Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Khóa luận tốt nghiệp lớp TCLLCTHC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.26 KB, 30 trang )

Phần thứ nhất: LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đã biết, hiện nay nền kinh tế - xã hội của toàn thế giới đang phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là khoa học công nghệ thông tin đang vươn xa mà con
người chúng ta trước đây đã mơ tưởng đến. Việt Nam chúng ta đang trong bối
cảnh phát triển đó. Chính vì vậy, phát triển nhân tố con người có trình độ, có trí
tuệ, có đủ phẩm chất và năng lực, ngang tầm với thời đại, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, hoà nhập với điều kiện phát triển toàn cầu, tạo
ra năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Tất cả những điều đó muốn đáp ứng được đều phụ thuộc vào giáo dục.
Giáo dục - Đào tạo là đòn bẩy, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng Cộng
Sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay, trong suốt quá trình lãnh đạo hơn 88 năm
qua luôn coi trọng con người là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Đặc biệt,
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: “Nguồn lực lớn
nhất, quý báu nhất của chúng ta là con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí
tuệ”.
Trong những năm gần đây, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Giáo dục - Đào
tạo là Quốc sách hàng đầu” và khẳng định mục tiêu cơ bản của giáo dục là xây
dựng con người và một thế hệ gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thực hiện tốt sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực tinh thần cá nhân làm chủ tri thức khoa học,
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng quản lý giỏi, có tác phong
công nghiệp và có tính tổ chức kỷ luật, có sức khoẻ, là người kế thừa sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội: vừa hồng vừa chuyên.
Nhiệm vụ của Giáo dục - Đào tạo là tham gia phát triển con người có đủ
tiêu chuẩn nêu trên. Chính vì lẽ đó, nhà trường là cơ sở giáo dục trực tiếp định
hướng và hoàn thiện nhân cách cho các em thông qua hoạt động dạy học, cho nên
sản phẩm của giáo dục không có “sản phẩm lỗi”. Vì vậy, yêu cầu với các nhà


quản lý giáo dục càng phải thận trọng trong quá trình quản lý, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ.
Điều chúng ta đáng quan tâm đó là: nhân cách của các em được hình thành
chủ yếu thông qua học tập và hoạt động vui chơi, trong đó hoạt động dạy học luôn
được coi là trung tâm, do vậy quản lý dạy học là quản lý hàng đầu của Ban giám
hiệu trong các trường tiểu học.
Khi lên thăm Tây Bắc, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Tây Bắc là hòn
ngọc ngày mai của Tổ quốc”. Nhận thức được điều đó và để biến lời nói đó thành
sự thật, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La đã xác định rõ mục tiêu phát
triển con người thông qua hệ thống các trường phổ thông, coi đây là “ Vườn ươm
1


hạt giống đỏ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc”. Là nơi đào tạo những người
quản lý kế cận trong tương lai, những thầy giáo, cô giáo cho các bản làng vùng
sâu, vùng xa, những cán bộ khoa học của các ngành kinh tế, văn hoá…đây là một
yếu tố quan trọng góp phần xây dựng vùng Tây Bắc trở thành “Hòn ngọc ngày
mai của Tổ quốc”.
Điều băn khoăn, trăn trở hiện nay của các nhà quản lý là phải làm thế nào
để các trường phổ thông, trong đó có các trường tiểu học xứng đáng là vườn ươm
các hạt giống đỏ, đặc biệt là chất lượng của học sinh dân tộc ở các trường tiểu học
vùng khó khăn phải tương đồng với học sinh các trường tiểu học vùng thuận lợi
để các em có điều kiện về mặt kiến thức tiếp tục theo học các cấp học cao hơn,
đáp ứng yêu cầu, niềm mong mỏi của toàn xã hội.
Với trách nhiệm là người quản lý, qua thời gian học Chương trình Trung
cấp Lý luận Chính trị – Hành chính, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Đổi mới
phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu học xã
Chiềng Sại, huyện Bắc Yên giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học

hiện nay trong các nhà trường; qua tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng chất lượng
công tác giảng dạy nhiều năm qua ở trường Tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên, từ
đó tôi mạnh dạn đề xuất đổi mới một số phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở trường Tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên để đáp ứng yêu cầu của
xã hội hiện nay.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Công tác quản lý của trường Tiểu học xã Chiềng Sại,
huyện Bắc Yên.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thu thập, phân tích các tài liệu lý luận
(văn bản, nghị quyết, văn kiện của Đảng …) để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Phương pháp điều tra: điều tra, thu thập các thông tin về hoạt động dạy
học trường Tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên.
- Phương pháp trò chuyện: động viên, tâm sự, khuyến khích giáo viên và
học sinh thi đua dạy tốt - học tốt.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: trên cơ sở kinh nghiệm làm công tác
quản lý chuyên môn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học ở trường
Tiểu học xã Chiềng Sại.

2


- Phương pháp toán học: để xử lý các kết quả thu được từ các phương pháp
trên.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài gồm
ba phần: Mở đầu; nội dung; kiến nghị, kết luận với tổng số 30 trang.

Phần thứ hai: NỘI DUNG

3


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm liên quan
a) Khái niệm về quản lý
Là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các
thành viên của tổ chức, và sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có của tổ chức để đạt
được mục tiêu của tổ chức.
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động
của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn hồ hởi, phấn khởi,
đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho
xã hội.
Quản lý là loại lao động để điều khiển lao động, do đó quản lý vừa là một
khoa học, vừa là một nghệ thuật. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, người
quản lý phải hết sức linh hoạt, sáng tạo để chỉ đạo hoạt động của tổ chức đi tới
đích mong muốn.
b) Khái niệm về hoạt động dạy học
Dạy học là một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách, là quá
trình tác động qua lại giữa thầy và trò nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa
học, kinh nghiệm xã hội, kỹ năng, kỹ xảo, hoạt động nhận thức thực tiễn, trên cơ
sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng các phẩm
chất của cá nhân người học.
Học là một hoạt động trong đó học sinh là chủ thể, khái niệm khoa học là
đối tượng chiếm lĩnh. Học là quá trình tự giác, tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức
dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên.
Học có hai chức năng thống nhất với nhau: lĩnh hội và tự chiếm lĩnh. Lĩnh
hội là tiếp thu thông tin dạy của thầy, của sách giáo khoa…và tự điều khiển, tích

cực, tự chiếm lĩnh tri thức của bản thân.
Dạy là sự điều khiển tối ưu hoá quá trình dạy học của học sinh để hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Nếu học nhằm mục đích chiếm lĩnh
khái niệm khoa học thì dạy lại có mục đích là sự điều khiển việc học tập. Dạy có
hai chức năng thường xuyên tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau là truyền đạt
thông tin dạy học và điều khiển thông tin, hoạt động dạy học.
Tóm lại: Hoạt động dạy học là một quá trình trong đó dưới tác động chủ
đạo (tổ chức, điều khiển, lãnh đạo) của thầy, học sinh tự giác, tích cực tổ chức tự
điều khiển hoạt động nhận thức nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
c) Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học chính là điều khiển quá trình dạy học, làm cho
quá trình đó được vận hành một cách có kế hoạch, có tổ chức và được chỉ đạo,
4


kiểm tra, giám sát thường xuyên nhằm từng bước hướng về thực hiện mục đích,
nhiệm vụ dạy và học đã đặt ra.
Các yếu tố cấu thành của quá trình dạy học: Các yếu tố cấu thành của quá
trình dạy học là các yếu tố có quan hệ trực tiếp đến hoạt động phát triển nhân cách
học sinh bao gồm: mục tiêu đào tạo, nội dung dạy học, phương pháp dạy học,
hình thức tổ chức dạy học, phương tiện dạy học, giáo viên và học sinh, trong đó
giáo viên là yếu tố chủ đạo và học sinh là yếu tố trung tâm của quá trình dạy học
và cuối cùng là kết quả dạy học.
Đối tượng của quản lý quá trình dạy học trong nhà trường là sự hoạt động
của giáo viên, học sinh và các tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực
hiện các kế hoạch và chương trình đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đã quy định.
1.2. Vai trò của quản lý đối với quá trình dạy học
Hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông giữ vị trí trung tâm bởi nó
chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm học;
nó làm nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục toàn diện

của nhà trường phổ thông; nó kết quả đào tạo của nhà trường.
Hoạt động dạy học còn là hoạt động đặc thù của nhà trường phổ thông, nó
được quy định bởi đặc thù lao động sư phạm của người giáo viên. Vì vậy nó cũng
quy định tính đặc thù của công tác quản lý nhà trường nói chung và quản lý hoạt
động dạy học nói riêng.
Người quản lý phải nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng và tính đặc thù
của hoạt động dạy học để có những biện pháp quản lý khoa học, sáng tạo nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Công tác quản lý hoạt động dạy học giữ vai trò quan trọng trong công tác
quản lý nhà trường ở các bậc học nói chung và cấp tiểu học nói riêng. Mục tiêu
quản lý chất lượng đào tạo nền tảng, là cơ sở để nhà quản lý xác định các mục
tiêu quản lý khác trong hệ thống mục tiêu quản lý nhà trường.
Quản lý hoạt động dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của nhà quản lý. Xuất
phát từ vị trí quan trọng của hoạt động dạy học, cán bộ quản lý phải dành nhiều
thời gian và công sức cho công tác quản lý hoạt động dạy học nhằm ngày càng
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
xã hội.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo
Trong suốt quá trình lãnh đạo của mình, Đảng ta luôn khẳng định: “Giáo
dục - Đào tạo là Quốc sách hàng đầu”. Giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo với những quan điểm chỉ đạo sau:
5


- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi

trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo
dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người
học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành;
lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang
chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại
hóa giáo dục và đào tạo.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các
vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các
đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển
đất nước.
2. Cơ sở thực tiễn
Đất nước ta đang ở thế kỷ XXI, thế kỷ của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là định hướng chiến lược cho đất nước bước vào thế kỷ mới. Đây là

một định hướng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu bức xúc của thời đại đổi mới, một
thời đại mà trí tuệ con người được xem là tài sản quý báu để tạo nên mặt bằng cao
về dân trí. Trong đó, giáo dục đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến
lược phát triển quốc gia.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đa số giáo viên đã lĩnh hội tương
đối đầy đủ tinh thần của cuộc cải cách này và đã triển khai đổi mới phương pháp
6


dạy học theo hướng lấy học sinh là trung tâm. Tuy nhiên, một bộ phận giáo viên ở
những vùng khó khăn như các tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên
giới còn bất cập về trình độ chuyên môn. Vì thế, chất lượng dạy và học ở các
trường tiểu học nói chung thường là thấp hơn so với các trường cùng cấp ở vùng
thị trấn, thị xã, miền xuôi. Và trường Tiểu học xã Chiềng Sại cũng là ngôi trường
còn tồn tại những bất cập đó.
Bậc Tiểu học là nền tảng của sự nghiệp giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt,
giúp học sinh bắt đầu lĩnh hội tri thức và các tinh hoa văn hóa của dân tộc, những
kinh nghiệm của thế hệ đi trước tích lũy được, để các em có đủ điều kiện phát
triển hơn về đức, trí, thể, mỹ và cùng nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
trong thời gian học dưới mái trường Tiểu học.
Công tác dạy và học của các nhà trường được coi là nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác giáo dục của nhà trường. Là cán bộ quản lý của nhà trường cần làm
tốt công tác quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên nhà trường để
họ có chất lượng dạy cao hơn, đạt kết quả tốt hơn.
Nhiệm vụ của Giáo dục - Đào tạo là tham gia phát triển con người phát
triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. Đó cũng là phương châm trong quá
trình giảng dạy của các nhà trường. Vì vậy, yêu cầu với các nhà quản lý giáo dục
càng phải thận trọng trong quá trình quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.
Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Bắc Yên luôn

thực hiện tốt các văn bản quy định, hướng dẫn của ngành, của Sở. Công tác quản
lý hoạt động dạy học của các trường trên địa bàn huyện nói chung và đối với khối
trường tiểu học nói riêng đã đạt được những kết quả đáng kể như: nề nếp chuyên
môn được chấp hành nghiêm túc, tỷ lệ học sinh năng khiếu tăng lên qua các năm
học, tỷ lệ giáo viên dạy giỏi cấp huyện, tỉnh cũng tăng lên về số lượng và chất
lượng, cơ sở vật chất ngày một đầu tư tốt hơn … Bên cạnh đó vẫn còn có một số
hạn chế nhất định như: Chất lượng giáo dục của toàn huyện vẫn còn thấp so với
các huyện khác trong tỉnh, chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên
chưa đồng đều giữa các trường, cơ sở vật chất đầu tư chưa đồng bộ, …
Thực tế trường Tiểu học xã Chiềng Sại là ngôi trường vùng III của huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La còn rất nhiều hạn chế về chuyên môn như: Chất lượng giáo
dục của nhà trường thấp, Học sinh có năng khiếu học tập các môn học còn ít, tỉ lệ
học sinh đạt giải trong các kỳ thi giao lưu từ cấp huyện trở lên còn chiếm tỉ lệ
thấp; Chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên: năng lực chuyên môn và chất lượng
các giờ lên lớp không đồng đều, việc phát huy trí tuệ tập thể còn hạn chế; phương
pháp dạy học nhìn chung chậm được cải tiến theo xu hướng hiện đại; Cán bộ quản
lý nhà trường còn hạn chế về kinh nghiệm quản lý; Cơ sở vật chất chưa đáp ứng
được nhu cầu học tập và sinh hoạt của cán bộ, giáo viên và học sinh. Chưa có đủ
đồ dùng, trang thiết bị dạy học; Kinh phí hoạt động của trường còn hạn hẹp nên
gặp không ít khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động nghiệp vụ thường xuyên,
tham quan học tập, cho giáo viên đi học nâng cao trình độ, tăng cường cơ sở vật
chất và thiết bị dạy học...
7


Trước thực tế đó, là một người trực tiếp quản lý công tác chuyên môn của
nhà trường, bản thân tôi luôn trăn trở suy nghĩ phải làm gì? Và làm như thế nào để
nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường. Với nhận thức và lý do trên, tôi đã
chọn vấn đề "Đổi mới phương pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học ở
trường tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu.

II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ
CHIỀNG SẠI, HUYỆN BẮC YÊN
1. Đặc điểm tình hình
1.1. Khái quát về địa phương
Xã Chiềng Sại nằm ven bờ của lòng hồ sông Đà, cách trung tâm huyện Bắc
Yên khoảng 50 km, phía bắc giáp xã Đá Đỏ huyện Phù Yên, xã Song Pe huyện
Bắc Yên, phía nam giáp xã Mường Lựm huyện Yên Châu, phía đông giáp xã Tân
Hợp, Tân Lập huyện Mộc Châu, phía tây giáp xã Phiêng Côn và xã Tạ Khoa
huyện Bắc Yên.
Số hộ nghèo của toàn xã là 164 hộ chiếm 20,9% đời sống thu nhập của
người dân hầu hết chỉ dựa vào cây nông nghiệp ngắn ngày và chăn nuôi gia súc,
gia cầm, giao thông đi lại giữa các bản còn rất nhiều khó khăn. Kinh tế xã hội đã
có sự chuyển biến nhưng còn chậm.
Một số bản vùng cao kinh tế chưa ổn định, nhận thức về công tác phát triển
giáo dục còn hạn chế, sự quan tâm chăm lo cho con em trong học tập chưa tốt.
Phong tục tập quán của một số hộ dân còn nhiều lạc hậu, học sinh dân tộc
thiểu số chưa có ý thức tự giác trong học tập hay nghỉ, bỏ học. Nên ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng dạy và học.
1.2. Tình hình nhà trường
Trường tiểu học xã Chiềng Sại có 9 điểm trường, đặt tại 8 bản và 1 nhóm
bản. Điểm trường chính được xây dựng tại bản Nà Dòn, trung tâm xã Chiềng Sại.
Với tổng số 38 người làm việc trong Nhà trường, trong đó: Ban giám hiệu:
03; Giáo viên đứng lớp: 33; Nhân viên: 02. Trình độ đào tạo: Đại học: 8; Cao
đẳng: 14; Trung cấp: 11.
Tổng số lớp: 28 lớp. Trong đó: Lớp đơn: 24 lớp; Lớp ghép hai nhóm trình
độ: 04 lớp. Tổng số học sinh: 428 em.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Nhà trường luôn nhận được sự quan
tâm sát sao của Thường trực huyện uỷ, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân
huyện, xã và đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo nên
cơ sở hạ tầng của trường đang dần được đầu tư xây dựng đảm bảo cho hoạt động

dạy - học. Cơ cấu tổ chức, lực lượng cán bộ, giáo viên tương đối đầy đủ, đội ngũ
giáo viên trẻ, có sức khoẻ, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định
mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực hiện tốt chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
8


Bên cạnh đó, là trường nằm trên xã vùng III cơ sở vật chất phục vụ cho việc
dạy và học còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, khuôn viên nhà trường, sân chơi
bãi tập thiếu và không đảm bảo; 100% học sinh nhà trường là người dân tộc thiểu
số, còn nhiều bất cập trong học tập cũng như sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử; một số
giáo viên năng lực chuyên môn còn hạn chế, ý thức tự học, tự bồi dưỡng chưa
cao, chất lượng chuyên môn còn hạn chế. Giao thông đi lại giữa các bản còn gặp
nhiều khó khăn.
Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhà trường, do vậy vấn đề
đặt ra cho người quản lý là phải suy nghĩ, tìm ra bài toán trên đạt hiệu quả cho nên
Ban giám hiệu phải luôn đổi mới công tác quản lý dạy học hơn nữa, công tác
kiểm tra, giám sát của Ban giám hiệu phải thường xuyên để điều chỉnh cho phù
hợp với yêu cầu, mục tiêu của nhà trường.
2. Thực trạng hoạt động quản lý tại trường Tiểu học xã Chiềng Sại,
huyện Bắc Yên
2.1. Khái quát về động quản lý tại trường Tiểu học xã Chiềng Sại, huyện
Bắc Yên
a) Về quản lý đội ngũ giáo viên và hoạt động dạy học của giáo viên
* Về quản lý đội ngũ giáo viên
Nhằm làm rõ thực trạng hoạt động dạy của giáo viên, trước hết tôi điều
tra và khảo sát tình hình đội ngũ giáo viên của nhà trường trong 3 năm vừa qua,
theo bảng thống kê dưới đây:
Bảng 2.1. Tình hình đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên
trường tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên


Năm học

Trình độ chuyên môn
Tổng số
CB, GV, Trung cấp Trung cấp
Cao
NV
9+3
12+2
đẳng

Đại
học

Tổng
số
lớp

2015 - 2016

37

4

22

5

6


26

2016 - 2017

37

4

21

4

8

26

2017 - 2018

38

2

23

4

8

28


Qua bảng 1 cho thấy, trong những năm gần đây số giáo viên nhận thức
được vai trò và tầm quan trọng của việc nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn, tự
học, tự bồi dưỡng ngày càng tăng, số giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn năm
sau đều cao hơn năm trước. Tính đến năm học 2017-2018, số giáo viên có trình
độ trung cấp 9+3 còn 2 giáo viên, đây là đội ngũ các thầy cô giáo đã có thâm
niên công tác cao, việc hoàn thiện chương trình nâng cao là rất khó, điều này
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân công giảng dạy của các nhà trường. Số
9


giáo viên sau khi học nâng cao trình độ có xu hướng chuyển về trường thuận
lợi còn nhiều, từ năm học 2015-2016 đến năm học 2017-2018 số giáo viên này
chuyển đi là 4 giáo viên, điều này cho thấy một bộ phận các thầy cô chưa thực
sự yên tâm công tác, cống hiến tại trường, điều này có ảnh hưởng nhất định đến
chất lượng giáo dục của nhà trường.
Bảng 2.2. Cơ cấu độ tuổi và thâm niên giảng dạy của giáo viên
trường Tiểu học xã Chiềng Sại năm 2017 - 2018
Cơ cấu độ tuổi
<= 30

30-40

41-50

Thâm niên công tác
51-60

<= 5
năm


6-10
năm

11-15
năm

16-20
năm

>=20
năm

SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
1

3

27 71

7

18

3

8

4


11

2

5

22 58

3

8

6

16

Nhận xét: Qua kết quả điều tra bảng 2 cho thấy, độ tuổi và thâm niên
giảng dạy là đại lượng tỉ lệ thuận, có thể chia ra về cơ cấu độ tuổi theo hai
nhóm chính:
+ Nhóm giáo viên có tuổi nghề cao, thâm niên công tác nhiều năm (Giáo
viên 41-60 tuổi chiếm 26%). Nhóm này có mặt mạnh là có nhiều kinh nghiệm
giảng dạy, có phương pháp giảng dạy được tích lũy nhiều năm. Tuy nhiên chưa
được đào tạo cao về trình độ sư phạm, ít tiếp cận được công nghệ thông tin, đổi
mới phương pháp dạy học chậm, thích nghi chậm yêu cầu về đổi mới phương
pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận giáo viên có tuổi nghề cao,
sắp nghỉ hưu, sức khỏe hạn chế, không tiếp cận được các hoạt động tập thể,
chuyên đề.
+ Nhóm giáo viên trẻ, có tuổi nghề dưới 10 năm (chiếm 16%), tuy được
đào tạo bài bản, có trình độ cao, hiểu biết về ngoại ngữ, tin học, thích nghi
nhanh với điều kiện dạy học mới. Song kinh nghiệm dạy học còn ít, nhóm này

còn ở dạng tiềm năng.
* Về quản lý hoạt động dạy học
Từ các năm học trước, việc phân công chuyên môn đầu năm học của Ban
giám hiệu nhà trường đã quan tâm đặc biệt tới năng lực chuyên môn trong công
tác giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi, … của giáo viên và ưu tiên những giáo
viên có năng lực chuyên môn vững, có khả năng hoàn thành tốt công việc được
giao, phân công giảng dạy các lớp mũi nhọn. Tuy nhiên, việc phân công giảng
dạy còn được dựa trên những căn cứ: Trình độ đào tạo, đặc điểm mỗi lớp, thâm
niên giảng dạy và nguyện vọng cá nhân giáo viên và giáo viên chủ nhiệm lớp;
Phân công giảng dạy theo nguyện vọng của học sinh, thâm niên công tác chưa
10


được thực sự quan tâm, điều đó chứng tỏ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm của giáo viên trong trường chưa thực sự đồng đều, có những giáo viên
chưa đáp ứng được nhiệm vụ dạy học trong giai đoạn hiện nay.
Phần lớn nhà trường đều tạo điều kiện phân công giáo viên được dạy từ
lớp 1 đến lớp 5. Tuy nhiên cá biệt còn các trường hợp có năng lực hạn chế, tuổi
cao không thể dạy các khối lớp cuối cấp do không đáp ứng được khối lượng
kiến thức các lớp trên.
Việc phân công giảng dạy của Ban giám hiệu căn cứ vào sự đề xuất,
tham mưu của các tổ trưởng chuyên môn, có khi tham khảo ý kiến giáo viên
chủ nhiệm và những kiến nghị của cha mẹ học sinh. Việc sử dụng cán bộ giáo
viên theo năng lực, trình độ đào tạo được kết hợp với điều kiện, hoàn cảnh và
nguyện vọng của cá nhân vừa phát huy được năng lực chuyên môn, vừa tạo
điều kiện để giáo viên yên tâm, hết lòng phục vụ nhà trường, cống hiến cả tài
và tâm cho học sinh. Nhìn chung đa số giáo viên đánh giá việc phân công của
Ban giám hiệu nhà trường là khá phù hợp và có tính hiệu quả. Song vẫn có
những trường hợp bị bất cập: Một số giáo viên còn trẻ tuổi vừa ra trường được
phân công chủ nhiệm các lớp chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí gây khó

khăn nhất định cho công tác chuyên môn của nhà trường. Có những giáo viên
có trình độ chuyên môn hạn chế, chưa đảm bảo được việc giảng dạy theo đổi
mới phương pháp, điều đó khiến nhiều phụ huynh học sinh kiến nghị với lãnh
đạo nhà trường xin thay giáo viên khác. Trong khi đó có nhiều giáo viên có khả
năng hơn, được đánh giá thông qua chất lượng dạy học, sự tiến bộ của học sinh
hàng năm, nhưng chưa được Ban giám hiệu nhìn nhận, động viên đúng mức.
Đây chính là một hạn chế trong việc sử dụng, bố trí đội ngũ giáo viên nhà
trường.
* Về việc sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
Việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên của nhà trường nhằm nâng
cao trình độ cho đội ngũ giáo viên đã hết sức được coi trọng. Hàng năm Ban
giám hiệu đã tạo điều kiện cho giáo viên nhà trường đi học nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, thông qua các lớp đại học vừa học vừa làm tổ chức vào
các dịp hè.
Kết quả qua trao đổi với giáo viên trong nhà trường, việc bồi dưỡng
phương pháp giảng dạy và năng lực sư phạm cho giáo viên là rất quan trọng.
Bởi lẽ đối với các thầy cô giáo đang công tác ở vùng đặc biệt khó khăn, việc
tiếp cận thông tin đại chúng, báo chí, mạng internet là rất hạn chế. Các trang bị
kỹ thuật hiện đại, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy còn rất
thiếu thốn. Vì vậy, việc mai một kiến thức qua các năm là điều khó tránh khỏi
khi công tác tại vùng đặc biệt khó khăn, nếu không thường xuyên được bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức. Hiện nay ở trường tiểu học xã Chiềng Sại, Bắc Yên
bộ phận các thầy cô giáo viên có độ tuổi cao còn chiếm tỷ lệ cao, chủ yếu
giảng dạy theo phương pháp cũ: Đọc chép, chậm cải tiến phương pháp giảng
dạy, có tâm lý “ngại thay đổi”, chưa bắt kịp với yêu cầu giáo dục và sự phát
11


triển của giới trẻ hiện nay. Đặc biệt là với việc áp dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy học, đối với các thầy cô đã có tuổi cao là hết sức khó khăn.

Điều này gây những khó khăn không nhỏ trong quá trình quản lý hoạt động dạy
học theo tinh thần đổi mới phương pháp hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Một bộ phận nhỏ giáo viên trẻ vừa được tuyển vào trường tuy kiến thức
được đào tạo khá cơ bản, mức độ nắm bắt công nghệ dạy học mới khá nhanh,
song kinh nghiệm giảng dạy còn ít, hoặc một số giáo viên còn chưa yên tâm
công tác, được tuyển vào biên chế chỉ một vài năm lại chuyển về vùng thuận
lợi, nên hiệu quả giảng dạy còn chưa cao.
Tổng số giáo viên trong biên chế hiện nay ở trường Tiểu học xã Chiềng
Sại chưa thực sự ổn định, do vậy việc cử giáo viên đi học các lớp nâng cao
trình độ, đào tạo đại học..vv, giáo viên vừa đi học vừa tham gia giảng dạy nên
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy và việc bố trí thời
khóa biểu trong các nhà trường.
Trình độ, năng lực, sự tâm huyết nghề nghiệp của giáo viên quyết định
lớn đến chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường, đối với giáo viên tiểu
học thì những yêu cầu đó cần đòi hỏi cao hơn. Có nhiều hình thức bồi dưỡng
giáo viên: Qua đào tạo dài hạn (đào tạo đại học, cao học), ngắn hạn (bồi dưỡng
theo chuyên đề); cũng có thể thông qua các hội thảo về đổi mới phương pháp
dạy học, dự giờ rút kinh nghiệm, thông qua bản thân mỗi giáo viên tự học, tự
bồi dưỡng nâng cao trình độ..vv. Những biện pháp này thực tế đã được tổ chức
ở trường Tiểu học Chiềng Sại, song còn ít và hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân
chủ yếu vẫn là do sự quan tâm chỉ đạo của đội ngũ cán bộ quản lý chưa thực sự
sát sao, chưa đồng bộ, nhiều khi còn nặng về hình thức, thậm chí chỉ vì nhiệm
vụ, không mang tính chủ động, không có kế hoạch chiến lược dài hạn.
Đối với công tác bồi dưỡng giáo viên, nhà trường đã động viên, khích lệ
phong trào tự học, tự bồi dưỡng. Có chính sách ưu tiên cho những giáo viên có
tinh thần tự học tự bồi dưỡng cao. Như: Hỗ trợ kinh phí đi học, tạo điều kiện
về thời gian, động viên tinh thần, có chính sách động viên kịp thời, giao công
việc tốt hơn khi hoàn thành việc học tập. Bên cạnh đó một số giáo viên có sức ì
lớn, không tích cực và chưa có thái độ học tập tích cực nâng cao trình độ, kiến
thức ngày càng mai một. Do việc kiểm tra, đánh giá kết quả hàng năm đối với

giáo viên chưa thường xuyên nên việc tự học, tự bồi dưỡng trong đội ngũ giáo
viên chưa cao.
* Về quản lý việc lập kế hoạch giảng dạy của giáo viên
Chương trình giảng dạy tiểu học là văn bản pháp quy có tính thống nhất
trên cả nước do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Chương trình giảng dạy quy
định rõ vị trí, mục tiêu, phạm vi và nội dung từng môn học, quy định số tiết
tương ứng cho từng môn học, cụ thể cho từng bài, từng tiết học. Kế hoạch dạy
học là sự cụ thể hóa chương trình dạy học, quy định về trình tự nội dung môn
học, cụ thể tới từng chương và kế hoạch thực hiện từng nội dung đó. Đây là
căn cứ để giáo viên tiến hành tổ chức hoạt động dạy học.
12


Kế hoạch dạy học quy định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
giảng dạy, thời lượng dạy học từng môn. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với giáo
viên tiểu học, là một trong những hồ sơ chuyên môn của giáo viên trong từng
năm học. Giáo viên dựa vào chương trình dạy học, kế hoạch dạy học để thực
thi hoạt động dạy học. Vì vậy, muốn đảm bảo được tiến độ thực hiện chương
trình có hiệu quả, trước hết cần quản lý tốt việc lập kế hoạch của giáo viên.
Việc lập kế hoạch dạy học ngay từ đầu năm học, thông qua kế hoạch, cán bộ
quản lý nhà trường ký duyệt kế hoạch đây là một khâu rất quan trọng không thể
coi nhẹ. Sau khi kế hoạch được phê duyệt các khối trưởng chuyên môn giám
sát việc thực thi kế hoạch, kiểm tra mức độ hoàn thành, kết quả, từ đó có những
biện pháp bổ sung điều chỉnh kịp thời cho năm học sau.
Cán bộ quản lý, giáo viên nhà trường đều thống nhất cao, cho rằng việc
quy định cụ thể về thực hiện kế hoạch, chương trình giảng dạy, tổ chuyên môn
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình giảng dạy của
giáo viên là hết sức cần thiết. Các tổ chuyên môn chi tiết hóa chương trình,
giáo viên lập kế hoạch cụ thể giảng dạy cho từng khối lớp được phân công.
Chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể cho từng môn học, chi tiết

tới từng bài dạy, yêu cầu các Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo giáo viên
thực hiện nghiêm túc, không được cắt xén, dồn ép chương trình hoặc dạy sai
lệch chương trình quy định. Căn cứ vào phân phối chương trình Ban giám hiệu
nhà trường đôn đốc, theo dõi, giám sát việc thực hiện chương trình của giáo
viên ở các khối chuyên môn. Dựa vào phân phối chương trình của Bộ, các tổ
khối chuyên môn lập kế hoạch giảng dạy, báo cáo kết quả thực hiện hàng
tháng, từng học kỳ và cả năm học.
Phần lớn việc theo dõi thực hiện kế hoạch của giáo viên thông qua hồ sơ
kế hoạch đã được duyệt của giáo viên, hoặc thông qua kiểm tra sổ báo giảng
hang tuần, hàng tháng, quý.
Trong các buổi giao ban đầu tuần, sinh hoạt chuyên môn theo tổ khối,
Ban giám hiệu nhà trường đều có báo cáo phản hồi từ các tổ khối về tiến độ
thực hiện chương trình, điều chỉnh kịp thời, bố trí dạy bù các tiết chưa hoàn
thành chương trình do nhiều lý do khác nhau.
Để quản lý tốt việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của
giáo viên, nhất thiết Ban giám hiệu nhà trường đã sự quan tâm thích đáng kết
hợp sử dụng nhiều biện pháp phù hợp, sử dụng nhiều kênh thông tin để có
thông tin phản hồi chính xác, từ đó có sự điều chỉnh kịp thời. Quá đó đã khắc
phục được tình trạng giáo viên thực hiện theo đúng kế hoạch dạy học đã đề ra,
chất lượng dạy học từng bước được nâng cao.
* Về quản lý bài soạn của giáo viên
Trường Tiểu học Chiềng Sại rất chú trọng đến công tác soạn bài của
giáo viên và đã có nhiều biện pháp quản lý việc soạn bài của giáo viên trước
khi lên lớp.
13


Cán bộ quản lý và giáo viên đều cho rằng nên có quy định cụ thể, thống
nhất mẫu giáo án trong toàn huyện, điều này là một thuận lợi lớn cho cán bộ
quản lý trong công tác kiểm tra hồ sơ của giáo viên trong trường tiểu học

Chiềng Sại nói riêng và trong các trường tiểu học nói chung. Việc kiểm tra giáo
án từng tuần, tổ khối trưởng ký duyệt, kiểm tra đột xuất bài soạn của giáo viên
cũng được Ban giám hiệu, giáo viên cho rằng rất cần thiết để quản lý bài soạn
của giáo viên trước khi lên lớp. Việc tổ khối chuyên môn tổ chức kiểm tra chéo
giáo án giữa các giáo viên là một biện pháp có hiệu quả cao trong quá trình
thực hiện, tuy nhiên lại không được sự nhìn nhận thích đáng của đội ngũ giáo
viên tham gia giảng dạy.
Việc thống nhất mẫu giáo án trong các trường tiểu học nói chung đang
được thực hiện tốt tại nhà trường, đây là một điều thuận lợi cho công tác quản
lý, lấy đó làm căn cứ pháp lý để đánh giá, kiểm tra hồ sơ giáo viên. Nhà trường
đã áp dụng biện pháp trong tổ khối chuyên môn tổ chức kiểm tra chéo giáo án
giữa các giáo viên hiện đang được nhà trường thực hiện, biện pháp này có ưu
điểm tốn ít thời gian cho người quản lý, các giáo viên cùng bộ môn khi kiểm
tra chéo sẽ phát hiện được lỗi trong các giáo án và yêu cầu sửa kịp thời, đây là
một trong những điểm mạnh trong việc quản lý nề nếp soạn bài của giáo viên.
Thực tế tại trường Tiểu học Chiềng Sại, cán bộ quản lý, giáo viên nhận
thức rõ tầm quan trọng của việc soạn bài trước khi lên lớp; quy định rõ ràng về
ngày soạn, ngày giảng, các bước soạn giáo án, phương tiện, đồ dùng sử dụng
trong tiết dạy đó phải được thể hiện rõ trong bài soạn. Ban giám hiệu nhà
trường thường xuyên quán triệt các giáo viên bắt buộc phải có bài soạn trước
khi lên lớp, tránh tình trạng “dạy chay”. Các tổ khối chuyên môn thống nhất
cách soạn cho từng tiết học, hướng dẫn giáo viên mới nhận công tác các soạn
bài theo mẫu quy định.
Giáo án là bản thiết kế cơ bản cho bài dạy. Trong đó thể hiện đầy đủ các
bước lên lớp: Tổ chức lớp, kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh, bài mới, củng
cố, hướng dẫn học ở nhà và chuẩn bị bài tiếp theo. Nội dung bài giảng được
trình bày đảm bảo tính khoa học, chính xác về kiến thức, phân phối thời gian
hợp lý cho từng phần. Đặc biệt giáo án phải thể hiện rõ phương pháp dạy học,
đồ dùng dạy học sử dụng trong tiết dạy và được tổ trưởng chuyên môn ký
duyệt (theo từng tuần).

Các quy định trên được giáo viên thực hiện hàng ngày lên lớp. Ban giám
hiệu thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở. Mỗi tháng một lần các tổ chuyên môn
cho kiểm tra chéo giáo án giữa các giáo viên trong từng tổ bộ môn, nhắc nhở
bổ sung những thiếu sót, khuyết điểm. Bên cạnh đó Ban giám hiệu thường
xuyên kiểm tra đột xuất giáo án của giáo viên trước giờ lên lớp hoặc trong khi
giáo viên đang lên lớp. Phòng Giáo dục và Đào tạo kiểm tra toàn diện, đột
xuất. Những biện pháp trên đã có tác dụng tốt, nhắc nhở để giáo viên các
trường hoàn thành tốt nhiệm vụ hơn.
* Việc quản lý giờ dạy trên lớp của giáo viên
14


Quản lý giờ lên lớp của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt. Nó tác
động trực tiếp đến kết quả giảng dạy, học tập của thầy và trò, đến chất lượng
giáo dục của nhà trường. Chất lượng hiệu quả giáo dục, công tác giảng dạy
được thể hiện ở giờ lên lớp của giáo viên, vì vậy người quản lý nhà trường phải
có biện pháp quản lý phối hợp để đảm bảo nguyên tắc chất lượng và hiệu quả.
Nề nếp, quy chế chuyên môn đang được nhà trường thực hiện đảm bảo,
điều này tạo thành thói quen cho giáo viên khi đến trường, thực hiện tốt giờ ra
vào lớp, soạn bài đầy đủ trước khi đến lớp, thực hiện bài giảng trên lớp nghiêm
túc, đúng thời gian tiết học quy định, các giáo viên đều nắm chắc quy định
chuyên môn, từ đó luôn có đầy đủ hồ sơ chuyên môn quy định.
Việc kiểm tra đột xuất giờ dạy trên lớp của Ban giám hiệu chưa được
quan tâm đúng mức, điều này khiến một số giáo viên vi phạm lên lớp không có
giáo án, soạn một đằng dạy một nẻo nhưng Ban giám hiệu nhà trường không
biết, hoặc có biết khi sự việc đã xong.
Thực tế tại trường tiểu học Chiềng Sại, lãnh đạo nhà trường chủ động đề
ra được một số biện pháp quản lý giờ lên lớp của giáo viên như sau:
- Tổ chức cho giáo viên học tập quy chế, quy định chuyên môn: Hiệu
lệnh trống ra vào lớp, giờ vào lớp, tổ chức ổn định học sinh, thực hiện đầy đủ

thời gian một tiết học. Thông qua việc kiểm tra sổ báo giảng, báo cáo của trực
tuần, kiểm tra đột xuất giờ dạy trên lớp… Ban giám hiệu thường xuyên đánh
giá mức độ thực hiện của giáo viên về thực hiện nề nếp, quy chế chuyên môn.
- Tổ chức cho giáo viên học tập quy chế, tiêu chuẩn đánh giá xếp loại
học sinh.
- Giáo viên trước khi lên lớp phải thông báo tiết dạy qua sổ báo giảng
vào đầu tuần và niêm yết tại văn phòng nhà trường. Ngược lại bài dạy trên lớp
của giáo viên phải thống nhất với báo giảng, kế hoạch dạy học đã được duyệt,
tuân thủ theo tiết dạy trong phân phối chương trình.
- Căn cứ vào số giáo viên được phân bổ, Ban giám hiệu nhà trường phân
công giáo viên, lên thời khóa biểu cho từng môn, từng lớp học; thời khóa biểu
nhà trường phải đủ thời lượng chương trình quy định, đảm bảo tính khoa học:
Quan tâm đến tính đặc thù của bộ môn (không xếp các tiết thể dục vào tiết
5…), hài hòa giữa các môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên để học sinh
đỡ nhàm chán, mệt mỏi, học sinh có sự hài hòa trong nhận thức mỗi buổi học,
ưu tiên đến hoàn cảnh của mỗi giáo viên…vv.
- Xây dựng nề nếp học tập, dạy học. Quy định cụ thể các loại hồ sơ
chuyên môn phù hợp với toàn huyện, hồ sơ chuyên môn là căn cứ để đánh giá
và quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên.
Nội dung quản lý giờ lên lớp của giáo viên:
+ Về nội dung giảng dạy: Được thể hiện trong các chương trình môn học
do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Ngoài ra Ban giám hiệu còn yêu cầu tổ
15


chuyên môn quy định cho giáo viên phải thường xuyên cập nhật những quy
định mới của ngành như các nội dung tích hợp, điều chỉnh, thường xuyên tự bổ
sung kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn.
+ Về phương pháp giảng dạy: Là khâu quan trọng, cốt yếu để quyết định
chất lượng giờ dạy. Bởi vậy, đây là khâu then chốt của vấn đề chuyên môn trong

nhà trường. Điều này phải thường xuyên được Ban giám hiệu quán triệt và được
đưa ra thảo luận trong các buổi sinh hoạt chuyên môn giữa các tổ: Các bài dạy
khó, các nội dung khó cần sử dụng phương pháp nào cho phù hợp để học sinh dễ
tiếp thu. Tích cực vận dụng, kết hợp tốt các phương pháp mới. Nhằm tạo điều
kiện cho giáo viên thực hiện được yêu cầu giảng dạy tốt nhất. Nhà trường đã
thực hiện một số giải pháp tích cực:
- Thường xuyên mua sắm bổ sung tài liệu giảng dạy cho giáo viên và các
tài liệu về nghiệp vụ quản lý.
- Mua sắm các đồ thí nghiệm, trang thiết bị máy móc (máy tính, máy
chiếu, biểu đồ, tranh ảnh, đài cassetter…) phục vụ cho việc đổi mới phương
pháp dạy học.
- Hàng năm đều động viên, khuyến khích giáo viên tham gia thi làm đồ
dùng dạy học, bổ sung vào thư viện đồ dùng dạy học.
- Phát động các giáo viên đăng ký thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm
chung.
* Về quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi mới chương trình dạy học,
phương pháp dạy học thì yêu cầu về đổi mới khâu kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh được coi là khâu rất quan trong trong quá trình giáo dục.
Cách thức, chất lượng kiểm tra đánh giá chi phối rất lớn đến hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người học có nhu cầu được đánh giá
kết quả học tập một cách chính xác đồng thời giáo viên có những thông tin
phản hồi để có sự điều chỉnh phù hợp nhằm đạt mục đích là hoàn thành mục
tiêu giáo dục.
Trong những năm gần đây, công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của người học ở các trường tiểu học nói chung và trường Tiểu học Chiềng Sại,
Bắc Yên nói riêng ngày càng được chú trọng và có chất lượng ngày càng cao.
Đặc biệt khi Phòng Giáo dục và Đào tạo thường xuyên kiểm tra trắc nghiệm
học sinh trong các đợt kiểm tra chuyên môn định kỳ và đột xuất.
Đa số cán bộ quản lý, giáo viên đều đồng tình với các biện pháp quản lý

việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Hàng năm nhà trường đều
tổ chức cho giáo viên học tập quy chế, hướng dẫn đánh giá xếp loại học sinh
vào đầu mỗi năm học, điều này khiến các giáo viên trong nhà trường đều nắm
chắc quy chế đánh giá xếp loại học sinh, đặc biệt là những giáo viên mới vào
ngành tránh được nhiều sai sót không đáng có. Việc xây dựng những quy định
16


cụ thể về việc tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng
được Ban giám hiệu, giáo viên đánh giá rất cao.
Tuy nhiên để theo dõi việc chấm điểm, chữa, trả bài cho học sinh ở nhà
trường chưa được quan tâm đúng mức, điều này khiến nhiều giáo viên chưa
thực hiện nghiêm túc, bài kiểm tra của học sinh không trả đúng lịch, chấm
điểm không chính xác, theo cảm tính, hoặc chỉ cho điểm mà không nhận xét,
chữa những sai sót thường mắc phải của học sinh.
Về cơ bản, việc kiểm tra đánh giá kết quả học sinh tại trường Tiểu học
Chiềng Sại, Bắc Yên đã phản ánh tương đối khách quan, năng lực nhận thức
của người học, sự chuyên cần và trình độ đạt được của học sinh. Các khối
chuyên môn tổ chức ra đề kiểm tra định kỳ theo quy định trong phân phối
chương trình. Hàng tuần, Bann giám hiệu nhà trường kiểm tra tiến độ đánh giá
học sinh của giáo viên thông qua kiểm tra các vở ghi chép, vở bài tập, chính tả,
… của học sinh. Qua đó nắm được tinh thần trách nhiệm của các thành viên
trong hội đồng sư phạm nhà trường.
b) Về quản lý hoạt động học của học sinh
Quản lý tốt nề nếp học tập chuyên cần của học sinh ở trường sẽ làm cho
các em có thói quen thực hiện tự giác việc học tập và rèn luyện theo các chuẩn
đề ra đối với người học sinh. Việc xây dựng cho học sinh có ý thức học tập,
thái độ học tập tốt sẽ giúp các em có ý thức tự giác, tự học tốt hơn ở trường
cũng như khi học ở gia đình
Việc tăng cường ngoại khóa cho học sinh theo môn học, sử dụng tốt sự

hỗ trợ của quỹ khuyến học, các nguồn lực cho hoạt động học tập của học sinh
đã được Nhà trường quan tâm. Trong những năm qua mặc dù đã được trang bị
những thiết bị, công nghệ phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập, song
nhìn chung còn rất hạn chế do kinh phí đầu tư cho giáo dục của huyện Bắc Yên
còn nhiều hạn chế. Các tổ chức như hội khuyến học, hội cha mẹ học sinh, các
tổ chức có nguồn lực, kinh phí hỗ trợ cho công tác động viên khen thưởng,
động viên học sinh còn chưa thực sự có tác dụng lớn, chưa đóng một vai trò
chung sức với sự nghiệp giáo dục.
Để tăng cường công tác quản lý học sinh, nhà trường đã áp dụng nhiều
biện pháp như: Xây dựng nội quy học tập; Quản lý chặt chẽ nề nếp học chuyên
cần của học sinh; Giáo viên tăng cường hướng dẫn học sinh phương pháp tự
học, cách học, đọc và làm thêm bài tập nâng cao; Hiệu trưởng nhà trường xây
dựng kế hoạch hoạt động học tập của học sinh…. Các biện pháp trên được đội
ngũ giáo viên trong nhà trường thực hiện tương đối tốt, phụ huynh học sinh
đánh giá cao, tác động tích cực đến kết quả học tập của học sinh, cụ thể:
Bảng 2.3. Bảng đánh giá kết quả học tập, ý thức đạo đức của học sinh
từ năm 2015 đến nay
Năm
học

Tổng
số

Kiến thức, kĩ năng
Hoàn thành Chưa hoàn

Năng lực
Đạt trở lên
Chưa đạt


17

Phẩm chất
Đạt trở lên
Chưa đạt


học
sinh

trở lên
T.s
Tỉ lệ

%

thành
Tỉ lệ
T.số
%

T.số

Tỉ lệ
%

T.số

Tỉ lệ
%


T.số

Tỉ lệ
%

T.số

Tỉ lệ
%

20152016

388

355

91,5

33

8,5

355

91,5

33

8,5


355

91,5

33

8,5

20162017

407

403

94,3

23

5,6

403

94,3

23

5,6

403


94,3

23

5,6

20172018

428

424

99,1

4

0,9

424

99,1

4

0,9

424

99,1


4

0,9

c) Về điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động dạy học
Cơ sở vật chất nhà trường là một phần không thể thiếu, điều kiện tiên
quyết, cơ bản để nhà trường tồn tại và hoạt động, đặc biệt là trong giai đoạn đổi
mới chương trình và phương pháp dạy học thì yêu cầu về trang bị phương tiện
dạy học hiện đại đáp ứng được công tác dạy học là một yếu tố quyết định tới
chất lượng dạy học.
* Thực trạng về cơ sở vật chất trường tiểu học Chiềng Sại, Bắc Yên
(tính đến tháng 3 năm học 2018)
- Số lớp: 28 lớp; số HS: 428. Trong đó
Số lớp 1: 9 lớp; số học sinh: 90 học sinh,
Số lớp 2: 4 lớp; số học sinh: 77 học sinh,
Số lớp 3: 7 lớp; số học sinh: 97 học sinh,
Số lớp 4: 4 lớp; số học sinh: 70 học sinh,
Số lớp 5: 4 lớp; số học sinh: 94 học sinh,
Số lớp ghép: 4; số học sinh lớp ghép: 54
- Tổng số phòng học hiện có: 34 trong đó phòng học kiên cố: 33 chiếm tỉ
lệ: 97%.
- Phòng thư viện đạt chuẩn: 0.
- Phòng đồ dùng dạy học đạt chuẩn : 7.
- Phòng học bộ môn: 0.
- Khu riêng dành cho giáo dục thể chất: 0.
- Phòng máy tính dùng để dạy tin học cho HS: 0.
Cơ sở vật chất trường tiểu học Chiềng Sại còn thiếu rất nhiều, so với yêu
cầu dạy học và tốc độ phát triển của học sinh hiện nay thì đây là một điều khó
khăn rất lớn và cần sớm được giải quyết đối với nhà trường.

18


Về phòng học: Hiện nay còn chưa đồng bộ, chủ yếu là chưa kiên cố hóa,
chưa đựợc trang bị nội thất đảm bảo cho điều kiện dạy học, bàn ghế học sinh
còn thiếu, chất lượng kém. Nhiều phòng học không đủ điều kiện về diện tích,
ánh sáng, còn có điểm trường có phòng học tạm.
Về thư viện trường học: Mặc dù trong các năm gần đây, Phòng Giáo dục
và Đào tạo đã mua sắm, cấp phát thêm nhiều đầu sách cho thư viện nhà trường,
tuy vậy số đầu sách trong còn rất nghèo nàn. Chất lượng phòng thư viện còn rất
thấp, trang thiết bị thiếu, phòng thư viện tạm bợ, thiếu diện tích, dùng chung
với phòng Ban giám hiệu.
Phòng học bộ môn: chưa có phòng học bộ môn, điều này gây nhiều
khó khăn cho công tác đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường, ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học và kết quả học tập của các em
HS.
Các trang thiết bị khác phục vụ cho hoạt động dạy và học còn rất ít, số
máy chiếu, máy tính cho giáo viên và học sinh sử dụng chung là không có.
Như vậy, cơ sở vật chất của trường tiểu học Chiềng Sại, Bắc Yên còn
thiếu rất nhiều và chưa đồng bộ, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm.
Điều này đặt ra cho trường tiểu học Chiềng Sại một vấn đề khó khăn lớn cần
sớm được giải quyết, điều đó đòi hỏi Ủy ban Nhân dân huyện, ngành giáo dục
phải có kế hoạch, lộ trình hợp lý để khắc phục tình trạng trên.
2.2. Những ưu điểm và nguyên nhân
a) Ưu điểm:
- Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà trường, là những người có chuyên
môn giỏi, có kinh nghiệm quản lý, làm việc khoa học, có tinh thần trách nhiệm
cao, biết phát huy nội lực. Lãnh đạo điều hành bằng hệ thống quy chế quản lý
chi tiết, rõ ràng. Kế hoạch quản lý giảng dạy phù hợp với thực tế nhà trường,
có những quyết định đúng đắn kịp thời, tổ chức công việc hợp lý, tương đối

khoa học.
- Ban giám hiệu đã biết quản lý toàn diện nhà trường đồng thời xác định
đúng trọng tâm công tác quản lý hoạt động dạy học.
- Đội ngũ giáo viên hàng năm được bổ sung một lực lượng trẻ, nhiệt tình
công tác, thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, hồ sơ chuyên môn của
giáo viên được quy định rõ ràng. Nhiều giáo viên giỏi, tận tâm với nghề, biết
phát huy được năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, khắc phục những tồn tại
trong điều kiện khó khăn.
- Việc quản lý chương trình dạy học được thực hiện nghiêm túc, nhà
trường có các biện pháp kiểm tra thường xuyên, không có hiện tượng dạy dồn
hay cắt xén chương trình.
- Việc dự giờ thăm lớp rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả giáo
viên qua các kỳ thao giảng, các kỳ thi giáo viên giỏi được tiến hành thường
19


xuyên có tác dụng tốt trong việc cải tiến phương pháp, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
- Hàng năm, nhà trường đều tiến hành giao chỉ tiêu cho giáo viên ngay từ
đầu năm. Giáo viên chủ động, đăng ký chất lượng để hoàn thành, từ đó có kế
hoạch dạy học để đạt chỉ tiêu đề ra. Nhà trường lấy kết quả dạy học, chất lượng
học sinh đạt được cuối năm đó làm một trong những chỉ tiêu xét thi đua khen
thưởng cuối năm.
- Nhà trường đã xây dựng hoàn thiện được việc thực hiện nề nếp, quy
chế chuyên môn, đã đưa việc xây dựng nề nếp vào phong trào thi đua dạy tốt,
học tốt, thông qua việc thực hiện nội dung chương trình dạy học, thực hiện
quản lý theo thời khóa biểu.
- Đã phát huy được vai trò của tổ khối trưởng chuyên môn trong việc xây
dựng kế hoạch của tổ và quản lý giảng dạy của giáo viên.
- Duy trì chế độ kiểm tra, thanh tra chuyên môn, kiểm tra thường xuyên

kế hoạch giảng dạy của giáo viên, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong nhà trường để thực hiện
việc kiểm tra, theo dõi, tổ chức các hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao từng
bước chất lượng giảng dạy của giáo viên.
- Đại bộ phận học sinh trong nhà trường có động cơ học tập, mục đích
học tập đúng đắn, lành mạnh. Nhiều em say mê với hoạt động học, tích cực tự
học, ngoan ngoãn, nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng lại có kết
quả học tập rất tốt làm tấm gương cho nhiều học sinh khác. Những nội dung
học tập mà học sinh quan tâm phù hợp với các yêu cầu của giáo viên giảng dạy.
Trong những năm học gần đây chất lượng học tập hai mặt trong trường đã có
những chuyển biến đáng kể, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi ngày càng
tăng, tỉ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học thường duy trì ở mức
100%. Điều này càng tạo được uy tín, tạo được niềm tin trong cán bộ, nhân dân
và các cấp chính quyền địa phương.
b) Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan
Đảng, Nhà nước ta xác định rõ phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ
hàng đầu và là khâu có tính chất đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội: Giáo dục phải đi trước một bước, giáo dục phải làm tốt được nhiệm vụ
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đối với các cấp quản lý
huyện Bắc Yên đã có sự thay đổi lớn trong tư tưởng và nhận thức, việc đầu tư
cơ sở vật chất, đội ngũ những người làm công tác giáo dục ngày càng được
quan tâm thích đáng hơn.
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bắc Yên dành sự quan tâm thích đáng,
thông qua các hoạt động chuyên môn, chỉ đạo chuyên môn, tạo điều kiện về
nguồn kinh phí, cơ sở vật chất ngày một hoàn thiện.
20


Học sinh hầu hết là có ý thức, thái độ học tập tích cực, ngoan ngoãn,

nhiều em có tinh thần vượt lên khó khăn để học tốt. Hội phụ huynh học sinh
nhà trường đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ trong các hoạt động giáo dục
của các nhà trường.
* Nguyên nhân chủ quan
Nhìn chung, Ban giám hiệu nhà trường đã có kế hoạch công tác sâu sát
trong quản lý, nhất là quản lý chuyên môn, có kế hoạch chỉ đạo chuyên môn
hợp lý, tổ chức thực hiện kế hoạch chuyên môn chặt chẽ.
Nhà trường có chi bộ vững mạnh, Ban giám hiệu đoàn kết, có năng lực,
trình độ ngày càng được nâng cao, biết phát huy nội lực của Hội đồng sư phạm
nhà trường, sức mạnh tập thể, cộng đồng trách nhiệm và có quyết tâm cao
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Hoạt động có kế hoạch chặt chẽ trên
cơ sở xây dựng tốt các quy chế quản lý trong chuyên môn. Thực hiện nghiêm
túc, đầy đủ các chế độ chính sách đối với giáo viên và học sinh.
Phần lớn đội ngũ giáo viên nhiệt tình công tác, nhiều giáo viên có năng
lực sư phạm vững, có ý chí vươn lên.
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Một bộ phận giáo viên còn trẻ, kinh nghiệm giảng dạy còn ít, còn tồn
tại một số giáo viên chưa yên tâm công tác, được tuyển vào nhưng chỉ được vài
năm sau khi được biên chế lại có xu hướng chuyển về vùng thuận lợi. Số giáo
viên có trình độ dưới chuẩn do tuổi cao khó có thể tiếp tục học nâng cao bổ
sung kiến thức còn 2 giáo viên. Việc bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho một bộ
phận giáo viên đã giảng dạy nhiều năm chưa được chú trọng đúng mức. Đặc
biệt việc bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp giảng dạy còn chưa
có hiệu quả cao.
- Công tác chỉ đạo của tổ chuyên môn trong việc đổi mới phương pháp
dạy học tích cực còn rất chậm, số giờ được sử dụng đồ dùng dạy học còn chưa
nhiều.
- Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu, số phòng học bộ môn, phòng thí
nghiệm chưa có, chất lượng phòng học không cao, thiếu diện tích sân chơi bãi

tập, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất,
các phương tiện thiết bị phục vụ học tập cho học sinh còn thiếu; nhiều thiết bị
đã xuống cấp và lạc hậu cần được bổ sung, nâng cấp sửa chữa, mua sắm mới,
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý hoạt động dạy học.
- Tình trạng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng còn tồn tại ở nhà
trường, trình độ học sinh trong một lớp học còn rất chênh lệch khiến giáo viên
giảng dạy gặp khó khăn trong công tác truyền đạt kiến thức cơ bản, vận dụng
phương pháp hợp lý cho nhiều đối tượng. Số học sinh sử dụng quỹ thời gian,
thời gian biểu chưa hợp lý còn nhiều, không ít học sinh không biết lập kế
21


hoạch học tập, phân phối thời gian hợp lý cho việc học tập ở nhà.
- Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động học tập chưa được giáo viên và
học sinh quan tâm thích đáng, công tác kiểm tra đánh giá học sinh một số nơi
còn chạy theo thành tích chưa phản ánh được đúng chất lượng thực sự.
- Thời gian nhà trường dành cho hoạt động ngoại khóa của học sinh còn
ít, việc giáo dục toàn diện cho học sinh còn chưa được xem xét quan tâm đúng
mức.
- Đa số học sinh trong trường là con em các gia đình làm nông nghiệp,
ngoài thời gian học tập còn phải giúp gia đình lao động sản xuất, vì vậy thời
gian học tập ở nhà của các em nhiều khi không đủ.
b) Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan
Là huyện nghèo của Nước ta, điều kiện còn nhiều khó khăn. Tuy đã có
những quan tâm bước đầu đến sự nghiệp giáo dục, song nhìn chung sự nghiệp
giáo dục còn gặp nhiều khó khăn: Cơ sở vật chất nhà trường, phòng học, phòng
bộ môn, phòng thí nghiệm, sân chơi bãi tập …vv còn thiếu rất nhiều.
Trong những năm gần đây Ủy ban Nhân dân huyện, Phòng Giáo dục và
Đào tạo đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ

quản lý, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Tuy nhiên, chế độ đãi
ngộ đối với cán bộ giáo viên chưa được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được
nhiều người có trình độ, năng lực cao về công tác, cống hiến cho một huyện
miền núi còn nhiều khó khăn.
Không ít bậc phụ huynh chưa quan tâm, nhận thức chưa đúng đắn về
công tác xã hội hóa giáo dục, chưa đầu tư thích đáng tới thời gian học tập của
con em họ.
* Nguyên nhân chủ quan
Đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ
quản lý, chưa được trang bị đồng bộ, đầy đủ về lý luận khoa học quản lý,
phương pháp nghiệp vụ quản lý phần lớn là dựa vào kinh nghiệm bản thân,
quản lý hành chính, pháp chế chưa theo kết quả mong muốn.
Đội ngũ giáo viên tuy có tỉ lệ tương đối đủ, song chưa thực sự mạnh,
nhiều giáo viên chưa thực sự tâm huyết khiến kết quả dạy học chưa cao. Một số
còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống nên chưa dành nhiều thời gian thích
đáng cho hoạt động chuyên môn, không tự bồi dưỡng nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ.
Việc chạy theo thành tích, hoàn thành chỉ tiêu giao nhận đầu năm khiến
một bộ phận giáo viên còn đánh giá chưa đúng kết quả học tập của học sinh.

22


III. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TẠI
TRƯỜNG TIỂU HỌC CHIỀNG SẠI, HUYỆN BẮC YÊN
1. Mục tiêu
Việc đổi mới biện pháp quản lý hoạt động dạy học tại trường tiểu học
Chiềng Sại, Bắc Yên nhằm điều chỉnh, khắc phục những tồn tại trong quá trình
quản lý hoạt động dạy học tại trường trong những năm qua và từng bước đưa hoạt

động dạy học của giáo viên và học sinh nhà trường thực hiện tốt các quy định,
quy chế chuyên môn của ngành Giáo dục và Đào tạo.
Định hướng cho Ban giám hiệu trường tiểu học Chiềng Sại, Bắc Yên có
biện pháp hữu hiệu nhất để quản lý tốt hoạt động dạy học tại đơn vị và đưa chất
lượng giáo dục của nhà trường ngày càng phát triển tốt hơn.
2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
quản lý hoạt động dạy học tại Trường Tiểu học Chiềng Sại, huyện Bắc Yên
2.1. Xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động dạy học
Việc lập kế hoạch phải căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển Giáo dục Đào tạo của Đảng, Nhà nước; căn cứ vào nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục Đào tạo, Sở Giáo dục - Đào tạo và điều kiện thực tế của nhà trường, các điều kiện
ngoại cảnh khác; đồng thời kế hoạch phải bảo đảm tính khoa học, sát với thực tế
của địa phương và mang tính khả thi cao.
Xây dựng kế hoạch phải có tính “động” để có thể điều chỉnh nếu cần thiết
trong quá trình chỉ đạo và thực hiện. Đặc biệt, mục tiêu kế hoạch rõ ràng và các
giải pháp thực hiện mục tiêu đó phải hữu hiệu.
Việc thực hiện kế hoạch là một tổ hợp thống nhất tác động qua lại của các
kế hoạch như: Kế hoạch tổ chuyên môn, kế hoạch giảng dạy, kế hoạch cá nhân,
cùng với các kế hoạch của các tổ chức đoàn thể.
2.2. Xây dựng nề nếp dạy học
Người quản lý phải biết tạo ra môi trường sư phạm lành mạnh, không khí
đầm ấm, thân ái, đoàn kết, gắn bó, đó là động lực thúc đẩy mọi cá nhân hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xây dựng nề nếp dạy học không phải chỉ tạo ra dáng vẻ bề ngoài có kỷ
cương, phép tắc mà nó phải đi vào chiều sâu. Đặc biệt, người quản lý phải tổ chức
triển khai nghiên cứu, thực hiện các văn bản pháp quy của Nhà nước, của Ngành,
Thông tư, Chỉ thị của năm học; Hiệu trưởng (Ban giám hiệu) phải tổ chức, chỉ đạo
thực hiện các kế hoạch dạy học bám sát kế hoạch đã được duyệt, đặc biệt chú ý
đến thực hiện chương trình các môn học, thời khoá biểu, thời gian ra vào lớp. Chỉ
đạo thực hiện các loại hồ sơ sổ sách theo đúng quy định; chú ý quan tâm đến giáo
án; đặc biệt là chất lượng bài soạn.


23


Tổ chuyên môn sinh hoạt 2 lần/ tháng, Hội đồng giáo dục phải thường
xuyên sinh hoạt và có nội dung sát với yêu cầu công việc thực tế trong từng thời
điểm; Ban giám hiệu phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn kịp thời
những sai phạm đồng thời động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời những
tập thể, cá nhân hoàn thành tốt việc quản lý nề nếp dạy học của giáo viên và học
sinh tạo nên tác động hai chiều “Thầy gương mẫu trò noi theo - Trò noi theo thầy
gương mẫu”.
2.3. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học
Trước hết, chúng ta phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học ở đây không
phải là thay đổi hoàn toàn phương pháp cũ mà chúng ta phải biết vận dụng hài
hoà phương pháp cũ và phương pháp mới một cách hợp lý nhằm phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp
học, môn học, đối tượng học sinh (nhất là học sinh vùng 3) bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy học trường tiểu học là yêu cầu đòi hỏi để
tạo nguồn nhân lực phù hợp với nền sản xuất khoa học hiện đại, nó là đòn bẩy
nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, do vậy hàng năm phải bố trí giáo
viên tham dự các lớp bồi dưỡng chuyên đề, đổi mới phương pháp do ngành tổ
chức, nghiên cứu kỹ về bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học.
Tổ chức một số tiết mẫu để dạy thống nhất phương pháp theo hướng đổi
mới, thống nhất về thiết kế, nội dung bài giảng, giáo án.
Tham gia hội thảo phương pháp dạy học theo cụm, vùng mà Phòng Giáo
dục – Đào tạo tổ chức.
Chọn đối tượng thực nghiệm, chọn bài, chọn người dạy, chọn lớp dạy. Sau
khi dạy thực nghiệm, tổ chuyên môn đánh giá, rút kinh nghiệm, nếu thành

công cần tiếp tục tổ chức triển khai ở diện rộng (tổ, trường), nếu chưa đạt yêu cầu
cần xem xét và tìm cách tháo gỡ.
2.4. Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Hàng năm, vào đầu năm học, Ban giám hiệu giao đích danh, cụ thể giáo
viên phấn đấu đăng ký thi giáo viên dạy giỏi cấp Trường cấp Huyện để giáo viên
24


có thời gian đầu tư bài soạn, bài giảng, tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ rút
kinh nghiệm.
Tổ chức công tác tự học tự bồi dưỡng trong nhà trường, trước hết là Giáo
dục Tư tưởng, Chính trị, Đạo đức, Tác phong của người thầy, nhận thức đúng vai
trò của người thầy: “Trọng trách thật lớn lao xong cũng hết sức nặng nề”.để có
động cơ định hướng đúng trong công tác.Việc bồi dưỡng giáo viên trong nhà
trường phải đa dạng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức chuyên đề
thi giáo viên dạy giỏi, đăng ký giờ dạy tốt, dự giờ thăm lớp, học tập đồng nghiệp.
Đọc và nghiên cứu tài liệu cũng là hình thức tự bồi dưỡng của mỗi cá nhân.
Cử những giáo viên có năng lực kèm cặp, giúp đỡ những giáo viên yếu,
kém, còn non về chuyên môn, đặc biệt quan tâm đến bài soạn, thiết kế bài dạy, đi
sâu giúp đỡ về kiến thức và cách truyền thụ kiến thức. Hướng dẫn kỹ năng ra bài
kiểm tra và chấm bài.
Tăng cường công tác kiểm tra của tổ chuyên môn. Ban giám hiệu thường
xuyên uốn nắn kịp thời những sai lệch, kịp thời duy trì nề nếp chuyên môn.
Thường xuyên tổ chức tốt phong trào thi đua giúp đỡ nhau, giỏi việc
trường, đảm việc nhà trong cơ quan trường học.
2.5. Quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn
Cuối tuần, tổ trưởng phải lên kế hoạch dạy học cũng như tiết dạy của tuần
tới và treo ở Phòng hội đồng để giáo viên trong tổ chép và thực hiện và tiện cho
Ban giám hiệu kiểm tra, theo dõi. Hiệu trưởng giao nhiệm vụ cho tổ trưởng
chuyên môn kiểm tra định kỳ hồ sơ sổ sách của giáo viên một tháng 2 lần vào

tuần 2 và 4 của tháng.
Ban giám hiệu kết hợp các tổ trưởng chuyên môn kiểm tra dự giờ đột xuất,
trong quá trình kiểm tra cần quan tâm đến nội dung kiến thức, chất lượng bài
soạn, phương pháp giảng dạy, chất lượng của học sinh (kiểm tra trắc nghiệm học
sinh để đánh giá tiết dạy của giáo viên).
Tăng cường và sử dụng triệt để đồ dùng dạy học trên lớp, có sổ theo dõi
giáo viên mượn đồ dùng dạy học để biết được trong một năm mỗi giáo viên đã
mượn và sử dụng đồ dùng dạy học bao nhiêu lần. Đồng thời, Ban giám hiệu cần
25


×