng dẫn NTD trong việc sử
dụng sản phẩm, phải lắng nghe tiếng nói của NTD để nâng cao chất lƣợng sản
phẩm. Bên cạnh đó, nhà sản xuất, kinh doanh nên có trách nhiệm cung cấp thông tin
kịp thời và chính xác về hàng hóa và dịch vụ, trách nhiệm bảo đảm tiêu chuẩn đo
lƣờng và chất lƣợng, trách nhiệm bảo hành, trách nhiệm bảo đảm an toàn cho NTD
và trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại cũng nhƣ đền bù thỏa đáng cho NTD.
Thứ ba, bản thân NTD: Chính NTD phải có trách nhiệm tự bảo vệ mình, phải
có hiểu biết để sử dụng đồng tiền của mình một cách hợp lý, đồng thời phải quan tâm
đến mọi ngƣời, môi trƣờng xung quanh, phải cảnh giác, phối hợp với các bên có liên
quan trong việc ngăn chặn và trừng trị những vấn đề tiêu cực trong xã hội.
Ngƣời tiêu dùng có khả năng tự bảo vệ chính mình thông qua việc ý thức
đƣợc quyền lợi chính đáng và trách nhiệm của mình. Khi quyết định tiêu dùng, để
đảm bảo quyền lợi của mình, việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về chất lƣợng, xuất xứ,



11

thông tin chính xác về sản phẩm là một công việc không thể thiếu. Từ đó NTD có
thể bảo vệ chính mình tránh khỏi các thông tin sai lệch, hiểu lầm và rủi ro, thiệt hại
khi tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.
Ngƣời tiêu dùng có quyền bày tỏ ý kiến đối với nhà sản xuất, kinh doanh, đối
với các cơ quan có thẩm quyền. NTD có quyền đƣợc khiếu nại và bồi thƣờng nếu
khiếu nại hợp lý. NTD có quyền chọn lựa không dùng hàng kém chất lƣợng, tẩy
chay hàng giả, hàng nhái, điều này cũng giúp các nhà sản xuất chân chính đƣợc bảo
vệ. Khi NTD góp ý, phản ánh về chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ; nhà sản xuất thấy
đƣợc khuyết điểm và khắc phục, sửa chữa, sẽ giúp cho hàng hóa, dịch vụ tốt hơn,
chính điều này lại tạo lợi thế cho NTD khi đƣợc sử dụng sản phẩm tốt, còn nhà sản
xuất, kinh doanh có lợi là đƣợc tín nhiệm bán đƣợc nhiều hàng hóa, dịch vụ thu lợi
nhuận nhiều hơn…
Ngƣời tiêu dùng nên phải tự bảo vệ mình, có ý thức chọn lựa hàng tốt, tẩy
chay không mua hàng giả, hàng nhái, và có ý thức trách nhiệm góp phần bảo vệ
quyền lợi chung của cả cộng đồng bằng hành động thiết thực nhƣ đóng góp ý kiến về
chất lƣợng hàng hóa, lên tiếng báo động xã hội đối với những vấn đề làm thiệt hại lợi
ích chung.
Sức mạnh to lớn của NTD là thái độ với các nhà sản xuất, kinh doanh và
quyền tẩy chay sản phẩm. Quyền này chỉ đƣợc phát huy khi NTD ý thức đƣợc sức
mạnh của mình và đoàn kết lại. Khi hội NTD đã phát triển thành một lực lƣợng
đông đảo, sẵn sàng tham gia tổ chức bảo vệ quyền lợi của chính mình thì vấn đề
xâm hại quyền lợi NTD sẽ có xu hƣớng giảm.
Ngƣời tiêu dùng là một lực lƣợng đông đảo của xã hội và dƣ luận xã hội
cũng là một trong “vũ khí” hiệu quả mà họ tạo ra trong việc bảo vệ quyền lợi của
chính mình. Do đó, dƣ luận xã hội có ý nghĩa lớn trong việc khuyến khích các hành
động góp phần bảo vệ NTD, đồng thời lên án, phê phán những hành động xâm
phạm quyền lợi của NTD.

Vấn đề BVQLNTD hiện nay đƣợc toàn thể xã hội quan tâm và đƣợc coi là
một trong những vấn đề quan trọng nhằm bảo đảm tốc độ tăng trƣởng luôn đi đôi
với chất lƣợng tăng trƣởng. BVQLNTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Mọi
quyền và lợi ích hợp pháp của NTD phải đƣợc tôn trọng và bảo vệ. Mọi hành vi vi
phạm quyền và lợi ích chính đáng của NTD phải đƣợc xử lý kịp thời và nghiêm
minh, nếu gây thiệt hại phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật.
Nhƣ vậy, BVQLNTD là một vấn đề rất đang đƣợc chú ý và là trách nhiệm
của mọi ngƣời, của toàn xã hội. Hiệu quả của hoạt động bảo vệ này có đƣợc khi có


12

sự tham gia và phối hợp hành động của mọi ngƣời, từ ngƣời làm công tác quản lý
nhà nƣớc đến các doanh nhân, doanh nghiệp, từ các tổ chức BVQLNTD đến chính
bản thân NTD. Việc xây dựng luật bảo vệ NTD hay thành lập các tổ chức, uỷ ban
đại diện bảo vệ NTD đều cần thiết trong việc dẫn dắt NTD tiếp cận thông tin, tiếp
cận pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình; hƣớng dẫn NTD tạo thói quen thiết lập
chứng cứ; quy rõ trách nhiệm cho đơn vị quản lý nhà nƣớc và liên kết các lực lƣợng
xã hội để cùng giải quyết các vấn đề bảo vệ NTD. Để quyền và lợi ích chính đáng
của NTD đƣợc bảo vệ thì cần có một chiếc “kiềng ba chân” trong đó, Nhà nƣớc
cùng các cơ quan chức năng, ngƣời sản xuất kinh doanh và NTD đóng vai trò là ba
chiếc chân vững chắc.
1.1.2.3. Những yếu tố tác động đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ nhất, hệ thống pháp lý và sự quản lý của các cơ quan chức năng có
liên quan.
Một khi hệ thống pháp lý chƣa đầy đủ sẽ tạo những kẽ hở cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh không chân chính thực hiện những hoạt động gây ảnh hƣởng lớn
đến quyền lợi NTD. Sự quản lý, kiểm tra, giám sát đôn đốc thực hiện của Nhà nƣớc
và các cơ quan chức năng là rất cần thiết trong vấn đề tham gia bảo vệ NTD. Thiếu
sự tham gia này, quyền lợi NTD sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi vì sẽ không có đủ chế tài

cũng nhƣ quy định để xử phạt các hoạt động gây tổn hại tới quyền lợi NTD. Theo
đó ngƣời sản xuất kinh doanh sẽ không ngần ngại lách luật và có những hành động
vi phạm tới quyền lợi NTD nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Thứ hai, yếu tố lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản
xuất với nhau là quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất kinh doanh. Là lực lƣợng hết
sức đông đảo, nhƣng vì chƣa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm của mình,
không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thƣờng hành động riêng lẻ nên trong mối
quan hệ đó, NTD thƣờng đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Để tăng lợi nhuận,
một số doanh nghiệp thƣờng lợi dụng những khiếm khuyết của pháp luật, sơ hở
trong công tác quản lý và lòng tin của NTD để thực hiện những hành vi thủ đoạn
gian dối làm tổn hại đến lợi ích của NTD dƣới những hình thức rất đa dạng, nhƣ
cung cấp hàng hóa, dịch vụ kém phẩm chất, ép giá, gian lận về đo lƣờng hoặc đƣa
ra những thông tin thiếu trung thực dễ gây nhầm lẫn… Khi đó, NTD thƣờng mắc
phải những sai lầm trong việc lựa chọn tiêu dùng và có nguy cơ sử dụng hàng hóa,
dịch vụ thiếu độ an toàn, đặc biệt là đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và
hàng hóa, dịch vụ có ảnh hƣởng trực tiếp tới sức khỏe của con ngƣời.


13

Thứ ba, kiến thức, sự am hiểu về hàng hóa, dịch vụ cũng như cách thức tiêu
dùng của bản thân NTD.
NTD thƣờng không có đủ kiến thức cũng nhƣ về điều kiện kỹ thuật để tự
mình biết đƣợc hàng hóa, dịch vụ có thực sự tốt nhƣ những thông tin đƣợc công bố
hay không. Nói cách khác, NTD luôn ở vào vị trí bất lợi về thông tin so với doanh
nghiệp. Chính vì những lý do trên, những nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa dịch vụ
có rất nhiều động cơ gây tổn hại đến quyền lợi của NTD. Nếu sự quản lý của nhà
nƣớc không đủ mạnh và không hiệu quả trong việc trấn áp những hoạt động đó thì
quyền lợi của NTD sẽ khó đƣợc đảm bảo.

1.2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong thực tế, quan hệ giữa NTD và nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ là các
quan hệ tƣ. Tuy nhiên, do có đặc điểm về sự khác biệt giữa vị thế của ngƣời cung
cấp và NTD trong quan hệ này, cụ thể là NTD luôn ở thế yếu hơn, thiếu thông tin về
hàng hoá, dịch vụ, nên cần thiết phải có sự can thiệp nhất định của Nhà nƣớc vào
quan hệ này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên yếu thế. Một trong
những công cụ tốt nhất để bảo vệ quyền lợi NTD chính là việc xây dựng các quy
định pháp luật về bảo vệ NTD.
Pháp luật BVQLNTD là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa NTD
và các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Lĩnh vực pháp luật này quy
định quyền của NTD, trách nhiệm sản phẩm của thƣơng nhân ngăn chặn các giao
dịch không công bằng, bảo vệ thông tin của cá nhân.
Để có khái niệm pháp luật BVQLNTD, trƣớc hết cần tìm hiểu hai thuật ngữ
đó là “pháp luật” và “Bảo vệ người tiêu dùng”. “Pháp luật” có thể hiểu là hệ thống
các quy tắc xử sự do Nhà nƣớc ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện,
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội. Trong khi đó, “Bảo vệ người tiêu
dùng”, theo Điều 2 Luật Bảo vệ NTD số 02/NA năm 2010 của Lào là “việc áp dụng
các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, tài sản, quyền hợp pháp và lợi ích của người tiêu
dùng do ảnh hưởng của việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ như thực phẩm, thuốc
men, mỹ phẩm, chữa bệnh, kể cả giải quyết tranh chấp xảy ra giữa NTD và nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo quy định và pháp luật”. Nhƣ vậy, “Bảo vệ người
tiêu dùng” có thể hiểu là tổng hợp các biện pháp đƣợc Nhà nƣớc quy định và đảm
bảo thực hiện để bảo đảm quyền lợi của NTD khi sử dụng dịch vụ hàng hoá; ngăn
chặn những nhà sản xuất có hành vi gian lận, lừa dối để thu lợi bất chính, bao gồm


14


các biện pháp pháp luật, kinh tế, văn hoá, xã hội. Nói cách khác, BVQLNTD là ghi
nhận và làm cho các lợi ích chính đáng của NTD đƣợc thực hiện trên thực tế. Tuy
nhiên, trong số các công cụ chủ yếu Nhà nƣớc sử dụng để BVQLNTD thì pháp luật
là công cụ hữu hiệu hơn cả vì nó là phƣơng thức hiện thực hoá các công cụ bảo vệ
NTD khác trong điều kiện Nhà nƣớc pháp quyền và xã hội công dân. Hiện nay,
nhiều quốc gia trên thế giới đều coi luật pháp là một trong những phƣơng tiện chủ
yếu bảo vệ NTD, là một hệ thống các quy tắc xử sự liên quan đến nhiều mặt nhƣ
quan hệ xã hội dân sự, kinh tế, hành chính, hình sự, trình tự tố tụng có liên quan đến
đời sống tiêu dùng của cá nhân. Vì thế, yêu cầu bảo vệ quyền lợi NTD là trách
nhiệm chung của toàn xã hội với sự phối hợp của nhiều biện pháp, mà chủ yếu
trong đó là biện pháp pháp luật.
Trên thế giới, quan niệm về pháp luật bảo vệ NTD cũng khác nhau. Theo Từ
điển Black’s Law thì,“Luật bảo vệ NTD là luật của bang hoặc liên bang được ban
hành nhằm bảo vệ NTD trước những hành vi thương mại hoặc những hoạt động tín
dụng không lành mạnh có liên quan đến hàng tiêu dùng, đồng thời bảo vệ NTD trước
những hàng hoá nguy hại hoặc hàng giả”, “Luật Người tiêu dùng là lĩnh vực pháp luật
điều chỉnh những giao dịch liên quan đến NTD, đó là việc sử dụng tín dụng, tiêu dùng
hàng hóa, bất động sản hoặc những dịch vụ phục vụ cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia
đình”7. Theo quy định của Inđônesia thì “Luật bảo vệ NTD là toàn bộ những nổ lực
đảm bảo sự chắc chắn về mặt pháp lý để bảo vệ cho NTD”8. Phạm vi điều chỉnh của
Luật Bảo vệ NTD của Inđônesia là khá rộng, bao gồm: toàn bộ các loại hàng hóa, hữu
hình hoặc vô hình, di động hoặc bất động, có thể tiêu thụ hoặc không thể tiêu thụ, có
tính thƣơng mại đƣợc NTD tiêu dùng, sử dụng hoặc khai thác và tất cả các loại hình
dịch vụ cũng nhƣ các hình thức quảng bá hàng hóa và dịch vụ.9
Có thể nói, pháp luật BVQLNTD là biện pháp bảo vệ NTD bằng pháp lý
thông qua việc Nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận hệ thống các quy phạm pháp luật
nhằm thực hiện các mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD từ giai
đoạn tìm kiếm, mua hàng hoá, dịch vụ trên thị trƣờng đến giai đoạn tiêu dùng sản
phẩm cũng nhƣ hậu quả phát sinh (nếu có).
Nhƣ vậy có thể đƣa ra khái niệm pháp luật BVQLNTD nhƣ sau: “Pháp luật

bảo vệ NTD là hệ thống các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước
7

Bryan A.Garner (Editor in chief, 1999), Black’s Law Dictionary, Deluxe Seventh edition, by West group,
tr.312.
8
Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng Inđônesia ban hành ngày 20/4/1999.
9
Nguyễn Thị Thƣ (2013), Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, Luận
án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, tr.44.


15

ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng”10.
Theo quan niệm này, pháp luật BVQLNTD gồm quy phạm thuộc nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, miễn có chung mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của NTD. Tuy nhiên, khi xác định các ngành, lĩnh vực pháp luật
đƣợc coi là thuộc phạm trù “pháp luật bảo vệ người tiêu dùng”, có nhiều ý kiến
khác nhau. Có quan niệm cho rằng, các quy phạm thuộc lĩnh vực pháp luật cạnh
tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh cũng đƣợc xếp vào pháp luật BVQLNTD.
Sở dĩ nhƣ vậy vì các lý thuyết kinh tế học đã chứng minh rằng, môi trƣờng cạnh
tranh tự do, lành mạnh và công bằng là điều kiện tốt nhất để quyền lợi giữa nhà sản
xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ và NTD đƣợc đảm bảo sự hài hoà11. Đó cũng là
môi trƣờng mà quyền lợi của NTD đƣợc đảm bảo một cách tốt nhất. Pháp luật cạnh
tranh (chống các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, chống các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, chống các thoả thuận tập trung kinh tế bất hợp pháp) và pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh (chống các loại hành vi nhƣ dèm pha, nói xấu đối thủ
cạnh tranh, chiếm đoạt bí mật thƣơng mại v.v.) có chung mục tiêu đảm bảo môi

trƣờng cạnh tranh tự do, lành mạnh và công bằng, cũng có tác dụng quan trọng
trong việc BVQLNTD. Ngày nay, khi nói tới vai trò, chức năng của pháp luật về
cạnh tranh, ngƣời ta thƣờng nhấn mạnh tới vai trò, tác dụng BVQLNTD của pháp
luật cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, nếu xét
từ góc độ lịch sử, các đạo luật về BVQLNTD thƣờng đƣợc ban hành sau các quy
phạm pháp luật về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh. Thêm vào đó,
bảo vệ quyền lợi của NTD chỉ là một trong những hệ quả của điều chỉnh pháp luật
về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật về cạnh tranh và
chống cạnh tranh không lành mạnh trƣớc hết có mục tiêu đảm bảo môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trƣờng, đảm bảo sự bình đẳng về cơ
hội cạnh tranh trên thị trƣờng. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng, pháp luật cạnh
tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh nên coi là một lĩnh vực độc lập tƣơng
đối so với lĩnh vực pháp luật BVQLNTD.
Nhìn lại lịch sử quá trình phát triển của pháp luật BVQLNTD ở các nƣớc
phát triển, có thể thấy rằng, các đạo luật về BVQLNTD đƣợc ban hành đầu tiên chủ
yếu vào thập niên 1950-1970. Đây là thời kỳ mà phong trào bảo vệ NTD trở thành
10

Nguyễn Thị Thƣ (2013), Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, tr.44.
11
Paul A Samuelson, William D. Nordhaus (2002), Kinh tế học, (bản dịch của Vũ Cƣơng, Đinh Xuân Hà,
Nguyễn Xuân Nguyên, Trần Đình Toàn) tập 1, NXB Thống kê, tr. 297.


16

một trong những chủ điểm kinh tế, chính trị quan trọng12. Ví dụ, tại Hoa Kỳ và Anh,
trong thập niên 1960-1970 hàng loạt đạo luật về BVQLNTD đƣợc ban hành13,14,
cũng trong giai đoạn đó, Nhật Bản ban hành Luật cơ bản về BVQLNTD (năm 1968)

còn Úc ban hành Luật về các hành vi thƣơng mại năm 1974 (the Trade Practices
Act of 1974) với nhiều quy định về BVQLNTD. Các chƣơng trình về BVQLNTD
của Liên minh Châu Âu cũng đƣợc khởi động từ thập niên 19704. Từ đó đến nay,
Liên minh Châu Âu cũng ban hành nhiều văn bản quan trọng về BVQLNTD15.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật BVQLNTD có một số nét đặc trƣng nhƣ:
Thứ nhất, pháp luật BVQLNTD đã áp đặt những điều kiện bắt buộc thƣơng
nhân phải tuân thủ để khắc phục những bất lợi của NTD trong quan hệ với nhà cung
cấp hàng hoá, dịch vụ.
Cụ thể, pháp luật bảo vệ NTD tập trung quy định những vấn đề kiểm soát
điều kiện giao dịch chung; cấm các điều khoản không công bằng. Việc can thiệp
này làm cho nguyên tắc tự do khế ƣớc chỉ còn ý nghĩa tƣơng đối trong các giao dịch
giữa NTD và thƣơng nhân. Đặc biệt, pháp luật một số nƣớc, ví dụ Luật BVQLNTD
năm 2010 của Việt Nam đã quy định cụ thể trách nhiệm của các thƣơng nhân trong
việc kiểm soát điều kiện giao dịch chung, hợp đồng theo mẫu đối với việc kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ thiết yếu do Thủ tƣớng
12

David A. Rice (1975), Consumer Protection, Little, Brown and Company, Boston, p. 2.
Tại Hoa Kỳ, Bao gồm: Luật Liên bang về các chất nguy hại năm 1960 (the Federal Hazardous Substances
Act of 1960), Luật về đóng gói và ghi nhãn công bằng năm 1966 (The Fair Packaging and Labeling Act of
1966), Luật về tính trung thực trong hoạt động cho vay năm 1968 (The Truth in Lending Act of 1968), Luật
về tiết lộ thông tin đầy đủ trong các giao dịch bất động sản liên bang năm 1968 (The Interstate Land Sales
Full Disclosure Act of 1968), Luật đảm bảo an toàn đồ chơi cho trẻ em năm 1969 (The Child Protection and
Toy Safety Act of 1969), Luật về báo cáo tín dụng công bằng năm 1970 (The Fair Credit Reporting Act of
1970), Luật về san toàn sản phẩm tiêu dùng năm 1972 (The Consumer Product Safety Act of 1972), Luật về
cơ hội tín dụng bình đẳng năm 1974 (The Equal Credit Opportunity Act of 1974), Luật bảo hành Magnuson
Moss năm 1975 (Magnuson Moss Warranty Act of 1975), Luật về hành vi đòi nợ công bằng năm 1977 (The
Fair Debt Collection Practices Act of 1977) v.v.
14

Tại Anh, bao gồm: Luật thuê mua năm 1964 (Hire-purchase Act of 1964), Luật về thông tin sai lạc trong
thƣơng mại năm 1967 (Misrepresentation Act of 1967), Luật về các mô tả thƣơng mại năm 1968 (Trade
Descriptions Acts of 1968), Luật về cung ứng hàng hoá, dịch vụ ngoài ý muốn của NTD năm 1971
(Unsolicited Goods and Services Act of 1971), Luật thƣơng mại công bằng năm 1973 (Fair Trading Act of
1973), Luật về các điều khoản mặc nhiên trong hợp đồng cung ứng hàng hoá năm 1973 (Supply of Goods
(Implied Terms) Act of 1973), Luật về tín dụng tiêu dùng năm 1974 (Consumer Credit Act of 1974), Luật về
các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977 (Unfair Contract Terms Act of 1977), Luật về an toàn
tiêu dùng năm 1978 (Consumer Safety Act of 1978).
15
Chỉ thị 85/374/EEC về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với các sản phẩm khuyết tật; Chỉ thị số
85/577/EEC về bảo vệ NTD trong các giao dịch bán hàng ở ngoài địa điểm kinh doanh thƣờng xuyên (chẳng
hạn bán hàng tại nhà của NTD); Chỉ thị số 90/314/EEC về dịch vụ du lịch trọn gói; Chỉ thị số 93/13/EEC về
các điều khoản không công bằng trong các hợp đồng tiêu dùng; Chỉ thị số 94/47/EC về bảo vệ bên mua
quyền sử dụng bất động sản theo thời vụ; Chỉ thị số 97/7/EC về bảo vệ NTD trong các hợp đồng bán hàng từ
xa; Chỉ thị số 1999/44/EC về việc bán hàng hoá tiêu dùng; Chỉ thị số 2002/65/EC về tiếp thị dịch vụ tài chính
từ xa; Chỉ thị số 2005/29/EC về hành vi thƣơng mại giữa doanh nghiệp và NTD không công bằng.
13


17

Chính phủ ban hành. Còn Luật bảo vệ NTD Lào năm 2010 thì yêu cầu thƣơng nhân
phải đảm bảo việc sản xuất, nhập khẩu, phân phối hàng hoá và dịch vụ sẽ không ảnh
hƣởng vƣợt ra ngoài tiêu chuẩn môi trƣờng đã đƣợc xác định, thực hiện nghiêm
ngặt các giao kết với NTD và nhãn hiệu hàng hóa theo đúng quy định.
Thứ hai, pháp luật BVQLNTD xác định trách nhiệm của thƣơng nhân một
cách nghiêm khắc và mở rộng về chủ thể chịu trách nhiệm.
Theo đó, những ngƣời chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm
chính là những ngƣời gây ra khuyết tật, nhƣng cũng có thể không phải là ngƣời gây
ra khuyết tật đó nhƣng có tham gia vào chuỗi hoạt động đƣa sản phẩm đến tay

NTD. Việc quy định trách nhiệm đối với sản phẩm khuyết tật là một việc làm rất
cần thiết nhằm bảo vệ tốt đa quyền lợi NTD khi mua sản phẩm của các cá nhân, tổ
chức kinh doanh. Hầu hết các nƣớc trên thế giới đều có Luật trách nhiệm sản phẩm
nằm trong hoặc độc lập với Luật bảo vệ NTD. Chẳng hạn, ở Thái Lan, Luật trách
nhiệm sản phẩm đƣợc ban hành năm 2008 trong khi đó Luật bảo vệ NTD của họ có
từ năm 197916.
Trách nhiệm sản phẩm tại Lào đƣợc quy định trong Điều 35 Luật Bảo vệ NTD
Lào số 02/NA năm 2010, còn ở Việt Nam, quy định về trách nhiệm sản phẩm đƣợc
quy định tại Điều 22, 23, 24 Luật BVQLNTD Việt Nam năm 2010. Theo đó, khi phát
hiện hàng hoá có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá có trách
nhiệm thu hồi hàng đó. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá có trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại (BTTH) trong trƣờng hợp hàng hoá có khuyết tật do mình
cung cấp gây thiệt hại trong trƣờng hợp hàng hoá có khuyết tật do mình cung cấp gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của NTD, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó
không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trƣờng hợp chứng
minh đƣợc khuyết tật của hàng hoà không thể phát hiện đƣợc với trình độ khoa học, kỹ
thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá cung cấp cho NTD.
Thứ ba, pháp luật BVQLNTD thiết lập những ngoại lệ so với những nguyên
tắc tố tụng dân sự truyền thống. Đây là những ngoại lệ về điều kiện, hình thức khởi
kiện hoặc giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh. Pháp luật tố tụng dân sự đã quy định
đƣơng sự có nghĩa vụ phải chứng minh khi khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Khác với nguyên tắc tố tụng dân sự truyền thống, việc
quy định những ngoại lệ nhƣ khởi kiện tập thể ở Hoa kỳ hoặc đảo nghĩa vụ chứng

16

Nguyễn Thị Vân Anh và đ.t.g (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.24.



18

minh ở Đức… sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho NTD tham gia giải quyết tranh
chấp liên quan đến quyền lợi của mình bị vi phạm.
Thứ tư, pháp luật bảo vệ NTD là một lĩnh vực pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Có những quy định BVQLNTD đƣợc thể hiện
trong Bộ luật dân sự (BLDS) nhƣ trách nhiệm BTTH cho NTD, biện pháp buộc chấm
dứt hành vi xâm phạm quyền lợi NTD, có những quy định bảo vệ NTD đƣợc thể hiện
trong Bộ luật hình sự (BLHS) nhƣ các quy định về tội buôn bán hàng giả, tội lừa dối
khách hàng. Luật BVQLNTD là luật quan trọng nhất quy định cụ thể về BVQLNTD
nhƣng không phải là luật duy nhất quy định về vấn đề này mà quy định BVQLNTD
còn đƣợc thể hiện trong một số luật chuyên ngành nhƣ Luật an toàn thực phẩm, Luật
chất lƣợng sản phẩm, hàng hoá, Luật viễn thông…
1.2.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Hiện nay, quá trình phát triển kinh tế tri thức, sự tác động ngày càng sâu của
cuộc cách mạng công nghệ (cách mạng công nghệ thông tin, truyền thông, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học v.v.), toàn cầu hoá và sự phát triển thƣơng
mại điện tử đang càng làm cho quá trình chuyên môn hoá có những bƣớc nhảy vọt
hơn nữa về chất, khoảng cách giữa nhà sản xuất và NTD ngày lại càng xa nhau, sự
chênh lệch giữa hiểu biết của nhà sản xuất về sản phẩm với tri thức mà NTD biết về
sản phẩm ngày càng lớn, quy mô kinh tế giữa thƣơng nhân với NTD càng có sự
chênh lệch. Điều đó càng làm cho nhà sản xuất với NTD có độ chênh lệch lớn về vị
thế thực tế. Trong bối cảnh ấy, nếu NTD không có các công cụ hỗ trợ, việc NTD bị
nhà sản xuất, phân phối lạm dụng là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nếu chỉ trông
chờ vào khả năng tự bảo vệ của mình, NTD sẽ khó có thể phòng ngừa và khắc phục
đƣợc những rủi ro trong quá trình tham gia giao dịch với nhà sản xuất, phân phối
hàng hoá, dịch vụ cũng nhƣ trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó 17. Đó
chính là lý do vì sao, sự hiện diện của nhà nƣớc, sự can thiệp của nhà nƣớc bằng
pháp luật là cần thiết để quan hệ giữa nhà sản xuất, phân phối với NTD trở nên lành
mạnh, công bằng hơn. Khi xã hội càng phát triển, lĩnh vực pháp luật BVQLNTD sẽ

càng cần thiết và càng cần đƣợc quan tâm

17

Đặng Đình Ngọc (2013), Chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi vi phạm pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội, tr.12.


19

1.2.4. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tuỳ thuộc quan niệm của từng nƣớc, pháp luật BVQLNTD có thể có những
nội dung khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, pháp luật BVQLNTD ở các nƣớc đều
có những nội dung sau:
Thứ nhất, quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD. Đây là nội dung quan
trọng nhất của pháp luật BVQLNTD. Quy định này có ý nghĩa trong việc giúp NTD
nhận thức rõ hơn quyền và nghĩa vụ của mình, qua đó có thể tự bảo vệ đƣợc mình
trong quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh; đồng thời cũng nâng cao công tác
bảo vệ NTD của các nƣớc. “Bản hướng dẫn về bảo vệ NTD” kèm theo Nghị quyết
Đại hội hồng Liên hợp quốc số A/RES/39/248 ngày 16/4/1985 đã quy định NTD có
các quyền sau: quyền đƣợc an toàn; quyền đƣợc thoả mãn những nhu cầu cơ bản;
quyền đƣợc lắng nghe ý kiến; quyền đƣợc thoả mãn những nhu cầu cơ bản; quyền
đƣợc đền bù; quyền đƣợc giáo dục và quyền đƣợc sống ở môi trƣờng trong lành18.
Tại Việt Nam, Luật BVQLNTD năm 2010 cũng đã cụ thể hoá các quyền và nghĩa
vụ của NTD tại Điều 8 và Điều 9. Tại nƣớc CHDCND Lào, Luật Bảo vệ NTD số
02/NA năm 2010 đã cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của NTD tại các Điều 33 và
33. Ngoài ra, Điều 57 Luật bảo vệ NTD Lào số 02/NA năm 2010 quy định về các
hành vi cấm đối với NTD.
Thứ hai, quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của ngƣời cung cấp hàng hoá,

dịch vụ cho NTD cũng là một nội dung đặc thù của pháp luật BVQLNTD. Ngoài
những nghĩa vụ theo thoả thuận và đƣợc điều chỉnh bởi những ngành luật tƣ, tổ
chức, cá nhân kinh doanh đều có trách nhiệm đối với sản phẩm, dịch của mình. Đây
là một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt khi hàng hoá, dịch vụ của nhà cung cấp có
những khuyết tật, kể cả trong trƣờng hợp những chủ thể này không có lỗi đối với
những khuyết tật đó.
Pháp luật cũng quy định thƣơng nhân có nghĩa vụ chứng minh việc mình
không có lỗi khi sản phẩm đƣợc cung cấp ra có khuyết tật. Ở đây, các nhà làm luật
đã buộc các thƣơng nhân phải có nghĩa vụ chứng minh nhƣ ngƣời khởi kiện. Các
thƣơng nhân phải chứng minh là mình đƣợc miễn trách nhiệm sản phẩm. Trƣờng
hợp không thể chứng minh mình đƣợc miễn, họ phải chịu trách nhiệm đối với
những các buộc của nguyên đơn về khuyết tật của hàng hoá, dịch vụ mà mình đã
sản xuất, thiết kế hoặc cung cấp.

18

Nguyễn Thị Vân Anh và đ.t.g (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.30.


20

Thứ ba, về trách nhiệm bảo vệ NTD từ phía Nhà nƣớc và các cơ quan có
thẩm quyền. Nhƣ trên đã phân tích, BVQLNTD là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của quản lý nhà nƣớc và đƣợc thực hiện qua thiết chế thực thi pháp luật nhƣ
các cơ quan Nhà nƣớc, cơ quan hành chính, hệ thống tòa án các cấp, các tổ chức
BVQLNTD. Do đó, pháp luật phải thiết lập khung pháp lý cụ thể quy định về trách
nhiệm bảo vệ NTD từ phía Nhà nƣớc và các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, Những biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật BVQLNTD. Việc thực
thi pháp luật BVQLNTD trên thực tế muốn đạt đƣợc hiệu quả, phải có những biện

pháp đảm bảo nhất định. Những biện pháp này đƣợc thể hiện qua các quy định về
trách nhiệm của các thƣơng nhân đối với sản phẩm, việc chống cạnh tranh không
lành mạnh nhằm bảo vệ NTD, quy định phƣơng thức giải quyết tranh chấp giữa
NTD và thƣơng nhân, cũng nhƣ việc quy định các chế tài đối với hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ NTD
Trong đó, về phương thức giải quyết tranh chấp giữa NTD và thương nhân:
Đối tƣợng của tranh chấp là các quan hệ tƣ nên các tranh chấp với NTD sẽ đƣợc
giải quyết theo trình tự luật tƣ. Các tranh chấp này thƣờng sẽ đƣợc giải quyết theo
cách thức: thƣơng lƣợng, hoà giải, trọng tài và toà án. Điều 37 Luật bảo vệ NTD
Lào số 02/NA năm 2010 quy định về các phƣơng thức giải quyết tranh chấp và bảo
vệ NTD bao gồm: thƣơng lƣợng, hòa giải, thủ tục hành chính của tổ chức thực hiện
BVQLNTD, trọng tài, và, tòa án. Các bằng chứng mà NTD phải cung cấp khi là:
bằng chứng chứng minh việc mua bán với nhà cung cấp; bằng chứng chứng minh vi
phạm của Nhà cung cấp.
Về các chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD. Luật bảo
vệ NTD các nƣớc đều hƣớng tới loại bỏ những hành vi thƣơng mại không lành
mạnh ngay khi chúng không hƣớng đến NTD cụ thể nào. Theo thông lệ, luật bảo vệ
NTD quy định những hành vi bị cấm trong hoạt động thƣơng mại nhƣ: quảng cáo
gian dối, che giấu khuyết tật sản phẩm, cung cấp hàng hoá có khả năng gây nguy
hại đến sức khoẻ cộng đồng, quấy rối, ép buộc NTD. Các chế tài sẽ thƣờng xuyên
đƣợc áp dụng để xử lý những chủ thể có hành vi xâm phạm quyền lợi NTD. Các tổ
chức, cá nhân kinh doanh thực hiện hành vi vi phạm pháp luật BVQLNTD, gây ảnh
hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của NTD sẽ phải chịu các chế tài xử lý đối với
các tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi vi phạm sẽ có tác dụng răn đe, trừng
phạt nghiêm khắc những chủ thể này, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích chính
đáng của NTD. Bên cạnh đó, việc quy định các chế tài xử lý đối với hành vi vi


×