Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số và thực tiễn thi hành tại tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------------

NGÔ THỊ HỒNG HOA

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------------------------

NGÔ THỊ HỒNG HOA

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI TỈNH YÊN BÁI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thị Hồng Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN
XUẤT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM ..................... 7
1.1. Lý luận về đồng bào dân tộc thiểu số ................................................................ 7

1.2. Lý luận về đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số và giải quyết đất ở,
đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số............................................................. 12
1.3. Lý luận pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số........................................................................................................................... 20
Chương 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN
XUẤT CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH YÊN BÁI ........................................................................................... 29
2.1. Thực trạng sử dụng đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số ................... 29
2.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc
thiểu số .................................................................................................................. 33
2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân
tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái................................................................................... 45
CHƯƠNG 3.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN TẠI TỈNH YÊN BÁI .......................... 61
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng
bào dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Yên Bái .............. 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng
bào dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Yên Bái .............. 63
3.3. Kiến nghị ................................................................................................. 68
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
1.1. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em; trong đó,
dân tộc Kinh chiếm đa số khoảng 80% dân số. 53 dân tộc thiểu số còn lại có khoảng

12,8 triệu người sinh sống trải dài trên phạm vi 35% lãnh thổ Việt Nam cư trú ở
những địa bàn có vị trí địa, chính trị đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh,
kinh tế và môi trường như vùng biên giới, hải đảo; vùng núi cao phía Bắc và Tây
Nguyên v.v... Đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp rất to lớn vào
công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc chủ
quyền lãnh thổ quốc gia và xây dựng, kiến thiết đất nước. Dẫu vậy về cơ bản, trình
độ phát triển của đồng bào dân tộc thiểu số so với người Kinh còn nhiều hạn chế, số
hộ nghèo đói trong cả nước là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao. Trong số
hơn 1.000 huyện có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì đại đa số là những huyện có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chương
trình, chính sách, pháp luật về ưu tiên đầu tư phát triển về mọi mặt cho đồng bào
dân tộc thiểu số như Chương trình 135, Chương trình 134 và Chương trình xóa đói,
giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015 - 2020 v.v...; trong đó có chính sách, pháp luật
về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc,
đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên và đồng bào dân tộc thiểu số khu
vực miền Tây Nam Bộ. Thực hiện các chế độ, chính sách này đã và đang giải quyết
đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước. Theo Báo cáo tình
hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 539/NQ-UBTVQH13 ngày 30/10/2012 về
kết quả giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào
dân tộc thiểu số của Ủy ban Dân tộc, tính đến nay đã có 210.587/1.027.723 hộ đồng
bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở. Trong đó,
99.248 hộ được hỗ trợ đất ở, 111.339 hộ được hỗ trợ đất sản xuất; riêng giai đoạn
2012- 2014, thực hiện hỗ trợ đất ở cho 10.156 hộ gia đình, 19.449 hộ gia đình được
hỗ trợ về đất sản xuất. Điều này giúp ổn định đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, góp phần xóa đói, giảm nghèo và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy
nhiên, thực tiễn thi hành chính sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho
đồng bào dân tộc thiểu số còn bộc lộ một số tồn tại như thiếu quỹ đất để hỗ trợ đất
ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; trong khi đó, các nông, lâm trường
quốc doanh lại được giao diện tích đất quá lớn sử dụng kém hiệu quả, bỏ hoang hoặc



2

cho thuê đất không đúng mục đích v.v... Tuy nhiên, pháp luật đất đai lại thiếu các
quy định để giải quyết tình trạng trên. Để khắc phục những hạn chế này và đưa ra giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết đất
ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số cần thiết phải có sự nghiên cứu, đánh
giá một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn hệ thống chính
sách, pháp luật này trên cơ sở tham chiếu nội dung các quy định sửa đổi, bổ sung về
đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số của Luật đất đai năm 2013.
1.2. Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc. Mặc dù vẫn còn là tỉnh nghèo
song thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Yên Bái đã nỗ lực vượt
khó trong phát triển kinh tế - xã hội trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và đạt được những kết quả tích cực. Tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao
hơn năm trước, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được xây dựng
đồng bộ góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo nói chung và tỷ lệ đói nghèo của đồng bào
dân tộc thiểu số nói riêng. Có được kết quả đáng tự hào này là nhờ tỉnh Yên Bái đã
thực hiện đồng bộ các giải pháp; trong đó có giải pháp thực hiện quyết liệt chính
sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi hành chính sách, pháp luật về
giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số còn bộc lộ một số tồn
tại, yếu kém như sự phối hợp chưa chặt chẽ, đồng bộ giữa một số cơ quan, ban,
ngành của tỉnh, huyện và xã; một số quy định về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho
đồng bào dân tộc thiểu số nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau do nhiều
cơ quan ban hành nên khó tránh khỏi sự thiếu thống nhất, đồng bộ; các quy định về
vấn đề này chủ yếu được đề cập ở văn bản dưới luật nên hiệu lực pháp lý chưa cao
v.v... đã gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện tại tỉnh Yên Bái. Để đi tìm
nguyên nhân và giải pháp khắc phục hạn chế, yếu kém trên thì không thể không có
sự nghiên cứu, đánh giá toàn diện, hệ thống, khách quan, khoa học về pháp luật giải
quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số tham chiếu với thực tiễn thi

hành tại tỉnh Yên Bái hiện nay.
Với những lý do cơ bản trên, học viên lựa chọn đề tài "Pháp luật về giải
quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số và thực tiễn thi hành tại
tỉnh Yên Bái" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và
pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là
đề tài nhận được sự quan tâm tìm hiểu của giới luật học nước ta. Thời gian qua đã


3

có nhiều công trình nghiên cứu liên quan về vấn đề này được công bố mà tiêu biểu
phải kể đến một số công trình khoa học cụ thể sau đây: i)) Trần Ngọc Bình (2017),
Một số chính sách sắp xếp đổi mới công ty nông, lâm nghiệp ở nước ta hiện nay,
Bài viết Hội thảo: Quản lý đất đai có nguồn gốc từ công ty nông, lâm nghiệp sau
sắp xếp đổi mới: chính sách và thực tiễn, do Viện Chiến lược, chính sách - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Chương trình Quản trị đất đai khu vực Mê kông
tổ chức ngày 27/02/2017 tại Hà Nội; ii) Nguyễn Vinh Quang, Lê Văn Lân, Lưu Đức
Khải, Ngô Văn Hồng, Tạ Long, Nguyễn Hải Xuân (2015), Báo cáo nghiên cứu:
Hiện trạng giao đất lâm nghiệp từ các công ty lâm nghiệp cho người dân địa
phương và các khuyến nghị chính sách, Chương trình Quản trị đất đai khu vực Mê
kông, Hà Nội, 12/2016; iii) Ngân hàng Thế giới (2012), Sửa đổi Luật đất đai để
thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam, Bản tóm tắt các khuyến nghị chính sách
ưu tiên rút ra từ các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, Hà Nội; iv) Tổ chức
Oxfam tại Việt Nam (2013), Báo cáo về tham vấn cộng đồng góp ý kiến Dự thảo
Luật đất đai năm 2003 sửa đổi, Hà Nội; v) Đặng Kim Sơn và cộng sự (2013), Báo
cáo nghiên cứu: Rà soát, phân tích các chính sách dân tộc thiểu số và hỗ trợ xây
dựng hệ thống chính sách cho Ủy ban Dân tộc đến 2020; vi) Cơ quan Thường trực
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long (2006), 60 năm công tác dân tộc ở đồng bằng

sông Cửu Long - Thực tiễn và bài học, Kỷ yếu Khoa học: 60 năm công tác dân tộc Thực tiễn và bài học kinh nghiệm, do Viện Dân tộc - Ủy ban Dân tộc tổ chức tháng
06/2006 tại Hà Nội; vii) Văn Kiện (2015), Truy trách nhiệm Bộ trưởng vụ xây biệt
phủ trong rừng cấm, Báo Tiền phong, thứ sáu ngày 28/08/2015, số 240; viii)
PGS.TS. Khổng Diễn (Chủ nhiệm) (2006), Đề tài Cơ sở khoa học xây dựng chiến
lược phát triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đến năm 2020, Báo cáo tóm tắt; ix)
Ủy ban Dân tộc (2016), Kết quả rà soát chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015, và
đề xuất chính sách trung hạn giai đoạn 2016-2020; x) Vụ Pháp chế - Ủy ban Dân
tộc (2012), Một số văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc (2006 2012), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; xi) Ủy ban Dân tộc và Phái đoàn Liên minh
Châu Âu tại Việt Nam (2015), Hội thảo -Xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc
nhằm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số: Chia sẻ kinh nghiệm giữa Châu Âu
và Việt Nam, Lào Cai, ngày 15/5/2015; xii) : Viện Dân tộc - Ủy ban Dân tộc (2006),
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: 60 năm công tác dân tộc - Thực tiễn và vài học kinh
nghiệm, Hà Nội - tháng 6 v.v...
Các công trình nghiên cứu trên đây đã giải quyết được một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về pháp luật liên quan đến giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng


4

bào dân tộc thiểu số như đánh giá thực trạng sử dụng đất của đồng bào dân tộc thiếu
số, chỉ ra nguyên nhân đồng bào dân tộc thiểu số không có đất hoặc thiếu đất ở, đất
sản xuất; đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; đưa ra một số khuyến nghị góp phần hoàn thiện
chính sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số
và nâng cao hiệu quả thực thi hệ thống chính sách, pháp luật này ở nước ta. Tuy
nhiên, xem xét dưới góc độ pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào
dân tộc thiểu số một cách có hệ thống, đầy đủ, chuyên sâu và toàn diện trên phương
diện lý luận, thực tiễn đặt trong mối quan hệ tham chiếu với Luật đất đai năm 2013,
các đạo luật có liên quan và thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này trên địa bàn
tỉnh Yên Bái nói riêng thì dường như vẫn còn thiếu một công trình như vậy. Trên cơ

sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến
đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp góp
phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Tập hợp, phân tích, đánh giá hệ thống cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết
đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam thông qua việc luận
giải một số nội dung:
i) Phân tích, khái niệm và đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số.
ii) Tìm hiểu vị trí, vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số.
iii) Phân tích thực trạng sử dụng đất của đồng bào dân tộc thiểu số.
iv) Phân tích khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giải quyết đất ở, đất
sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
v) Cơ sở ra đời pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân
tộc thiểu số.
vi) Các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số v.v...


5

- Đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái.
- Đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

thi hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại
tỉnh Yên Bái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
- Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013, các đạo luật có liên quan và các văn
bản hướng dẫn thi hành về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số;
- Hệ thống lý thuyết, trường phái học thuật về pháp luật về giải quyết đất ở,
đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số;
- Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào
dân tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số từ
thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một
bản luận văn thạc sĩ luật, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn ở những
nội dung cụ thể sau:
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu về nội dung. Nghiên cứu, tìm hiểu các quy
định về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam của
Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu về không gian. Đánh giá thực tiễn thi hành
các quy định về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh Yên Bái.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.


6

- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu…
được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu lý luận pháp luật về giải quyết đất ở, đất
sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp... được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp
luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số và thực tiễn thi
hành tại tỉnh Yên Bái;
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải…
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân
tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái.
6. Những kết quả nghiên cứu đạt được
Luận văn hoàn thành với những kết quả nghiên cứu chủ yếu như sau:
- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp luật
về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số và thực tiễn thi hành chế định pháp luật này tại tỉnh Yên Bái;
- Đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại
tỉnh Yên Bái.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Lý luận pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào

dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số và thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả thi hành tại tỉnh Yên Bái.


7

Chương 1
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.1.1. Khái niệm đồng bào dân tộc thiểu số
i) Khái niệm đồng bào, dân tộc
Để tìm hiểu khái niệm đồng bào dân tộc thiểu số thì trước tiên chung ta cần
hiểu thế nào là đồng bào. Cụm từ đồng bào có gốc từ hán việt được sử dụng với
hàm ý, ý nghĩa cùng một cội nguồn (đồng bào có nghĩa là cùng (đồng) một bào
thai). Cụm từ này được sử dụng với hàm ý bắt nguồn từ truyền thuyết "trăm trứng"
trong lịch sử dân tộc có nghĩa là mọi người con đất Việt được Mẹ Âu Cơ sinh ra từ
bọc trăm trứng/cùng một bào thai nên phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Dưới góc độ học thuật, khái niệm đồng bào được giải mã như sau:
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: "Dân tộc: Cộng đồng người được hình
thành từ lâu đời, có ngôn ngữ, truyền thống văn hóa, tâm lý đặc thù" 1.
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) biên soạn
năm 2006: -Dân tộc: 1. Dân tộc (tộc người, ethnie) - hình thái đặc thù của một tập
đoàn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân
biệt bởi 03 đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng,
mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử lịch sử; ví dụ: dân tộc (hay tộc

người) Việt, dân tộc (hay tộc người) Tày, dân tộc (hay tộc người) Khơ Me …Hình
thức và trình độ phát triển của tộc người phụ thuộc vào các thể chế xã hội ứng với
các phương thức sản xuất.
2. Dân tộc (nation) - hình thái phát triển cao nhất của tộc người, xuất hiện
trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái của tộc người trong xã
hội nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là bộ tộc). Dân
tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh
thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.
So với bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong thời kỳ phát triển tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa có lãnh thổ ổn định, tình trạng cát cứ bị xóa bỏ, có nền
kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường quốc gia hình thành thống nhất, các âm ngữ,
1. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 219.


8

thổ ngữ bị xóa bỏ, tiếng thủ đô được coi là chuẩn và ngày càng lan rộng ảnh hưởng,
sự cách biệt về văn hóa giữa các vùng, miền và giữa các bộ phận của tộc người bị
xóa bỏ phần lớn, ý thức về quốc gia được củng cố vững chắc.
Cộng đồng dân tộc thường được hình thành hoặc từ một bộ tộc phát triển
lên; hoặc là kết quả của sự thống nhất hai hay nhiều bộ tộc có những đặc điểm
chung về lịch sử - văn hóa.
Ngoài những nét giống nhau trên, giữa dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc
xã hội chủ nghĩa có những nét khác biệt nhau, do đặc điểm của phương thức sản
xuất và thể chế xã hội. Ở dân tộc tư bản chủ nghĩa, xã hội phân chia đối kháng giai
cấp giữa tư sản và vô sản, Nhà nước là của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền lợi của giai
cấp tư sản. Còn ở dân tộc xã hội chủ nghĩa, xã hội không còn giai cấp đối kháng,
quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
3. Dân tộc (quốc gia dân tộc; ví dụ: dân tộc Việt Nam) là cộng đồng chính
trị - xã hội, được hình thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển

kinh tế - xã hội khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản
lý thống nhất bởi một nhà nước. Kết cấu của cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng,
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một
quốc gia dân tộc có tộc người đa số và các tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến
trình độ dân tộc, song nhiều tộc người ở trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy,
quan hệ giữa các tộc người rất đa dạng và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách
dân tộc để duy trì sự ổn định và phát triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển
của đất nước. Cũng có trường hợp, một quốc gia chỉ gồm một tộc người (Triều Tiên)2.
Hiểu theo nghĩa rộng dân tộc là dân tộc quốc gia, là một cộng đồng chính trị xã hội, bao gồm tất cả các thành phần dân tộc đa số và thiểu số sinh sống trong
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia thống nhất.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì khái niệm dân tộc lại: Đồng nghĩa với cộng đồng
tộc người, cộng đồng này có thể là bộ phận chủ yếu hay thiểu số của một dân tộc
sinh sống trong cùng một lãnh thổ thống nhất hay ở nhiều quốc gia khác nhau nhưng
được liên kết với nhau bằng nhiều ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người.
ii) Khái niệm đồng bào dân tộc thiểu số
"Đồng bào dân tộc thiểu số" là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến không
chỉ trong xã hội, trong sách, báo chuyên môn mà còn hiện diện trong các văn bản
2. Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2006, tr. 213-214.


9

pháp luật ở nước ta. Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ các dân tộc có số lượng
người ít hơn dân tộc Kinh (dân tộc Kinh chiếm 80% dân số) ở nước ta. Khái niệm
"Đồng bào dân tộc thiểu số" được các nhà làm luật Việt Nam giải thích như sau:
"Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm
vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và "Dân tộc đa số là dân tộc
có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia"3.
Tuy nhiên, tổng hợp những thuộc tính được ghi nhận từ nội dung các văn bản pháp

luật khác có liên quan đến dân tộc thiểu số, theo tác giả có thể hiểu khái niệm "đồng
bào dân tộc thiểu số" ở Việt Nam như sau: Đồng bào dân tộc thiểu số là đồng bào
thuộc dân tộc có số dân ít hơn với dân tộc đa số trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam,
có những đặc điểm riêng về chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán.
1.1.1.2. Đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Ở nước ta đã có một số công trình chuyên khảo nghiên cứu về đồng bào dân
tộc thiểu số dưới khía cạnh dân tộc học, xã hội học... Tìm hiểu nội dung các công trình
này, tác giả nhận thấy một số đặc điểm nổi bật của đồng bào dân tộc thiểu số; cụ thể:
Thứ nhất, các dân tộc có quy mô dân số khác nhau, sống xen kẽ nhau.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc
thiểu số. Dân số 53 dân tộc thiểu số là 10.527.455 người chiếm tỷ lệ 13,8% dân số
của cả nước4. Các dân tộc thiểu số có quy mô dân số không đồng đều. Có những
dân tộc với dân số trên một triệu người, như dân tộc: Tày, Thái, Mường, Khmer.
Nhưng lại có những dân tộc dân số rất ít, đặc biệt là 05 dân tộc có dân số dưới 1.000
người bao gồm: Sila (840). PuPéo (705), Rơ Măm (352), Brâu (313) và Ơ đu (301).
Khác với một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, các dân tộc ở nước ta cư
trú xen kẽ nhau, không có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng. Tính chất cư trú đó đã
tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Thứ hai, các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo nên một cộng đồng
dân tộc Việt Nam thống nhất.
Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta từ lâu đời, đã sớm có ý thức đoàn
kết, gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng
đất nước. Sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo lên một quốc gia dân tộc
3. Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc.
4. Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Số liệu cuộc tổng điều tra dân số năm 1999.


10


bền vững, thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân
tộc ngày càng được củng cố và phát triển. Đoàn kết các dân tộc ở nước ta đã trở
thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, hầu hết các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng lớn, có vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và môi trường sinh thái.
Các dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở miền núi, với địa bàn rộng lớn
chiếm 3/4 diện tích cả nước, bao gồm 19 tỉnh miền núi, vùng cao, 23 tỉnh có miền
núi. Đây là khu vực biên giới, cửa ngõ thông thương với các nước láng giềng, có vị
trí quan trọng về an ninh quốc phòng của đất nước.
Miền núi nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú, như:
đất, rừng, khoáng sản… với tiềm năng to lớn phát triển kinh tế; là đầu nguồn các
dòng sông lớn, giữ vai trò đặc biệt quan trọng về cân bằng sinh thái.
Thứ tư, các dân tộc phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội.
Do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những nguyên nhân lịch sử để
lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú của đồng bào dân
tộc, nên trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc không đồng đều. Một số
dân tộc đã phát triển kinh tế - xã hội tương đối cao, nhưng còn nhiều dân tộc vẫn
còn trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển. Phần lớn các dân tộc thiểu số có mức
sống thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số; song cũng
có dân tộc thiểu số có mức sống cao hơn dân tộc Kinh, đó là dân tộc Hoa kiều
(người Việt gốc Hoa).
Một số dân tộc vẫn còn trong tình trạng tự cung tự cấp, du canh du cư. Đời
sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều
khó khăn trong quá trình phát triển.
Thứ năm, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự đa dạng, phong
phú của nền văn hóa Việt Nam.
Mỗi dân tộc, mặc dù có sự khác nhau về quy mô dân số, về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, nhưng đều có văn hóa truyền thống riêng (ngôn ngữ, phong tục, tập
quán, trang phục…), tạo nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc, góp phần làm phong phú,

đa dạng nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Bản sắc văn hóa của các dân tộc đều được
chú trọng bảo tồn và phát triển trong quá trình giao lưu, hội nhập chung của cả nước.
1.1.2. Vị trí và vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em (53 dân tộc thiểu
số chiếm 14% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng


11

biên giới trải dài trên phạm vi 35% lãnh thổ), cùng cư trú, tồn tại và phát triển trên
lãnh thổ Việt Nam. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung sống đoàn kết, hòa hợp,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc,
đồng bào dân tộc thiểu số đã có những đóng góp to lớn vào quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số được thể hiện trên
các khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đồng bào dân tộc thiểu số đã có những đóng góp to lớn trong
công cuộc chống ngoại xâm giành độc lập và bảo vệ đất nước.
Lịch sử đã ghi nhận nhiều tấm gương anh dũng của các bậc tiền nhân là
người dân tộc thiểu số đã tập hợp, lãnh đạo nhân dân (không phân biệt là người
Kinh hay người Thượng) đứng lên đấu tranh chống ngoại xâm vì nền độc lập tự do
của dân tộc. Trong thời kỳ cận đại có các lạc hầu, lạc tướng người dân tộc thiểu số
của nữ tướng Bà Trưng, Bà triệu; các tướng người dân tộc thiểu số Hà Đăng, Hà
Nghiệp thời nhà Trần v.v... Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ có những tấm gương anh hùng là người dân tộc thiểu số như Anh hùng
Núp ở Tây Nguyên, Anh hùng Bế Văn Đàn, Anh hùng Cù Chính Lan, Anh hùng
Can Lịch, Anh hùng Vai… là những điển hình tiêu biểu cho những đóng góp to lớn
của đồng bào các dân tộc thiểu số vào sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm, giành
và giữ nền độc lập của đất nước.
Thứ hai, đồng bào dân tộc thiểu số đã có những đóng góp to lớn vào công
cuộc tái thiết, xây dựng đất nước.

Sau khi đất nước thống nhất (tháng 4/1975), đồng bào dân tộc thiểu số đã
hăng hái thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người
dân. Ngay từ thủa khai sinh, các dân tộc đã gắn kết, chung sức, chung lòng chống
chọi với thiên nhiên, bão lũ; tinh thần đoàn kết càng được phát huy hơn trong lịch
sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Trong sự nghiệp cách
mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống đoàn kết,
thống nhất dân tộc không ngừng được củng cố và phát triển, tạo nên sức mạnh vĩ
đại để chiến thắng thiên tai, chiến thắng "thù trong, giặc ngoài" đem lại thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Trong những năm qua, kinh tế - văn hóa, xã hội của nước ta đã đạt nhiều kết
quả tích cực; đồng thời trong sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước, đồng bào
các dân tộc thiểu số luôn đồng hành trên mọi lĩnh vực, đã có những đóng góp quan


12

trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Với nhận thức phát huy tinh thần
đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng bào dân tộc thiểu số luôn đồng hành cùng với đồng bào
cả nước tích cực lao động, sản xuất, tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- văn hóa, xã hội; chung tay góp sức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp
phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển, tiến bộ - văn minh, để đưa đất nước ta
đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
1.2. Lý luận về đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số và giải
quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số
1.2.1. Khái niệm đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số
1.2.1.1. Khái niệm đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp"5.
Để thực hiện quyền cơ bản này của công dân thì họ phải có quyền tiếp cận và khai
thác đất ở. Đồng bào dân tộc thiểu số là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam nên Nhà nước ta bảo hộ quyền có chỗ ở của họ. Tuy nhiên, để có
chỗ ở thì mọi người phải có nhà ở - là nơi cư trú lâu dài mà nhà ở lại được xây dựng
trên đất. Trên thực tế, đất được sử dụng để xây dựng nhà ở được người Việt quan
niệm là đất ở. Tìm hiểu nội dung Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn
thi hành, tác giả nhận thấy đất ở là một thành phần độc lập trong nhóm đất phi nông
nghiệp được sử dụng để xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của con người như nhà bếp, tường rào, nhà vệ sinh, sân, vườn, giếng nước và
chuồng nuôi gia súc, gia cầm… Luật đất đai năm 1993 quy định khá chi tiết về khái
niệm đất ở của hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, kể từ khi Luật đất đai năm 2003 và
Luật đất đai năm 2013 ra đời, khái niệm đất ở không được đề cập trong các quy
định về đất ở của hộ gia đình, cá nhân.
Đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến
trong các văn bản pháp luật song dường như chưa có văn bản pháp luật nào giải
thích một cách chính thức về thuật ngữ này. Dựa trên nội dung các quy định của
pháp luật đất đai về đất ở và quan niệm thông thường của người Việt, tác giả cho
rằng khái niệm đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số như sau: Đất ở của đồng bào dân
tộc thiểu số là một thành phần độc lập trong nhóm đất phi nông nghiệp được sử
dụng vào mục đích chủ yếu để ở. Diện tích đất này bao gồm đất để xây dựng nhà ở
và các công trình phục vụ đời sống, sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số như
sân, nhà bếp, nhà vệ sinh, vườn và chuồng nuôi giá súc, gia cầm v.v...
5. Khoản 1 Điều 22 Hiến pháp năm 2013.


13

Bên cạnh các đặc điểm chung của đất ở, đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số
còn có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây: một là, do đặc điểm cư trú, phân tán rải
rác trên một phạm vi rộng nên đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số phân bố rải rác
và xen kẽ với các loại đất khác như đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên
dùng khác. Hơn nữa, loại đất này phân bố ở vùng có địa hình cao, điều kiện đi lại

khá khó khăn do đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở vùng núi; hai là, đất ở
của đồng bào dân tộc thiểu số nằm xen kẽ với đồng bào dân tộc đa số (dân tộc Kinh) do
đặc điểm dân tộc thiểu số và dân tộc đa số sinh sống xen kẽ với nhau; ba là, đất ở
của đồng bào dân tộc thiểu số tọa lạc ở những vị trí mà hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội nghèo nàn, thiếu đồng bộ, hiện đại; bốn là, đất ở của đồng
bào dân tộc thiểu số vừa có diện tích lớn vừa có diện tích nhỏ. Điều này tùy thuộc
vào mức độ, quy mô phân bố tập trung hay không tập trung của từng dân tộc thiểu số;
năm là, đất ở của đồng bào dân tộc thiểu số vừa cố định lâu dài vừa mang tính tạm
thời do một số dân tộc thiểu số còn duy trì phong tục, tập quán "du canh du cư"…
1.2.1.2. Khái niệm đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số
Đất sản xuất nói chung và đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số nói
riêng là thuật ngữ được dùng để chỉ một loại đất độc lập trong quỹ đất của nước ta
được sử dụng làm tư liệu sản xuất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối (sau đây gọi chung là tư liệu sản xuất trong nông nghiệp). Đất sản
xuất là một tên gọi khác của nhóm đất nông nghiệp. Mặc dù được sử dụng khá phổ
biến trong đời sống xã hội, trong các sách, báo chuyên môn và trong văn bản pháp
luật song tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý; tác giả nhận thấy dường như thuật
ngữ này chưa được pháp luật giải thích một cách chính thức. Tuy nhiên, dựa trên
quan niệm thông thường và nội dung các quy định của pháp luật về đất nông nghiệp,
tác giả cho rằng khái niệm đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số được hiểu như
sau: Đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số là một thành phần độc lập trong
nhóm đất nông nghiệp. Nó được đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng vào mục đích
chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.
Bên cạnh những đặc điểm chung của nhóm đất nông nghiệp, đất sản xuất
của đồng bào dân tộc thiểu số còn cố một số đặc điểm riêng cơ bản sau: một là,
phần lớn đất sản xuất nông nghiệp trồng cây hàng năm của đồng bào dân tộc thiểu
số ở khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc có diện tích vừa và nhỏ; bởi lẽ, việc
canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu ở khu vực miền núi. Trong khi đó,
đất trồng cây hàng năm của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nam Bộ lại có



14

diện tích lớn hơn; hai là, đất trồng cây lâu năm và đất lâm nghiệp của đồng bào dân
tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc có diện tích lớn hơn nhiều
so với loại đất này của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nam Bộ; do mật độ
dân số ở khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc thấp hơn so với khu vực Tây
Nam Bộ; ba là, việc canh tác, sử dụng đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số
gặp nhiều khó khăn do diện tích nhỏ, hẹp hoặc có vị trí độ dốc cao, khô hạn hoặc
đường sá đi lại khó khăn; bốn là, tương tự như đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân
tộc thiểu số vừa cố định lâu dài vừa mang tính tạm thời do một số dân tộc thiểu số
còn duy trì phong tục, tập quán "du canh du cư"; năm là, diện tích đất sản xuất của
đồng bào dân tộc thiểu số có xu hướng ngày càng bị thu hẹp do việc chuyển nhượng
tự phát, do tình trạng di dân tự do từ nơi khác đến v.v...
1.2.2. Ý nghĩa của việc sử dụng đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào dân
tộc thiểu số
Tìm hiểu về đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tác giả
nhận thấy việc sử dụng những loại đất này có ý nghĩa biểu hiện trên các khía cạnh
chủ yếu sau đây:
Một là, đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số là một
biểu hiện sinh động về thực hiện quyền con người và quyền cơ bản của công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Bởi lẽ, xét về nguồn gốc, đất đai không
do bất cứ ai tạo ra mà do tự nhiên tạo ra và có trước con người. Con người sinh ra
phải dựa vào việc khai thác, sử dụng đất đai để duy trì sự tồn tại và phát triển của
mình. Hay nói cách khác, con người khó có thể tồn tại nếu thiếu đất đai. Do đó, đất
đai được coi là "tặng vật" của thiên nhiên ban cho con người. Mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng đất để duy trị sự tồn tại của mình
và phải có bổn phận bồi bổ, cải tạo làm cho đất tốt hơn lên để truyền lại cho các thế
hệ tương lai. Do đó quyền có đất và quyền sử dụng đất không chỉ được coi là quyền
tự nhiên của mỗi con người mà còn là quyền cơ bản của công dân mà bất kỳ quốc

gia nào cho dù được thiết lập dựa trên các hình thái kinh tế - xã hội, thể chế chính trị
khác nhau, đều phải thực hiện và bảo đảm cho công dân của mình thực hiện các
quyền này (không phân biệt công dân là người dân tộc đa số hay là người dân tộc
thiểu số). Các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp - đạo luật gốc - để bảo
đảm trách nhiệm pháp lý của Nhà nước.
Thứ hai, đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số thể hiện sự
quan tâm, cam kết của Nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo quyền bình đẳng trong


15

lĩnh vực đất đai đối với những dân tộc thiểu số ở vị trí yếu thế, dễ bị tổn thương hơn so
với người Kinh chiếm đa số ở Việt Nam. Hơn nữa, việc đảm bảo đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số còn mang ý nghĩa về nhân quyền (quyền con người).
Bởi lẽ, con người sinh ra muốn tồn tại và phát triển phải có quyền tiếp cận, sử dụng
đất đai. Điều này được ghi nhận trong Tuyên bố đất đai của Liên hợp quốc. Thực tế
cho thấy một trong những nguyên nhân của đói nghèo của con người nói chung và
đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là do không được tiếp cận, sử dụng đất đai.
Thứ ba, đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số góp phần
củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại bất kỳ hành vi chia
rẽ, phân biệt, kỳ thị dân tộc.
Như chúng ta đã biết, đất đai là vấn đề nhạy cảm và có ý nghĩa chính trị, kinh
tế, xã hội ở nước ta. Sự bất bình đẳng và thiếu công bằng trong chiếm hữu, sử dụng đất
sẽ tiềm ẩn nguy cơ mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa những người chiếm giữ diện tích
lớn đất đai với người không có hoặc thiếu đất. Hơn nữa, thực tiễn đã chứng minh việc
không có hoặc thiếu đất ở, đất sản xuất là điều kiện để các thế lực phản động lôi kéo,
xúi giục và kích động bạo loạn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà vụ việc bạo
loạn chính trị ở Tây Nguyên năm 2001 là một ví dụ điển hình. Do đó, đảm bảo đất
ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số góp phần củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại bất kỳ hành vi chia rẽ, phân biệt, kỳ thị dân tộc.

Thứ tư, đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số góp phần
bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng có địa
chính trị đặc biệt quan trọng.
Thứ năm, đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số góp
phần phát triển kinh tế, đảm bảo sự an sinh xã hội và phát triển bền vững vùng núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về giải quyết đất, đất
sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số
1.2.3.1. Giai đoạn trước thời kỳ Đổi mới (trước năm 1986)
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Trong lịch sử 4.000 năm, các dân tộc sinh sống trên dải đất hình chữ S đã đoàn kết,
chung sức chung lòng đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập, bảo vệ chủ quyền và
phát triển đất nước với truyền thống tương thân tương ái tốt đẹp "Bầu ơi thương lấy bí
cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Truyền thống đại đoàn kết dân tộc
được đúc kết từ các cuộc kháng chiến trường kỳ chống ngoại xâm là bài học vô cùng


16

quý giá mà các thế hệ tiền nhân truyền lại cho con cháu phải duy trì, củng cố và giữ
gìn. Nhận thức sâu sắc bài học đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước xác định vấn
đề dân tộc chiếm vị trí trọng yếu, cốt tử. Các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp
luật về ưu tiên đầu tư, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số đã lần lượt được ban hành;
trong đó, có chính sách về giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu
số. Chính sách đại đoàn kết dân tộc nói chung và chính sách giải quyết đất ở, đất
sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã được thể hiện trong các Hiến
pháp 1959, Hiến pháp 1980. Tiếp đó, văn bản pháp luật đề cập tương đối toàn diện
việc quản lý và sử dụng đất là Quyết định số 201/CP ngày 01/07/1980 của Chính phủ
về tăng cường công tác quản lý đất đai trong phạm vi cả nước. Trong Quyết định này
vấn đề giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số được thể hiện lồng

ghép trong các quy định về quản lý và sử dụng đất đai. Nghiên cứu pháp luật về giải
quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở giai đoạn này, tác giả rút
ra một số nhận xét sau đây: một là, vấn đề giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số chưa được đề cập một cách trực diện, cụ thể và đầy đủ trong
một văn bản pháp luật. Vấn đề này được lồng ghép trong nội dung các quy định về
quản lý, sử dụng đất và thể hiện còn khá mờ nhạt; hai là, vấn đề giải quyết đất ở,
đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số được quy định rải rác ở các văn bản pháp
luật do các cơ quan nhà nước khác nhau ban hành mà chưa có tình hệ thống. Mặt
khác, hiệu lực pháp lý của các quy định này chưa cao do còn thiếu một đạo luật đề
cập cụ thể vấn đề giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
1.2.3.2. Giai đoạn sau Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đặt nền móng cho công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định:
Thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Trong việc phát
triển kinh tế - xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể
hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ gắn bó tốt đẹp giữa các dân
tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể; kết hợp
phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống con
người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ. Chống những thái độ và
những biểu thị tư tưởng -dân tộc lớn’’ và những biểu hiện của dân tộc hẹp hòi6.
Ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về một
số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Thể chế hóa quan
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.


17

điểm của Đảng về chính sách dân tộc được ghi nhận trong các nghị quyết nêu trên, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã thể chế hóa bằng Quyết định số 72-HĐBT
ngày 13/02/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội

miền núi. Đây là hai văn kiện quan trọng đánh dấu sự đổi mới hoạt động công tác
dân tộc và chính sách dân tộc nói chung và và pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Tiếp đó, Hiến pháp năm 1992 ra đời đã quy định:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của
mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số7.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua thay thế Hiến
pháp năm 1992 nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế đã long trọng khẳng định:
1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc; 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa
tốt đẹp của mình; 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều
kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước8.
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về ưu tiên phát triển đối với
đồng bào dân tộc thiểu số, Luật đất đai năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà
nước trong việc đảm bảo đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số; theo đó:
"1. Có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số
phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng
vùng; 2. Có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn có đất để sản xuất nông nghiệp"9. Tuy nhiên, đạo
Luật này mới dừng lại ở quy định mang tính nguyên tắc về giải quyết đất ở, đất sản
7. Điều 5 Hiến pháp năm 1992.

8. Điều 5 Hiến pháp năm 2013.
9. Điều 27 Luật đất đai năm 2013.


18

xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Vấn đề này được quy định với những giải pháp
cụ thể tại Quyết định số 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chính
sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo
và hộ nghèo ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Quyết định số 29/2013/QĐ -TTg ngày
20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và
giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống khó khăn vùng đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn từ năm 2013 - năm 2015; Thông tư số 02/2013/TT-UBDT
ngày 24/6/2013 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện
một số điều của Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg ngày 04/12/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015; Nghị định số 41/2010/NĐ-CP
ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn v.v... Tìm hiểu chính sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản
xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn này, tác giả rút ra một số nhận xét:
một là, hệ thống chính sách, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất đối với đồng
bào dân tộc thiểu số được xây dựng và ban hành tương đối cụ thể, từng bước hoàn
thiện đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào
dân tộc thiểu số trên thực tế; hai là, các quy định giải quyết đất ở, đất sản xuất đối
với đồng bào dân tộc thiểu số được đề cập trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013, Luật đất đai năm 2013 đã ràng
buộc trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà ước có thẩm quyền trong việc đảm
bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; ba là, pháp luật ở thời kỳ này
đã quy định khá cụ thể nguyên tắc, giải pháp và cơ chế tổ chức thực hiện việc giải
quyết đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số…

1.2.4. Nguyên tắc giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc
thiểu số
Tại Điều 2 Quyết định số 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu
số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đưa ra nguyên tắc thực hiện
giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số như sau:
Hỗ trợ trực tiếp đến hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo ở các xã,
thôn đặc biệt khó khăn; bảo đảm công khai minh bạch, đúng đối tượng.
Các hộ được hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt phải sử dụng đúng
mục đích để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống góp phần xóa đói, giảm nghèo;


19

không được chuyển nhượng, tặng, cho, cầm cố, cho thuê đất ở, đất sản xuất trong
thời gian 10 năm, kể từ ngày được Nhà nước giao đất.
Lao động được hỗ trợ một phần kinh phí để đào tạo, chuyển đổi nghề phải
sử dụng đúng mục đích thông qua các cơ sở đào tạo nghề tại địa phương hoặc kết
hợp với chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại các doanh nghiệp.
Mỗi hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo ở các xã, thôn đặc biệt
khó khăn chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất theo quy định chỉ được hỗ trợ một
trong các hình thức sau:
Một là, hỗ trợ đất sản xuất.
- Định mức đất sản xuất cho mỗi hộ: Căn cứ theo mức bình quân chung của
từng địa phương.
- Những nơi còn quỹ đất thì được hỗ trợ trực tiếp bằng tiền và được vay vốn
từ Ngân hàng Chính sách xã hội để tạo quỹ đất. Mức hỗ trợ từ ngân sách Trung ương
và vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội cho mỗi hộ để tạo quỹ đất sản xuất bình
quân 30 triệu đồng/hộ. Trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ 15 triệu đồng/hộ và
được vay tín dụng tối đa không quá 15 triệu đồng/hộ, thời gian vay 5 năm với mức

lãi suất bằng 0,1%/tháng tương đương với 1,2%/năm.
- Quỹ đất sản xuất để giao cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo
bao gồm: Đất Nhà nước quy hoạch để hỗ trợ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo
và hộ nghèo theo quy định tại Quyết định này; đất thu hồi từ các nông, lâm trường và
các doanh nghiệp, tổ chức sau khi sắp xếp lại theo Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày
16/06/2003 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm
trường quốc doanh; đất khai hoang phục hóa, đất được hiến, mua, chuyển nhượng tự
nguyện; đất thu hồi từ các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai và các nguồn khác.
Hai là, hỗ trợ chuyển đổi nghề. Đối với những hộ có lao động học nghề để
chuyển đổi nghề thì được ngân sách Trung ương hỗ trợ tối đa 04 triệu đồng/lao
động; mức hỗ trợ cho từng lao động cụ thể căn cứ vào học phí, ngành nghề và thời
gian học thực tế của lao động do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Những hộ có lao động, có nhu cầu vốn để mua sắm nông cụ, máy móc làm
dịch vụ sản xuất nông nghiệp hoặc cần vốn để làm các nghề khác, tăng thu nhập, thì
được ngân sách Trung ương hỗ trợ 05 triệu đồng/hộ và được vay vốn tín dụng tối đa
không quá 15 triệu đồng/hộ, thời gian vay 05 năm với mức lãi suất bằng 0,1%/tháng
tương đương 1,2%/năm.


20

Những hộ, lao động chuyển đổi nghề, ngoài việc được hưởng các chính sách
nêu trên, còn được hưởng các chính sách ưu đãi liên quan về dạy nghề theo quy
định hiện hành. Ngoài mức hỗ trợ này, từng địa phương tùy theo khả năng nguồn
ngân sách mà quyết định mức hỗ trợ thêm.
Ba là, hỗ trợ xuất khẩu lao động. Đối tượng đi xuất khẩu lao động quy định
tại Quyết định này được thực hiện như cơ chế, chính sách quy định tại Quyết định
số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án
hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền
vững giai đoạn từ năm 2009 - năm 2020.

Bốn là, giao khoán bảo vệ rừng và trồng rừng. Hộ gia đình thực hiện giao
khoán bảo vệ rừng và trồng rừng thuộc đối tượng quy định tại Quyết định này được thực
hiện như cơ chế, chính sách quy định tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008
của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo và Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn từ năm 2011 - năm 2020.
1.3. Lý luận pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào
dân tộc thiểu số
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào
dân tộc thiểu số
Pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số là một
chế định cơ bản của pháp luật đất đai nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng
và chính sách dân tộc của Nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Lĩnh vực pháp luật này bao
gồm các quy định về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù
khái niệm pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số được
sử dụng khá phổ biến trong các văn bản pháp luật song tại Điều 3 Luật đất đai năm
2013 về giải thích từ ngữ lại không giải thích cụ thể về khái niệm này. Nghiên cứu nội
dung các quy định hiện hành về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số, theo tác giả, khái niệm chế định pháp luật này có thể được hiểu như sau: Pháp luật về
giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số là một chế định cơ bản của
pháp luật đất đai gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước nhằm điều chỉnh mối quan hệ
xã hội phát sinh trong việc giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số.
Bên cạnh các đặc điểm chung của pháp luật đất đai, lĩnh vực pháp luật này
còn mang một số đặc điểm cơ bản sau đây:


21

Một là, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc

thiểu số chủ yếu bao gồm các quy phạm pháp luật được ban hành ở các văn bản
dưới luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương ban
hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị, thông tư… Luật đất đai năm 2103 có một
điều quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo giải quyết đất ở, đất
sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số10. Tuy nhiên, đây chỉ là quy định mang tính
nguyên tắc tạo cơ sở pháp lý cơ bản để Chính phủ cụ thể hóa ở các văn bản hướng
dẫn thi hành được ban hành dưới hình thức nghị quyết, quyết định…
Hai là, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc
thiểu số điều chỉnh mối quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan nhà nước và giữa
các cơ quan nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số trong việc giải quyết đất ở, đất
sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Như vậy, phạm vi áp dụng của lĩnh vực
pháp luật này tương đối hẹp và cụ thể. Đối tượng áp dụng của pháp luật về giải
quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm: Các cơ quan nhà
nước với nhau và các cơ quan nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số trong việc
giải quyết đất ở, đất sản xuất.
Ba là, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số mang tính chất liên ngành luật. Nó bao gồm các quy phạm pháp luật đất đai, quy
phạm pháp luật hiến pháp và quy phạm pháp luật của một số đạo luật có liên quan.
Bốn là, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số là lĩnh vực pháp luật công. Nó điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội mà một bên chủ
thể là các cơ quan nhà nước (đại diện cho Nhà nước) - với tư cách chủ sở hữu đại
diện về đất đai - trong việc giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số. Đây chính là một phương thức cụ thể để Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu toàn dân về đất đai được quy định tại Điều 13 Luật đất đai năm 2013.
Năm là, pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về dân tộc.
Nó không chỉ có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc mà còn mang tính an sinh xã hội trong
việc ghi nhận và bảo hộ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
1.3.2. Cơ sở của việc xây dựng pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất
của đồng bào dân tộc thiểu số

1.3.2.1. Những thay đổi chính về chính sách giải quyết đất ở, đất sản xuất
của đồng bào dân tộc thiểu số đòi hỏi pháp luật về giải quyết đất ở, đất sản xuất

10. Điều 27 Luật đất đai năm 2013.


×