Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.81 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----------------------------

ĐỖ THỊ THANH LAM

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------------------------------

ĐỖ THỊ THANH LAM

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Như Phát



HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thanh Lam


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DNXH

Doanh nghiệp xã hội

CSIP

Trung tâm hỗ trợ Sáng kiến Cộng đồng

OECD

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế


EMES

Mạng lưới nghiên cứu Châu Âu về các vấn đề của khu vực
thứ ba

NGO

Tổ chức phi chính phủ

CSR

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ
HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI ............................8
1.1. Một số vấn đề chung về Doanh nghiệp xã hội. ...................................... 8
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Doanh nghiệp xã hội ................... 8
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội ........................ 10
1.1.3. Phân biệt Doanh nghiệp xã hội với một số loại hình tổ chức khác
................................................................................................................. 15
1.1.4. Vai trò của Doanh nghiệp xã hội .................................................. 20
1.2. Khái quát về Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội. ................................. 21
1.2.1. Khái niệm, nội dung của Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội. ...... 21
1.2.2. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với doanh nghiệp
xã hội. ...................................................................................................... 24
Kết luận Chương 1...........................................................................................25

Chương 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................27
2.1. Khái quát thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội trước khi Luật
Doanh nghiệp 2014 được ban hành. ........................................................... 27
2.2. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp
2014. ............................................................................................................ 29
2.2.1. Các quy định về đặc trưng pháp lý của Doanh nghiệp xã hội. .... 31
2.2.2. Các quy định về hình thức pháp lý và quản trị Doanh nghiệp xã
hội ............................................................................................................ 36
2.2.3. Các quy định về thành lập, tổ chức lại và chấm dứt hoạt động của
Doanh nghiệp xã hội ............................................................................... 37
2.2.4. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội ..... 44
2.2.5. Các quy định về quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp xã
hội. ........................................................................................................... 50
Kết luận Chương 2...........................................................................................58


Chương 3.THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH
NGHIỆP XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT. ........................................59
3.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội và phát triển doanh nghiệp xã hội tại
Hà Nội. ........................................................................................................ 59
3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội ........................... 59
3.1.2. Tình hình phát triển Doanh nghiệp xã hội tại thành phố Hà Nội. . 61
3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về doanh nghiệp xã hội
tại Hà Nội theo Luật Doanh nghiệp 2014. ................................................... 68
3.2.1. Các quy định về thành lập, tổ chức lại Doanh nghiệp xã hội. ....... 68
3.2.2. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội....... 70
3.2.3. Các quy định về giám sát hoạt động Doanh nghiệp xã hội. ........... 74
3.2.4. Nguyên nhân của những khó khăn còn tồn tại ............................... 76

3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp
xã hội qua thực tiễn thành phố Hà Nội. ....................................................... 80
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về doanh nghiệp
xã hội ....................................................................................................... 80
3.3.2. Một số giải pháp khác. .................................................................. 85
Kết luận Chương 3...........................................................................................87
KẾT LUẬN.....................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh các quốc gia quá tập trung phát triển kinh tế với một
loạt mức tăng trưởng “nóng”, các vấn đề xã hội môi trường lại bị lãng
quên. Do đó, dù kinh tế có phát triển nhưng môi trường sống của con người
lại bị suy thoái nặng nề, nhiều vấn đề xã hội tiêu cực bùng nổ đe dọa chất
lượng cuộc sống của người dân. Vì vậy, hiện nay, phát triển bền vững là
mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia. Bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế phát
triển, các quốc gia phải nỗ lực tìm ra giải pháp để cân đối hài hòa giữa mục
tiêu phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, ổn định xã hội. Tuy nhiên với
thực trạng xã hội ở Việt Nam hiện nay để thực hiện được mục tiêu trên
không dễ dàng: Các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu tập trung phát triển
kinh tế, việc thực hiện trách nhiệm xã hội còn rất hạn chế, thậm chí nhiều
doanh nghiệp vì lợi nhuận mà bất chấp lợi ích xã hội, môi trường; Các tổ
chức xã hội tuy nỗ lực hoạt động bảo vệ môi trường, xã hội nhưng lại thiếu
tiềm lực tài chính bền vững nên hoạt động thường mang tính cục bộ, “thời
vụ”. Trong khi đó, hoạt động an sinh xã hội, cung cấp dịch vụ công của
Nhà nước còn hạn chế và bị quá tải. Trong bối cảnh ấy, Doanh nghiệp xã

hội là một giải pháp phù hợp cho bài toán khó về giải quyết những vấn đề
xã hội, môi trường hướng tới sự phát triển ổn định và bền vững. Có thể nói
Doanh nghiệp xã hội chứa đựng sự linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với cộng
đồng, mang đến sự đa dạng nguồn vốn, khả năng độc lập về doanh thu, đáp
ứng nhu cầu của xã hội về kinh doanh có đạo đức và quan trọng hơn là
cung cấp những dịch vụ, hoạt động cần thiết cho xã hội – vốn ít người dám
làm vì lợi nhuận thấp hoặc hầu như không có lợi nhuận.
Mô hình Doanh nghiệp xã hội đã được phổ biến rộng rãi và phát
triển ở nhiều quốc gia trên Thế giới. Ở Việt Nam, những mô hình mang
“dáng dấp” của Doanh nghiệp xã hội cũng đã manh nha xuất hiện từ những
năm cuối của Thế kỷ XX, lúc này khái niệm Doanh nghiệp xã hội chưa


2

được biết đến ở Việt Nam nên các tổ chức trên không nhận thức được mình
là một Doanh nghiệp xã hội. Mãi cho đến những năm đầu thập niên thứ hai
của Thế kỷ XXI, thông qua hoạt động nghiên cứu, truyền bá của các tổ
chức xã hội như Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (Centre for Socical
Initiatives Promotion - CSIP), Trung tâm tia sáng (Spark), Hội đồng Anh
tại Việt Nam (British Council)...., khái niệm Doanh nghiệp xã hội mới bắt
đầu xuất hiện và được biết đến ở Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm Doanh
nghiệp xã hội lúc này mới chỉ được nhìn nhận dưới khía cạnh khoa học và
thực tiễn chứ chưa được thừa nhận về mặt pháp lý, vậy nên, mô hình
Doanh nghiệp xã hội vẫn chưa có cơ sở pháp lý để chính thức thành lập và
hoạt động tại Việt Nam.
Trước yêu cầu phát triển, hội nhập, Luật Doanh nghiệp số
68/2014/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu
lực kể từ ngày 01/07/2015 (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2014) đã đem
đến nhiều sự đổi mới, khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế phát huy tính sáng tạo, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, và phát
triển bền vững. Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp
2014 là sự công nhận và khuyến khích phát triển của Nhà nước đối với một
mô hình doanh nghiệp mới – Doanh nghiệp xã hội. Tuy mới chỉ dành 01
điều luật để quy định về Doanh nghiệp xã hội, song Luật Doanh nghiệp
2014 đã chính thức thừa nhận tư cách pháp lý của Doanh nghiệp xã hội,
bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật về Doanh
nghiệp xã hội. Sau khi Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đã bắt đầu xây dựng, ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2014, trong đó Nghị định số 96/2015/NĐCP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật
doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/05/2016 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Quy định về các Biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng
ký DNXH theo Nghị định 96/2015/NĐ-CP là những văn bản hướng dẫn


3

trực tiếp các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về Doanh nghiệp xã
hội. Với hệ thống các văn bản trên, Việt Nam đã bước đầu xây dựng khung
cơ sở pháp lý cho các hoạt động của Doanh nghiệp xã hội, phần nào giải
đáp những vướng mắc của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014.
Tuy vậy, cho đến nay, hệ thống pháp luật về Doanh nghiệp xã hội
của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Các quy định về Doanh nghiệp xã hội mới
chỉ dừng lại ở các quy định của Luật Doanh nghiệp và một số văn bản
hướng dẫn thi hành, các văn bản điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp chưa có sự hướng dẫn bổ sung cụ thể đối với mô
hình này. Bản thân các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành vẫn còn hạn chế: một số vấn đề về thành lập Doanh
nghiệp xã hội, ưu đãi hỗ trợ cho Doanh nghiệp xã hội hay giám sát Doanh

nghiệp xã hội tuy đã có hướng dẫn nhưng vẫn còn nhiều bất cập nên thực tế
hiệu quả thực hiện chưa cao. Thực tiễn cho thấy việc thực hiện pháp luật
Doanh nghiệp xã hội vẫn còn khó khăn, và thực trạng thực hiện các quy
định về Doanh nghiệp xã hội tại Hà Nội – địa phương có số lượng Doanh
nghiệp xã hội đông nhất cả nước – là sự thể hiện tương đối rõ cho hiện thực
này. Vì vậy, để tìm hiểu sâu hơn và có những đóng góp giải quyết, học viên
quyết định chọn đề tài “Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội và thực tiễn
thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mô hình Doanh nghiệp xã hội đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam
trong một khoảng thời gian nhất định, tuy nhiên, khái niệm Doanh nghiệp
xã hội mới chính thức xuất hiện và được phổ biến ở Việt Nam trong
khoảng gần mười năm trở lại đây và chỉ mới chính thức được ghi nhận tư
cách pháp lý từ ba năm về trước. Vì vậy, ở Việt Nam đã có một số công
trình nghiên cứu về Doanh nghiệp xã hội dưới khía cạnh kinh tế, khoa học,


4

pháp lý được công bố trong thời gian gần đây. Có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu như:
- Công trình nghiên cứu “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái
niệm, bối cảnh, chính sách” năm 2012 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương (CIEM), Hội đồng Anh tại Việt Nam (British Council) và
Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP).
- Báo cáo kết quả khảo sát Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam năm
2011 được thực hiện bởi Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP),
Hội đồng Anh tại Việt Nam (British Council) và Trung tâm tia sáng
(Spark).

- Bài viết “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp
xã hội” của Thạc sĩ Vũ Thị Hòa Như, đăng trên Tạp chí Luật học số
03/2015;
- Bài viết “Những vấn đề pháp lý về Doanh nghiệp xã hội theo Luật
Doanh nghiệp 2014” của Tiến sĩ Phan Thị Thanh Thủy, đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số 06/2015;
- Bài viết “Doanh nghiệp xã hội và giải pháp phát triển Doanh
nghiệp xã hội tại Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Yến, đăng trên Tạp
chí Luật học số 11/2015;
- Bài viết “Đánh giá khả năng thực thi pháp luật hiện hành về Doanh
nghiệp xã hội ở Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung, đăng trên Tạp
chí Luật học số 01/2017;
- Luận văn Thạc sĩ “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam”,
năm 2015 của Trần Thị Minh Hiền – Đại học quốc gia Hà Nội.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu về Doanh nghiệp xã
hội, có rất ít các công trình có quy mô lớn nghiên cứu về khía cạnh pháp lý
của Doanh nghiệp xã hội một cách toàn diện. Phần lớn là những bài viết tạp
chí có dung lượng nhỏ, đi vào phân tích một số ít vấn đề pháp lý về Doanh


5

nghiệp xã hội. Tuy đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu cấp Thạc sĩ,
song nội dung nghiên cứu chưa cập nhật đủ thực trạng pháp luật về Doanh
nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật quy định
về Doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2014. Về thực tiễn, đề

tài nghiên cứu về thực trạng thực hiện quy định pháp luật của các Doanh
nghiệp xã hội và cơ quan quản lý nhà nước về Doanh nghiệp xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về
Doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2014. Về địa bàn nghiên
cứu đề tài nghiên cứu tập trung trên địa bàn thành phố Hà Nội, thời gian
nghiên cứu từ năm 2010 đến nay (hết tháng 05/2017).
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài trên nhằm thực hiện mục tiêu: Phân tích làm
rõ và đánh giá được các quy định hiện hành của Luật Doanh nghiệp 2014
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành về Doanh nghiệp xã hội. Đồng thời
tìm hiểu được thực tiễn thực hiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nói trên, Luận văn tập trung đi vào
giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:


6

- Nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội. Từ
đó phân biệt Doanh nghiệp xã hội với các mô hình khác để nhận diện
Doanh nghiệp xã hội. Nghiên cứu về khái niệm, nội dung cơ bản của Pháp
luật về Doanh nghiệp xã hội và ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật
đối với Doanh nghiệp xã hội.
- Nghiên cứu về thực trạng những quy định của pháp luật về Doanh

nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ đó đánh giá sự phù hợp của
những quy định hiện hành về Doanh nghiệp xã hội.
- Nghiên cứu tình hình phát triển Doanh nghiệp xã hội và tình hình
thực hiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tìm hiểu những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong thực
tiễn thực hiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội trên địa bàn thành phố Hà
Nội, lý giải nguyên nhân, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở nền tảng là phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Liệt
kê, thống kê, lịch sử, logic, so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Về mặt khoa học, thông qua việc nghiên cứu đề tài “pháp luật về
Doanh nghiệp xã hội”, luận văn đã giải quyết những nội dung cơ bản xung
quanh vấn đề lý luận về Doanh nghiệp xã hội và thực trạng pháp luật Việt
Nam hiện hành về Doanh nghiệp xã hội như: Khái niệm Doanh nghiệp xã
hội; Đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội; Phân biệt Doanh nghiệp xã hội với
các mô hình khác; Khái niệm, đặc điểm cùng những nội dung cơ bản về
Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội. Trên cơ sở đó, luận văn đi vào nghiên


7

cứu thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành, có cập nhật các quy
định mới so với một số công trình nghiên cứu trước đây (tập trung vào Luật
Doanh nghiệp 2014 cùng văn bản hướng dẫn thi hành). Đặc biệt, luận văn
đi vào nghiên cứu cụ thể tình hình thực hiện các quy định của pháp luật

hiện hành về Doanh nghiệp xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ việc
nghiên cứu thực trạng pháp luật, đánh giá tình hình thực tiễn, nhận thấy
một số hạn chế, bất cập, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của
pháp luật về Doanh nghiệp xã hội.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng
làm tài liệu nghiên cứu và học tập của các nhà nghiên cứu, giảng dạy luật
học, việc học tập của sinh viên, học viên chuyên ngành luật kinh tế....
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Doanh nghiệp xã hội và pháp
luật về Doanh nghiệp xã hội.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn thành phố Hà
Nội và giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật.


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề chung về Doanh nghiệp xã hội.
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Doanh nghiệp xã hội
Khái niệm “Doanh nghiệp xã hội” (DNXH) (Social Enterprise –
SCE) là một khái niệm vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên
phạm vi Thế giới, mô hình DNXH đã ra đời từ khá lâu và có lịch sử phát
triển lên đến bốn thế kỷ.

Trong lịch sử phát triển DNXH, nước Anh được xác định là quốc gia
đi đầu và cũng là cái nôi cho sự ra đời của DNXH. Theo nghiên cứu của
MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình DNXH đầu tiên xuất hiện
tại London vào năm 1665, với việc Thomas Firmin đã đứng ra thành lập
một xí nghiệp sản xuất bằng nguồn tài chính cá nhân và duy trì việc làm
cho 1.700 công nhân trong bối cảnh nơi này đang ở trong tình trạng thất
nghiệp bao trùm vì Đại dịch. Điều đặc biệt là ngay từ khi mới thành lập,
Thomas đã tuyên bố xí nghiệp của ông sẽ không theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận mà lợi nhuận thu được sẽ chuyển cho các quỹ từ thiện1. Như vậy, với
tuyên bố thành lập doanh nghiệp trên của Thomas, mầm mống đầu tiên của
DNXH đã ra đời.
Sang đến cuối thế kỷ XVIII, các loại hình hoạt động mang hơi hướng
DNXH đã bắt đầu phát triển, gia tăng về mặt số lượng tại Anh. Thời điểm
này, mô hình DNXH chủ yếu phát triển dưới hai hình thức cơ bản: Một là,
các trung tâm, chương trình do những “người giàu” thành lập để hỗ trợ
hoặc cung cấp việc làm, tạo ra công việc, thu nhập ổn định, giúp đỡ những
đối tượng nghèo khó hoặc có hoàn cảnh đặc biệt, giúp họ trở thành “những
1

Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2012), Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối
cảnh, chính sách, Hà Nôi, tr.01.


9

thành viên hữu ích của quốc gia” (ví dụ như Quỹ tín dụng vi mô ở Bath,hay
mô hình các trường đào tạo nghề...); Hai là, việc thành lập các mô hình mà
ở đó có sự tham gia của một nhóm người và thực hiện trao quyền quản lý tổ
chức kinh doanh cho tất cả thành viên để giúp họ có khả năng làm chủ kinh
doanh và phân phối lợi nhuận (như Hợp tác xã (Co-op), Hội ái hữu, Làng

nghề ...). Song sau đó vì ảnh hưởng của cuộc Đại suy thoái năm 1929-1933
dẫn đến gia tăng sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế, kéo theo
sự sụt giảm trong hoạt động của các mô hình DNXH nói trên2.
Chỉ khi Thủ tướng Anh Margaret Thatcher lên nắm quyền, DNXH
mới hoạt động mạnh mẽ trở lại và không ngừng phát triển cho đến hiện
nay. Vì cho rằng bộ máy công quyền luôn tồn tại hạn chế cố hữu là quan
liêu, tham nhũng, việc giải quyết các vấn đề xã hội do đó kém hiệu quả hơn
so với các tổ chức dân sự và tư nhân. Vậy nên, Thủ tướng Thatcher chủ
trương thu hẹp vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp phúc lợi xã hội,
đồng thời khuyến khích các tổ chức xã hội dân sự tham gia, chia sẻ việc
giải quyết các vấn đề xã hội, nhờ đó các DNXH phát triển mạnh mẽ ở
Anh3.
Trong khoảng ba thập niên trở lại đây, DNXH không chỉ là loại hình
phát triển trong phạm vi của một quốc gia mà còn lan rộng ra nhiều quốc
gia, “trở thành một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn
cầu”4, không chỉ ở Châu Âu mà còn cả Châu Á, Châu Mỹ.... Ngày nay, tuy
chưa có quan niệm thống nhất về DNXH, song loại hình này đã được thừa
nhận rộng rãi và có xu hướng ngày càng phát triển, có vai trò tích cực trong
việc góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của mỗi quốc gia và cộng đồng
quốc tế.

2

Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.01
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.02.
4
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.02.
3



10

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội
Vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của Thế kỷ XX, với sự
mở cửa trong chính sách của Thủ tưởng Anh Thatcher, sự tham gia của các
doanh nghiệp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội ở Anh ngày càng
nhiều,từ đây, thuật ngữ “doanh nghiệp xã hội” bắt đầu được sử dụng để gọi
những doanh nghiệp như vậy. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một quan
điểm thống nhất về doanh nghiệp xã hội, mỗi quốc gia, mỗi tổ chức lại có
cách định nghĩa khác nhau về khái niệm này, chẳng hạn:
Ở Anh, tại Chiến lược phát triển DNXH năm 2002 đã định nghĩa
“Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm
thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục
tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc
chủ sở hữu”5. Định nghĩa này nhìn chung có tính bao quát, xác định phạm
vi DNXH tương đối rộng với ba đặc điểm cơ bản gồm: Một là, DNXH chỉ
là một mô hình kinh doanh – tức DNXH không bị ràng buộc vào một loại
hình công ty cụ thể, mà đây chỉ là tên gọi cho một phương án, cách thức
tiến hành hoạt động kinh doanh, thông qua hoạt động kinh doanh để thực
hiện mục tiêu của mình; Hai là, mô hình kinh doanh DNXH được lập ra vì
mục tiêu xã hội; Ba là, trong DNXH, lợi nhuận phải được tái phân phối lại
cho tổ chức, cộng đồng, không phải cho cá nhân hay chủ sở hữu. Nói cách
khác, Anh xây dựng quan điểm không chú trọng về hình thức cụ thể mà
nhấn mạnh vào tính xã hội của chủ thể của DNXH.
Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organization
for Economic Co-operation and Development - OECD) lại phát triển và
định nghĩa DNXH như sau:

5


UK Government, A Guide to Legal Form for Social Enterprise 2013, trích trong tài liệu: “Phan Thị
Thanh Thủy (2015), “Hình thức pháp lý của Doanh nghiệp xã hội: Kinh nghiệm nước Anh và một số gợi
mở cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, 31 (04), tr. 56-64.


11

Doanh nghiệp xã hội là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình
thức pháp lý khác nhau, vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi
cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. DNXH thường cung cấp các
dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông
thôn. Ngoài ra, DNXH còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh
vực giáo dục, văn hóa, môi trường6.
Định nghĩa này của OECD tuy thiếu tính học thuật, nhưng lại chứa
đựng tính thực tiễn cao bởi đã chỉ ra những đặc điểm cũng như hoạt động
đặc trưng của DNXH. Trên cơ sở tổng hợp những đặc điểm đa dạng của
các DNXH của các nước thành viên nên OECD cũng giống như Anh,
không định hình DNXH dưới một hình thức pháp lý cụ thể. Tuy nhiên định
nghĩa của OECD không đề cập rõ ràng đến vấn đề lợi nhuận và định nghĩa
theo hướng liệt kê chi tiết các hoạt động của một DNXH nên vô hình chung
đã thu hẹp khả năng hoạt động của DNXH.
Một tổ chức khác là Mạng lưới nghiên cứu Châu Âu về các vấn đề
của khu vực thứ ba (EMES) cũng đưa ra quan điểm của riêng mình về khái
niệm DNXH. Theo đó, EMES cho rằng: “Doanh nghiệp xã hội là các tổ
chức với mục tiêu rõ ràng là mang lại ích lợi cho cộng đồng, được sáng lập
bởi một nhóm các công dân và mức độ quan tâm đến lợi nhuận vật chất của
các nhà đầu tư là không nhiều”7. Cũng tương tự như hai định nghĩa nêu
trên, EMES xác định đặc điểm cơ bản của DNXH là phải có mục tiêu mang
lại lợi ích cho cộng đồng; ít quan tâm đến lợi nhuận vật chất. Song định
nghĩa này giới hạn hình thức pháp lý của DNXH là tổ chức do một nhóm

các công dân thành lập nên lại hẹp hơn định nghĩa của Chính phủ Anh và
OECD.
6

Xem thêm tại: Viện Nghiên cứu, Quản lý Kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.4
Phạm Mỹ Hạnh (2013), “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Nỗ lực khẳng định vai trò của mình trong
cơ chế thị trường”, Tạp chí Cộng sản, tại địa chỉ: ngày truy
cập 20/06/2017.
7


12

Ngay tại Việt Nam, hiện nay vẫn còn tồn tại các luồng quan điểm
xung quanh khái niệm DNXH. Có quan điểm hiểu DNXH theo nghĩa rộng,
xác định “DNXH là một mô hình kinh doanh, đem lại lợi nhuận, bề ngoài
hoạt động như doanh nghiệp truyền thống khác, chỉ yêu cầu một điều kiện
duy nhất là đặt sứ mệnh xã hội ở vị trí trung tâm, trong khi mục tiêu lợi
nhuận đóng vai trò hỗ trợ”8; Ngược lại cũng có quan điểm hiểu DNXH
theo nghĩa hẹp, cho rằng DNXH về bản chất chỉ là doanh nghiệp nhưng có
mục tiêu, sứ mệnh hoạt động vì xã hội nên “DNXH phải đăng ký dưới hình
thức công ty, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác”9. Tuy
nhiên, các quan điểm trên về DNXH đều chưa chặt chẽ, thấu đáo. Quan
điểm thứ nhất theo nghĩa rộng có ưu điểm khi xác định bản chất của DNXH
là “mô hình kinh doanh” không bị bó hẹp hình thức pháp lý và xác định rõ
các mục tiêu của DNXH. Nhưng bản thân cách định nghĩa về DNXH nói
trên lại chứa đầy mâu thuẫn bởi cách xác định mập mờ rằng DNXH có “bề
ngoài hoạt động như doanh nghiệp truyền thống”, dẫn đến giới hạn hình
thức tồn tại của DNXH. Cách hiểu này cũng không đề cập đến vấn đề phân
chia lợi nhuận nên chưa có căn cứ để nhận diện tính “vì xã hội” hay “vì lợi

nhuận” của DNXH. Quan điểm thứ hai về DNXH cũng còn hạn chế khi
khẳng định bản chất của DNXH là doanh nghiệp và xác định hình thức tồn
tại của DNXH dưới các hình thức công ty là rất hạn hẹp, không phù hợp
với thực tế tồn tại của DNXH. Cũng giống như cách định nghĩa theo nghĩa
rộng, quan điểm này không đề cập đến vấn đề phân phối lợi nhuận nên gây
khó khăn trong việc nhận diện DNXH.
Khái niệm “Doanh nghiệp xã hội” còn hay bị nhầm lẫn với khái
niệm “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” (Corperate Social
Responsibilities – CSR). Tuy nhiên, cả về lý thuyết và thực tiễn, hai khái
niệm này là khác nhau.

8
9

Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.05.
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.05.


13

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là “một phong trào tự
vận động, tự nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp để ràng buộc các
hoạt động kinhdoanh của mình theo các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh”10.
Tuy hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau về việc định nghĩa khái
niệm “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”. Song định nghĩa được biết
đến rộng rãi là định nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân
hàng Thế giới, theo đó, CSR có thể hiểu là: “sự cam kết của doanh nghiệp
đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động
nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia
đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp

cũng như phát triển chung của xã hội”11.
Như vậy, có thể thấy bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều phải có
CSR và các doanh nghiệp cam kết CSR vẫn có thể là những doanh nghiệp
thông thường, nên có những trường hợp thực hiện CSR nhưng mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận vẫn là chủ đạo, những tác động xã hội khi thực hiện CSR
không phải là mục tiêu cao nhất mà là cách ứng xử mang tính nghĩa vụ đối
với cộng đồng, với các chủ thể, đối tượng có liên quan.
Còn DNXH lại là một mô hình kinh doanh nhưng không vì lợi nhuận
mà luôn hướng đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Mục tiêu xã hội là
mục tiêu cao nhất, gắn liền và xuyên suốt trong quá trình tồn tại và hoạt
động của doanh nghiệp. Nói cách khác, trong khi DNXH là một mô hình
kinh doanh vì xã hội thì CSR là cách ứng xử của doanh nghiệp nên rõ ràng
không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau.
Qua việc phân tích một số khái niệm nêu trên có thể thấy, xung
quanh việc xác định “thế nào là Doanh nghiệp xã hội” vẫn có những quan
10

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tlđd chú thích 1, tr.16.
Trần Anh Phương (2009), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Việt Nam”,
Tạp chí Triết học, số 8 (219), được đăng tại địa chỉ:
ngày truy cập: 20/06/2017
11


14

điểm chưa thống nhất. Do cách tiếp cận khác nhau dẫn đến mỗi quốc gia, tổ
chức có quan điểm về DNXH khác nhau, có quan điểm chú trọng vào mục
tiêu, sứ mệnh của DNXH, có quan điểm lại muốn thể hiện tổ chức, hoạt
động của DNXH. Tuy có những điểm khác biệt, song qua thực tiễn phát

triển cũng như từ chính những định nghĩa trên có thể thấy DNXH có một số
đặc điểm cơ bản như sau:
(i) DNXH luôn coi mục tiêu xã hội là mục tiêu hàng đầu.
DNXH luôn hướng đến mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội như là sứ
mệnh hoạt động tối thượng của mình. Xác định mục tiêu xã hội là mục tiêu
cao nhất ngay từ khi thành lập cũng như xuyên suốt quá trình hoạt động của
DNXH. Do đó, mỗi DNXH khi thành lập và hoạt động đều hướng đến mục
tiêu giải quyết một vấn đề xã hội, môi trường cụ thể. Tuy DNXH có thực
hiện hoạt động kinh doanh, có thể có lợi nhuận, nhưng hoạt động kinh
doanh đó chỉ là một công cụ để DNXH thực hiện mục tiêu xã hội của mình,
DNXH hoạt động và tồn tại không “vì lợi nhuận” mà “vì xã hội”. Đây là
đặc trưng cơ bản nhất tạo nên tính xã hội của DNXH, khiến DNXH trở nên
khác biệt so với các doanh nghiệp thông thường.
(ii) DNXH phải có hoạt động kinh doanh.
Khác với các tổ chức có cùng mục tiêu vì xã hội khác như Tổ chức
phi chính phủ, tổ chức từ thiện, quỹ xã hội..., DNXH phải có hoạt động
kinh doanh một cách thường xuyên, liên tục. Hoạt động kinh doanh vừa là
mục tiêu vừa là động lực đồng thời là điều kiện đảm bảo sự tồn tại cho
DNXH, là phần không thể thiếu của mô hình này. Để thực hiện hoạt động
kinh doanh, phần nhiều DNXH lựa chọn cách thức tổ chức như một doanh
nghiệp thông thường, tham gia vào thị trường và cạnh tranh với các doanh
nghiệp thông thường. Tuy nhiên, việc thực hiện hoạt động kinh doanh của
DNXH không nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu mà chỉ là một
công cụ nhưng có tính độc lập, tự chủ và bền vững để tạo điều kiện thực
hiện hoạt động xã hội, hướng đến thực hiện mục tiêu xã hội.


15

(iii), DNXH phải thực hiện tái phân phối lợi nhuận.

DNXH được thành lập và hoạt động vì mục tiêu xã hội. Nhưng việc
thực hiện mục tiêu xã hội đó không phải chỉ là lời tuyên bố của DNXH,
điều đó còn được cụ thể hóa, hiện thực hóa bằng việc các DNXH đều phải
tái phân phối lợi nhuận để thực hiện mục tiêu xã hội. Các DNXH đều phải
thực hiện hoạt động kinh doanh nên sẽ có lợi nhuận, nhưng phần lớn lợi
nhuận có được của DNXH được tái đầu tư cho mục tiêu xã hội hoặc phân
phối cho cộng đồng. Tùy thuộc pháp luật của mỗi quốc gia mà DNXH có
thể để lại một phần lợi nhuận nhất định để chia cho các chủ sở hữu, nhưng
phần lợi nhuận này không được chiếm quá nửa tổng số lợi nhuận của
DNXH. Như vậy, DNXH luôn phải chi trả đồng thời chi phí kinh doanh và
chi phí xã hội.
Nhìn chung, trong số rất nhiều quan điểm khác nhau về DNXH, cách
định nghĩa của Chính phủ Anh về DNXH là định nghĩa có tính khoa học và
bao quát hơn cả. Vì vậy, trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu về
Doanh nghiệp xã hội như sau: “Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh
doanh thực hiện cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. Trong đó mục tiêu xã hội
là mục tiêu cao nhất, phần lớn lợi nhuận phải được sử dụng để tái đầu tư
cho mục tiêu xã hội đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận
cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
1.1.3. Phân biệt Doanh nghiệp xã hội với một số loại hình tổ chức
khác
Doanh nghiệp xã hội như đã nói ở trên là một mô hình đặc biệt, mô
hình này tuy thực hiện hoạt động kinh doanh nhưng mục tiêu cuối cùng
không phải là lợi nhuận mà là các mục tiêu xã hội. Việc sử dụng hoạt động
kinh doanh như một công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu xã hội đã
khiến DNXH trở thành mô hình có sự giao thoa và dễ gây nhầm lẫn với
một số mô hình hoạt động khác như doanh nghiệp thông thường, Tổ chức
phi chính phủ (Non - Government Organization - NGO), doanh nghiệp



16

công ích, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh hay các quỹ từ thiện.... Song
xem xét đến cùng, về bản chất, DNXH vẫn là một mô hình độc lập, phân
biệt với các loại hình trên ở một số điểm khác biệt cụ thể.
- Phân biệt giữa DNXH với doanh nghiệp thông thường.
Tuy DNXH chỉ là một thuật ngữ mang tính khái niệm chứ chưa thể
khái quát toàn bộ hình thức pháp lý của mô hình này nhưng vì DNXH luôn
cần phải thực hiện hoạt động kinh doanh để thực hiện mục tiêu xã hội nên
DNXH có nhiều điểm tương đồng với doanh nghiệp thông thường. Thậm
chí hiện nay vẫn có những luồng quan điểm rằng DNXH là một hình thức
khác của doanh nghiệp thông thường. Tuy nhiên, xét về bản chất, DNXH
có những khác biệt căn bản so với doanh nghiệp thông thường. Doanh
nghiệp thông thường ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt
động luôn hướng đến mục đích lợi nhuận, tối đa hóa lợi nhuận. Trong khi
đó, DNXH lại có mục tiêu cao nhất là mục tiêu xã hội, ngay từ khi thành
lập và trong suốt quá trình hoạt động, DNXH luôn hướng đến giải quyết
các vấn đề xã hội. Chính sự khác biệt căn bản về mục đích thành lập, hoạt
động dẫn đến sự khác biệt trong hàng loạt các vấn đề khác giữa hai mô
hình này như hình thức pháp lý, cách sử dụng lợi nhuận hay hiệu quả tác
động.
Về hình thức pháp lý: Từ thực tiễn hình thành và phát triển của
DNXH đã ghi nhận DNXH tồn tại và hoạt động dưới nhiều hình thức rộng
hơn, linh hoạt hơn so với doanh nghiệp thông thường, đó có thể là hình
thức công ty, doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội dân sự. Còn các doanh
nghiệp thông thường chỉ có thể hoạt động dưới các loại hình công ty theo
luật định như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty
hợp danh.
Về sử dụng lợi nhuận: Do mục tiêu hướng đến khác nhau nên việc sử
dụng, phân phối lợi nhuận của DNXH và doanh nghiệp thông thường cũng

khác nhau. Doanh nghiệp thông thường hướng đến lợi nhuận nên lợi nhuận


17

(cổ tức) của doanh nghiệp được chia cho chủ sở hữu, cổ đông. Còn DNXH
lại đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu, việc tìm kiếm lợi nhuận nhằm phục vụ
cho việc thực hiện mục tiêu xã hội nên lợi nhuận thu được của DNXH
không được chia hết cho chủ sở hữu hay cổ đông mà phần lớn lại được tái
đầu tư cho việc thực hiện mục tiêu xã hội hoặc phân phối cho cộng đồng.
Về hiệu quả tác động: Doanh nghiệp thông thường chủ yếu tạo ra giá
trị kinh tế, còn DNXH chủ yếu tạo ra giá trị xã hội. Song việc đánh giá hiệu
quả tác động như trên chỉ mang tính tương đối, bởi thực tế, một doanh
nghiệp thông thường bên cạnh những giá trị kinh tế, đôi khi cũng đem đến
những hiệu quả xã hội nhất định. Ngược lại, DNXH dù tập trung vào mục
tiêu xã hội nhưng trong quá trình hoạt động, DNXH cũng góp phần tạo ra
hiệu quả kinh tế.
- Phân biệt DNXH với Tổ chức phi chính phủ (NGO).
Doanh nghiệp xã hội và NGO là những mô hình tương đối gần gũi.
Cả hai đều có mục tiêu hàng đầu là hướng đến giải quyết những vấn đề xã
hội, song cách thức hoạt động của hai loại hình này có nhiều điểm khác
biệt. DNXH dù được thành lập dưới hình thức nào cũng đều phải thực hiện
hoạt động kinh doanh để nhằm thu lợi nhuận và dùng chính lợi nhuận đó để
tái đầu tư cho mục tiêu xã hội hoặc tái phân phối cho cộng đồng. Vậy nên,
bên cạnh mục tiêu cao nhất là giải quyết các vấn đề xã hội, các DNXH còn
có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận để phục vụ mục tiêu xã hội. So với NGO,
nguồn vốn của DNXH đa dạng hơn, gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu, vốn thu
được từ hoạt động kinh doanh và vốn viện trợ.
Còn NGO có cách thức giải quyết các vấn đề xã hội khác. NGO
không thực hiện hoạt động kinh doanh (nếu có, chỉ là trong một chương

trình, dự án chứ không phải là hoạt động thường xuyên) để thu lợi nhuận
tái đầu tư lại cho mục tiêu xã hội mà phần lớn lấy vốn hoạt động từ các nhà
tài trợ, tổ chức các chương trình, dự án cụ thể. Nói cách khác, hoạt động


18

của NGO không hướng đến mục tiêu xã hội và kinh tế như DNXH mà chỉ
có mục tiêu xã hội thuần túy.
- Phân biệt DNXH với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích và doanh nghiệp quốc phòng an ninh.
Doanh nghiệp công ích là doanh nghiệp sản xuất, cung ứng các sản
phẩm, dịch vụ công ích (sản phẩm, dịch vụ công ích là sản phẩm, dịch vụ
thiết yếu đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư
của một khu vực lãnh thổ mà Nhà nước cần bảo đảm vì lợi ích chung hoặc
bảo đảm quốc phòng, an ninh và việc sản xuất, cung ứng theo cơ chế thị
trường không có khả năng bù đắp chi phí, đồng thời được cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền đặt hàng, giao kế hoạch, tổ chức đấu thầu theo giá hoặc phí
do Nhà nước quy định)12;
Doanh nghiệp quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước được
thành lập hoặc tổ chức lại để thực hiện các nhiệm vụ mang tính ổn định,
thường xuyên trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh hoặc bảo đảm bí mật và an ninh quốc gia13.
Như vậy, có thể thấy, doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp quốc
phòng an ninh cũng có hoạt động hướng đến xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên,
hai loại hình này lại có sự khác biệt căn bản với DNXH ở phương thức
hoạt động. DNXH được thành lập và hoạt động trên tinh thần tự nguyện
của các nhà sáng lập, hoạt động như một doanh nghiệp thông thường.
Trong khi đó, cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp quốc phòng, an
ninh hoạt động theo yêu cầu của Nhà nước, được Nhà nước “đặt hàng”

hoặc “giao nhiệm vụ”. Do đó, các DNXH vẫn phải tham gia thị trường và
cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác; còn các doanh nghiệp

12

Xem: Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 130/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ về sản xuất và
cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.
13
Xem: Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 93/2015/NĐ-CP ngày 15/10/2015 của Chính phủ về tổ chức quản
lý và hoạt động của doanh nghiệp quốc phòng, an ninh.


19

công ích, doanh nghiệp quốc phòng an ninh về cơ bản được Nhà nước trợ
giá, hưởng các ưu đãi đặc biệt.
Bên cạnh đó, mục tiêu của các mô hình này không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Mục tiêu của DNXH là hướng đến giải quyết các vấn đề xã
hội – những hiện thực xã hội mang hướng tiêu cực, khó khăn cần được
khắc phục, giải quyết. Trong khi đó, mục tiêu của các doanh nghiệp công
ích là nhằm cung ứng các sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sử dụng
thiết yếu, buộc phải có của cộng đồng. Còn doanh nghiệp quốc phòng, an
ninh được thành lập chỉ nhằm thực hiện nhiệm vụ trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh hoặc bảo đảm bí mật và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, hiện
nay, ngoại trừ lĩnh vực an ninh quốc phòng, việc cung cấp các sản phẩm
dịch vụ công ích thông thường sẽ được xã hội hóa. Trong tương lai, một số
lượng lớn các doanh nghiệp công ích đang hoạt động có thể chuyển thành
DNXH để bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh cho nền kinh tế nước ta.
- Phân biệt DNXH với tổ chức từ thiện.
Tổ chức từ thiện cũng gần tương tự như NGO và DNXH là tổ chức

hoạt động với mục đích xã hội, không vì lợi nhuận. Tuy nhiên, so với
DNXH, tổ chức từ thiện có nhiều điểm khác biệt. Đều là mô hình hoạt động
vì xã hội, nhưng phạm vi hoạt động của DNXH có phần rộng hơn. Trong
khi DNXH có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường nói chung
tương đối đa dạng, thì tổ chức từ thiện chủ yếu là thực hiện các hoạt động
mang tính trợ giúp xã hội, đặc biệt là các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn
thương, mang tính bù đắp. Cũng tương tự như NGO, tổ chức từ thiện cũng
không buộc phải thực hiện kinh doanh như DNXH, do đó, tổ chức từ thiện
khác với DNXH, họ không có lợi nhuận và nguồn vốn tiến hành hoạt động
xã hội là từ sự quyên góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân khác.


×