Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thực trạng các quy định về rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu vào việt nam và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành các quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.25 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HẢI NINH

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH NÀY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HẢI NINH

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH NÀY


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Ngọc Dũng

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
Tác giả luận văn

Trần Hải Ninh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

Association of South East Asian Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á


AEC

ASEAN Economic Community
Cộng đồng kinh tế khối ASEAN

ISO

International Organization for Standardization
Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế

QCĐP

Quy chuẩn địa phương

QCVN

Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia

TBT

Technical Barriers to Trade
Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại

TCCS

Tiêu chuẩn Cơ sở

TCVN

Tiêu chuẩn Quốc gia


WTO

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT
TRONG THƢƠNG MẠI................................................................................7
1.1. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là gì?.................................................7
1.2. Sự cần thiết của việc thiết lập rào cản kỹ thuật trong thương mại............8
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về rào cản kỹ thuật trong thương mại và Việt Nam
với Hiệp định WTO/TBT ..................................................................................9
1.3.1. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Mỹ........................... 10
1.3.2. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Canada ................... 13
1.3.3. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Trung Quốc ............ 14
1.3.4. Việt Nam và Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại ............. 15
1.4. Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về rào cản kỹ thuật trong
thương mại.......................................................................................................18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT
TRONG THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM.22
2.1. Các quy định về rào cản kỹ thuật trong thương mại ở Việt Nam.............22
2.1.1. Các quy định về hệ thống tiêu chuẩn .................................................... 22
2.1.2. Các quy định về quy chuẩn kỹ thuật ..................................................... 32
2.1.3. Các quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp.................................. 39
2.1.4. Các quy định về sự quản lý của nhà nước đối với chất lượng hàng hóa
nhập khẩu ........................................................................................................ 48
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về rào cản kỹ thuật trong thương mại ở Việt

Nam .................................................................................................................52
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM....................................................................64
3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về rào cản kỹ thuật trong
thương mại ở Việt Nam...................................................................................64
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về rào cản
kỹ thuật trong thương mại ở Việt Nam.......................................................... 68
KẾT LUẬN....................................................................................................72
PHỤ LỤC 1....................................................................................................74
PHỤ LỤC 2....................................................................................................77
PHỤ LỤC 3....................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................80


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về đề tài và tính cấp thiết của đề tài
Rào cản kỹ thuật đối với thương mại hay các biện pháp kỹ thuật là các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu và quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng hóa nhập khẩu đối với các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó. Các biện pháp kỹ thuật này, về nguyên tắc,
là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khỏe con
người, môi trường, an ninh... Các biện pháp kỹ thuật cũng có thể là những rào
cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập
khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm
nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu.
Do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều, các nước đều duy trì và

khai thác các rào cản kỹ thuật thương mại nhằm bảo hộ sản xuất nội địa trong
nước. Mức độ cần thiết và lý do bảo hộ sản xuất nội địa của mỗi nước khác
nhau, đối tượng bảo hộ cũng khác nhau dẫn đến hệ thống rào cản kỹ thuật
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.
Các rào cản kỹ thuật trong thương mại được đề cập đến trong Hiệp định
về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) mà Việt Nam là thành viên. Mỗi nước thành viên WTO
đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với
hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu. Đồng thời, WTO cũng có cơ chế
kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước thành viên sử dụng
đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ cho sản xuất trong nước.
Hiệp định TBT đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên
WTO phải tuân thủ khi ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật hay các quy trình đánh giá hợp chuẩn, hợp quy của hàng hoá.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế bùng nổ mạnh mẽ, Việt Nam đang tập
trung nguồn lực nhằm vượt qua thách thức về rào cản thương mại để thúc đẩy


2

hoạt động xuất khẩu thì việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm quản lý
hoạt động nhập khẩu hàng hóa phải được thực hiện đồng bộ và kịp thời. Việt
Nam cần tránh các trường hợp nhập khẩu hàng hóa ồ ạt, không có sự kiểm
soát sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, thiết bị công nghệ lạc hậu gây tổn
hại đến môi trường và tiêu hao năng lượng, nguyên liệu.
Sau khi gia nhập WTO, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam
tăng nhanh hơn giai đoạn trước rất nhiều. Nhưng thực tế cho thấy, trong khi
hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu đi các nước luôn gặp khó khăn vì rào cản
kỹ thuật của nước nhập khẩu (VD: cá tra, cá ba sa vào thị trường Mỹ và EU)
thì hàng hóa của các nước nhập khẩu vào Việt Nam lại tương đối dễ dàng.

Một trong những nguyên nhân chính làm cho gia tăng nguy cơ không
kiểm soát được hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam là các rào cản kỹ thuật hoạt
động chưa hiệu quả; quy hoạch và đầu tư cho hệ thống phòng thử nghiệm
nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kiểm soát hàng hóa nhập khẩu chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong tương lai, nếu không có các biện pháp
kịp thời, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm kém chất
lượng, ảnh hưởng xấu đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Để góp phần vào việc nghiên cứu pháp luật về các rào cản kỹ thuật trong
thương mại và nâng cao hiệu quả thi hành các quy định pháp luật này, tác giả
đã chọn vấn đề: “Thực trạng các quy định về rào cản kỹ thuật đối với hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
việc thi hành các quy định này” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, rào cản kỹ thuật trong thương
mại luôn là đề tài nóng, được nhiều cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cơ
quan quản lý nhà nước quan tâm, nghiên cứu. Đã có rất nhiều đề tài nghiên
cứu về rào cản kỹ thuật trong thương mại được công bố.


3

Tuy vậy, một số đề tài nghiên cứu, tìm hiểu về rào cản kỹ thuật của nước
ngoài và mới chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để hỗ trợ hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường quốc tế, đặc biệt là vào thị trường các nước phát
triển, như đề tài: “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và
những giải pháp khắc phục rào cản để xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường Mỹ trong bối cảnh mới” của Nguyễn Tiến Dũng, luận văn
thạc sỹ kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2012; đề tài “Hàng rào phi thuế quan Nhật Bản đối với xuất khẩu thủy

sản của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, luận văn thạc sỹ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012; đề tài “Rào
cản thương mại đối với ngành hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam tại thị
trường Hoa Kỳ” của Lưu Ngọc Trịnh, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; hay đề tài “Rào cản phi
thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam” của
Nguyễn Phương Thảo, luận văn thạc sỹ kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
“Vấn đề áp dụng các quy định tiêu chuẩn hàng rào kỹ thuật đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan”của Nguyễn Vĩnh
Kiên, luận văn thạc sỹ ngành Luật Quốc tế, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2012. Luận văn đề cập đến các quy định về rào cản kỹ thuật trong
thương mại quốc tế, rào cản kỹ thuật của một số nước đối với hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam và tập trung vào hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan
hải quan đối với việc thực thi các quy định về rào cản kỹ thuật. “Hàng rào
phi thuế quan theo quy định của pháp luật quốc tế và việc vận dụng để quản
lý hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam” của Nguyễn Khắc
Hiển, luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2015. Luận văn chỉ ra các biện pháp phi thuế quan trong đó có rào cản kỹ
thuật trong thương mại và từ đó đưa ra các biện pháp quản lý hàng hóa nhập


4

khẩu từ thị trường Trung Quốc. Đề tài “Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
quốc tế” của Nguyễn Văn Hưng, luận văn thạc sỹ luật quốc tế, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2012 và đề tài “Hiệp định TBT của WTO và những vấn
đề pháp lý đặt ra với Việt Nam” của Trịnh Thị Thu Hằng, luận văn thạc sỹ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012 đã chỉ ra được khá
đầy đủ các quy định về rào cản kỹ thuật trong thương mại ở Việt Nam dưới

góc độ pháp luật. Tuy nhiên, luận văn mới chủ yếu phản ánh dưới góc độ
pháp luật quốc tế, mà chủ yếu là các quy định của Hiệp định WTO/TBT.
Có thể thấy các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề
lý luận về rào cản kỹ thuật trong thương mại, hoặc thương mại quốc tế. Chưa
có đề tài mang tính thực tiễn nào về thực trạng các rào cản kỹ thuật đối với
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, về quy trình thiết lập rào cản kỹ thuật mà
cụ thể là quy trình xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Luận
văn của tác giả sẽ chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật trong nước
liên quan đến việc thiết lập rào cản kỹ thuật trong thương mại và đề xuất biện
pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định đó.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung các văn bản pháp luật, thực tiễn
áp dụng các quy định pháp luật của Việt Nam và của một số nước khác trên
thế giới về các rào cản kỹ thuật trong thương mại, cụ thể là các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tổng quan về rào cản kỹ thuật trong thương mại ở
Việt Nam, bao gồm các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy
trình đánh giá sự phù hợp. Đây là những quy định có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.


5

4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp lý về rào cản kỹ thuật
trong thương mại và trình bày rõ thực trạng các văn bản pháp luật về các rào
cản kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, tác giả luận văn đề

xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về rào cản kỹ thuật trong thương mại
và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về
các rào cản kỹ thuật trong thương mại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn, tác giả luận văn thực
hiện những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về rào cản kỹ thuật trong thương mại.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về rào cản kỹ thuật trong thương mại
ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định về rào cản kỹ thuật trong
thương mại ở Việt Nam.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng để thực hiện luận văn
Để nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phương pháp
luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tác giả luận
văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp, như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp xử lý thông tin.
Thông qua các luận văn, luận án liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, tạp
chí, báo cáo chuyên đề, nghiên cứu khoa học trong ngành, tài liệu lưu trữ, số
liệu thống kê, các kênh thông tin đại chúng, tác giả luận văn đã phân tích và
tổng hợp tài liệu để thu thập được những thông tin về: Cơ sở lý thuyết, thành
tựu lý thuyết đạt được, kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đã công bố, số liệu
thống kê. Các thông tin này đã được tác giả luận văn xử lý, cập nhật để xây dựng
các luận cứ, phục vụ cho việc chứng minh, lập luận và đề xuất khoa học của


6

mình.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với kết quả nghiên cứu đề tài “Thực trạng các quy định về rào cản kỹ

thuật đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc thi hành các quy định này” tác giả hy vọng có thể đóng góp
vào kho tàng tư liệu pháp lý các quy định về rào cản kỹ thuật trong thương
mại mà cụ thể là các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình
đánh giá sự phù hợp đối với hàng hóa nhập khẩu. Đồng thời, tác giả hy vọng
góp phần nâng cao nhận thức của mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong
việc xây dựng rào cản kỹ thuật đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế đồng
thời thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật trong nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về rào cản kỹ thuật trong thương mại.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về rào cản kỹ thuật trong thương mại và
thực tiễn thi hành ở Việt Nam.
Chương 3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về rào cản kỹ thuật
trong thương mại và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về rào cản kỹ
thuật trong thương mại ở Việt Nam.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI
1.1. Rào cản kỹ thuật trong thƣơng mại là gì?
Rào cản kỹ thuật trong thương mại (technical barriers to trade) thực
chất là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng
hóa nhập khẩu và quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng hóa nhập khẩu đối
với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Theo điều tra của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

(GATT) - tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) - cho thấy có
nhiều vấn đề nảy sinh liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại. Vì
thế, Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại có hiệu lực mang tính
nhiều bên ở giai đoạn cuối cùng của Vòng đàm phán thương mại Tokyo về
GATT năm 1980 đã được hình thành. Năm 1994, Hiệp định thành lập WTO
đã hợp nhất Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (The Agreement
on Technical Barriers to Trade- TBT) là một trong các biện pháp phi thuế
quan của thương mại hàng hoá1. Rào cản này liên quan tới việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo cung cấp cho thị trường sản phẩm, hàng
hoá có chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Các biện pháp này có
thể bao gồm các yêu cầu nêu trong các tiêu chuẩn sản phẩm, hàng hoá, trong
các quy định của cơ quan có thẩm quyền đối với chất lượng, vệ sinh, an toàn
của sản phẩm, quá trình sản xuất và các quá trình có liên quan khác như ghi
dấu (marking), ghi nhãn (labelling), việc vận chuyển, bảo quản đối với sản
phẩm, hàng hoá.
Trong các rào cản này có rào cản cần thiết, hợp pháp, cần duy trì để đảm
Văn phòng Thông báo và Hỏi đáp quốc gia về Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong
thương mại, cam kết và thực thi cam kết của Việt Nam, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, tr. 19.
1


8

bảo an toàn, sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng, bảo vệ môi trường sống,
an ninh quốc gia, chống gian lận thương mại… Bên cạnh đó cũng có những
rào cản kỹ thuật được dựng lên để hạn chế thương mại của nước khác hoặc
mang tính phân biệt đối xử, như dành ưu đãi cho nước này, song khắt khe với
nước khác, nới lỏng quản lý đối với hàng hoá trong nước, song quản lý chặt
chẽ đối với hàng nhập khẩu… Những rào cản như vậy trở thành rào cản thực

sự đối với thương mại quốc tế, đi ngược lại các nguyên tắc của thương mại tự
do mà WTO đề ra và cần được loại bỏ.
1.2. Sự cần thiết của việc thiết lập rào cản kỹ thuật trong thƣơng
mại
Trong những năm gần đây, nhiều tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
được các nước chấp nhận đã tăng lên đáng kể. Các chính sách tăng cường
quản lý song hành với mức sống ngày một cao hơn, nhu cầu của người tiêu
dùng mong muốn có những sản phẩm chất lượng cao và an toàn. Việc gia
tăng về ô nhiễm nguồn nước, không khí và đất đã thúc đẩy các xã hội hiện
đại tăng cường sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Việc
thông qua Hiệp định về các rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định
TBT – Agreement on Technical Barriers to Trade) trong khuôn khổ WTO là
nhằm thừa nhận sự cần thiết của các biện pháp kỹ thuật, đồng thời kiểm
soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước thành viên WTO sử
dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ. Hiệp định TBT đưa
ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ
khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình
đánh giá hợp chuẩn, hợp quy của hàng hoá.
Để có một sự đánh giá chính xác về tác động của sự cần thiết phải
tuân thủ các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật nước ngoài khác nhau đối
với thương mại quốc tế, các nhà sản xuất và xuất khẩu đã phải dành một
khoản chi phí đáng kể cho vấn đề này. Nhìn chung, các chi phí này phát


9

sinh do phải dịch các quy chuẩn nước ngoài, thuê các chuyên gia kỹ thuật
để giải thích các quy chuẩn nước ngoài và điều chỉnh thiết bị sản xuất để
phù hợp với các yêu cầu trong quy chuẩn. Ngoài ra, còn cần phải chứng
minh rằng sản phẩm xuất khẩu đáp ứng các quy chuẩn nước ngoài đó. Chi

phí cao có thể làm nản lòng các nhà sản xuất trong việc cố gắng đưa sản
phẩm của họ ra thị trường nước ngoài. Khi thiếu một khuôn khổ pháp lý
quốc tế, rủi ro tồn tại là các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật có thể được
xây dựng và áp dụng chỉ nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước.
Hiệp định TBT đảm bảo rằng các quy chuẩn kỹ thuật không được tạo
ra những rào cản không cần thiết cho thương mại, và cũng thừa nhận rằng
các quốc gia có quyền xây dựng các cơ chế bảo hộ con người, động vật,
thực vật hay bảo vệ sức khoẻ và môi trường. Các điều khoản cơ bản của
Hiệp định này gồm: Đối xử với hàng hoá xuất khẩu của một nước không
kém ưu đãi hơn so với cơ chế đối xử đối với hàng hoá sản xuất trong nước
(đối xử quốc gia) hoặc đối với hàng xuất khẩu của một nước khác (đối xử
tối huệ quốc); Khuyến khích các thành viên hài hòa tiêu chuẩn quốc gia với
tiêu chuẩn quốc tế nhằm thuận lợi hóa thương mại; Minh bạch trong quá
trình xây dựng, áp dụng và thực hiện các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật;
Các yêu cầu về thủ tục liên quan tới việc thông báo cho WTO các vấn đề
có liên quan tới TBT.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về rào cản kỹ thuật trong thƣơng mại và
Việt Nam với Hiệp định WTO/TBT
Rào cản kỹ thuật trong thương mại thực chất là các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn
kỹ thuật đó. Hệ thống tiêu chuẩn được phân làm ba cấp bao gồm: tiêu chuẩn
quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn quốc gia. Để xây dựng rào cản kỹ
thuật đảm bảo vệ sinh, an toàn, hài hòa tiêu chuẩn giữa các nước xuất khẩu,
nhập khẩu, thúc đẩy thương mại toàn cầu... đã có nhiều tổ chức tiêu chuẩn


10

hóa quốc tế được hình thành như: Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO); Ủy
ban Tiêu chuẩn Thực phẩm (CODEX); Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế (IEC);

Liên đoàn Viễn thông Quốc tế (ITU); Hay các tổ chức tiêu chuẩn hóa khu vực
như: Ủy ban Châu Âu về Tiêu chuẩn hóa (CEN); Viện Tiêu chuẩn Viễn thông
Châu Âu (ETSI); Ủy ban Tiêu chuẩn liên Mỹ (COPANT).
Về Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO): ISO được thành lập năm
1946 tại London, là tập hợp của các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia và là tổ
chức tiêu chuẩn hoá lớn nhất thế giới hiện nay. Thành viên của ISO là cơ
quan tiêu chuẩn hóa quốc gia và mỗi quốc gia chỉ có một cơ quan/tổ chức
đại diện tham gia. Mục tiêu của ISO là thúc đẩy sự phát triển của công tác
tiêu chuẩn hoá và các hoạt động có liên quan nhằm tạo thuận lợi cho việc
trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới cũng như góp phần
vào việc phát triển sự hợp tác trong lĩnh vực trí tuệ, khoa học, công nghệ và
kinh tế. Kết quả của các hoạt động kỹ thuật của ISO là các tiêu chuẩn quốc
tế ISO. Phạm vi hoạt động của ISO bao gồm tất cả các lĩnh vực, trừ điện và
điện tử thuộc phạm vi trách nhiệm của Ủy ban Điện Quốc tế (IEC).
1.3.1. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Mỹ
Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Mỹ (ANSI) phối hợp với các tổ chức, cá nhân
có liên quan xây dựng chiến lược tiêu chuẩn quốc gia của Mỹ nhằm tăng năng
lực cạnh tranh ở nước ngoài, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ cho thị trường nội địa.
ANSI đại diện cho Mỹ (như Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc
Bộ Khoa học và Công nghệ đại diện cho Việt Nam) trong các hoạt động tiêu
chuẩn hóa quốc tế, thông qua việc bảo vệ chính sách và quan điểm kỹ thuật
của Mỹ trong các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế và khu vực.
Ngoài ANSI, ở Mỹ có đến 400 tổ chức xây dựng tiêu chuẩn khác nhau
hoạt động. Trong đó có tổ chức lợi nhuận và tổ chức phi lợi nhuận.
Hệ thống tiêu chuẩn hóa ở Mỹ luôn thể hiện là một hệ thống phi tập
trung, phân nhiệm một cách tự nhiên theo lĩnh vực và bao gồm rất nhiều các


11


tổ chức xây dựng tiêu chuẩn (Standards Developing Organizations - SDO) tư
nhân độc lập với nhau. Các SDO bao gồm các các tổ chức tiêu chuẩn (tổ chức
phi lợi nhuận, hoạt động trên cơ sở nguồn thu chính là phát hành tiêu chuẩn
và cung cấp các dịch vụ liên quan đến tiêu chuẩn) và các tổ chức có hoạt
động tiêu chuẩn (tổ chức hợp tác chuyên môn hoặc hợp tác kinh doanh, thực
hiện hoạt động xây dựng tiêu chuẩn trước hết để cung cấp giải pháp kỹ thuật
cho những vấn đề quan tâm chung của các thành viên nội bộ). Mục đích của
hoạt động xây dựng tiêu chuẩn của các SDO rất đa dạng. Các SDO đều hướng
hoạt động của mình vào việc phục vụ những nhu cầu cụ thể của các ngành
công nghiệp, Chính phủ và người tiêu dùng, góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá Mỹ trên thị trường toàn cầu.
Ở Mỹ, Hiệp hội Quốc tế về Thử nghiệm và Vật liệu (International
Association for Testing and Materials) ra đời năm 1886 với nhiệm vụ xây
dựng các phương pháp thử tiêu chuẩn hoá đối với vật liệu. Năm 1898, một bộ
phận của hiệp hội này đã tách ra và trở thành Hội Thử nghiệm và Vật liệu Mỹ
(American Society for Testing and Materials - ASTM). ASTM đã ban hành
tiêu chuẩn ASTM đầu tiên (về ray đường sắt chữ T) vào năm 1901 và trở
thành một tổ chức độc lập vào năm 1902. Năm 2001, ASTM đã đổi tên thành
ASTM Quốc tế (ASTM International). Hiện nay, ASTM Quốc tế là một trong
những tổ chức tiêu chuẩn tư nhân lớn nhất của Mỹ cả về phạm vi hoạt động ở
tầm quốc tế và số lượng tiêu chuẩn đã xây dựng. ASTM hiện có hơn 12.000
tiêu chuẩn ASTM hiện hành và với 30.000 hội viên toàn cầu của trên 140
quốc gia, 142 Ủy ban kỹ thuật và hơn 1.900 Tiểu ủy ban kỹ thuật và hoạt
động xây dựng tiêu chuẩn ASTM.2
Ngoài ra còn có rất nhiều tổ chức tiêu chuẩn khác, như: Tổ chức Hợp tác
giữa các phòng thí nghiệm; Hội Kỹ sư ô tô (Society of Automotive Engineers
Theo website của ASTM International,
/>30/6/2017.
2


ngày

truy

cập


12

- SAE); Hiệp hội Phòng cháy, chữa cháy Quốc gia (National fire Protection
Association - NFPA); Hiệp hội Công nghiệp Hàng không - Vũ trụ Mỹ
(Aerospace Industries Association of America - AIA); Hiệp hội Đường sắt
Mỹ (Association of American Railroads – AAR); Hiệp hội kỹ thuật ngành
Giấy và Các-tông (Technical Association of the Pulp and Paper Industry –
TAPPI); Viện Kỹ sư Điện-Điện tử (Institute of Electrical and Electronics
Engineers - IEEE); Quỹ Quốc gia cho các hệ thống vệ sinh (National
Sanitation Foundation - NSF),...
Nhìn chung, hệ thống tiêu chuẩn hóa ở Mỹ là một hệ thống mềm dẻo,
linh hoạt, bao gồm các tổ chức hoạt động độc lập với nhau. Hệ thống này phù
hợp với bản chất của nền kinh tế Mỹ: định hướng thị trường, đa dạng về nhu
cầu và sự phát triển, sáng tạo trong bối cảnh không có sự kiểm soát mà chỉ có
sự tham gia từ phía Chính phủ. Tiêu chuẩn được xây dựng để đáp ứng các nhu
cầu cụ thể của các ngành công nghiệp, cơ quan chính phủ và người tiêu dùng.
Tính tự nguyện của hệ thống tiêu chuẩn hóa ở Mỹ được thể hiện cả trong hoạt
động xây dựng tiêu chuẩn lẫn áp dụng tiêu chuẩn và được định hướng bởi nhu
cầu của các bên liên quan. Các chủ thể xây dựng tiêu chuẩn chính là các SDO
và các tập đoàn (consortia), trong đó các SDO thường xây dựng các tiêu
chuẩn đồng thuận, tự nguyện áp dụng theo phương pháp ban kỹ thuật
(Committee method) còn các tập đoàn thường xây dựng các tiêu chuẩn của
riêng họ theo phương pháp tham vấn - thảo luận (Canvass method). Các tiêu

chuẩn tự nguyện áp dụng được các SDO xây dựng theo thủ tục, quy trình dựa
trên những nguyên tắc minh bạch, công khai, đồng thuận với sự phối hợp chặt
chẽ với các bên liên quan.
Sự quan tâm và sự tham gia của rất nhiều tổ chức có liên quan đến hoạt
động xây dựng tiêu chuẩn đã chứng tỏ vai trò và tác động to lớn của tiêu
chuẩn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ở Mỹ, định hướng
vào việc đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng của thị trường. Khác với Việt Nam,


13

Mỹ tuy có rất nhiều các tổ chức tiêu chuẩn và tổ chức có hoạt động tiêu chuẩn
nhưng những tổ chức đó hoạt động không có sự liên kết mang tính hệ thống
với nhau và không chịu sự điều phối của bất kỳ một thực thể nào.
Ngoài ra, hệ thống tiêu chuẩn của Mỹ không đề cập đến tiêu chuẩn cơ
sở, nguyên tắc xây dựng tiêu chuẩn cơ sở khác với việc xây dựng tiêu chuẩn
quốc gia. Nguyên tắc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia ở Mỹ được khuyến khích
áp dụng là tự nguyện và đồng thuận (voluntary and consensus) vì vậy không
do cơ quan quản lý nhà nước ban hành mà do tổ chức xây dựng tiêu chuẩn
ban hành. Sự tồn tại của các tổ chức xây dựng tiêu chuẩn khẳng định mối
quan tâm của thị trường đối với họ.
Các quy định về kỹ thuật ở Mỹ được áp dụng vì các mục đích an toàn và
sức khỏe đối với những sản phẩm nhập khẩu. Hàng hóa lưu thông trên thị
trường Mỹ đều phải đáp ứng được những đòi hỏi của nhà nước về nhãn hiệu,
độ an toàn, đảm bảo sức khỏe. Cục Hải quan Mỹ chịu trách nhiệm thi hành
các quy định kỹ thuật tại cửa khẩu, phối hợp với các cơ quan chịu trách nhiệm
đối với sản phẩm quy định, các mặt hàng nhập khẩu có thể bị từ chối không
được nhập khẩu nếu không đáp ứng được tiêu chuẩn theo quy định. Việc đánh
giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật do chính quyền liên
bang, bang, địa phương hoặc cơ quan kiểm tra độc lập do người sản xuất hay

người nhập khẩu thực hiện. Đặc biệt, việc đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn
ở Mỹ căn cứ chủ yếu vào sự tự khai của người sản xuất hay người nhập khẩu
(Luật Trách nhiệm đối với sản phẩm).
1.3.2. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Canada
Hội đồng Tiêu chuẩn Canada (SCC) là cơ quan đầu mối về vấn đề tiêu
chuẩn hóa và đánh giá hợp chuẩn ở Canada. Hệ thống tiêu chuẩn của Canada
gồm: tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn địa phương. Canada luôn cố gắng tạo
lập sự hài hòa giữa các hệ tiêu chuẩn nhưng các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu
chuẩn vẫn có sự khác nhau giữa các địa phương.


14

Theo Luật Môi trường Dược phẩm, sản phẩm sinh vật sống phải được
phân loại và thông báo các số liệu kiểm tra về tính chất sinh hóa, tác động môi
trường, tỉ lệ độc tố trong sản phẩm. Luật cũng cấm các sản phẩm có nhãn hiệu
ghi thông tin sai lệch hoặc lừa dối. Những nhà cung cấp có quá trình tuân thủ
tốt quy định của Cục Kiểm tra Thực phẩm Canada sẽ được liệt vào danh sách
A, những nhà cung cấp này sẽ ít bị kiểm tra hơn. Còn nếu nhà cung cấp không
đáp ứng được yêu cầu thì sẽ bị đưa vào danh mục cảnh báo nhập khẩu, các
chuyến hàng của nhà cung cấp thuộc danh mục này đều sẽ bị kiểm tra.
Hàng hóa được nhập khẩu vào Canada chủ yếu qua đường biển. Các kiện
hàng phải được dán nhãn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp với đầy đủ các thông
tin về tên, loại sản phẩm, trọng lượng, số lượng, tên và địa chỉ nhà sản xuất
hay xuất khẩu, ngày tháng đóng gói, nước và vùng xuất xứ, mã vạch,...
Các loại nhuyễn thể hai mảnh đông lạnh hoặc tươi sống như sò, trai chỉ
được phép nhập khẩu từ các nước có chương trình kiểm soát vệ sinh dịch tễ
của Cục Kiểm tra Thực phẩm. Giấy chứng nhận có đóng dấu của Trung tâm
Dịch vụ Nhập khẩu thuộc Cục Kiểm tra Thực phẩm là điều kiện bắt buộc.
1.3.3. Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại của Trung Quốc

Cơ quan Tiêu chuẩn hóa của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (SAC)
được Hội đồng Nhà nước ủy quyền và thuộc Tổng cục Kiểm dịch, Thanh tra
và Giám sát chất lượng Trung Quốc (AQSIQ) thực hiện các chức năng hành
chính và thi hành quản lý tập trung về tiêu chuẩn hóa tại Trung Quốc. Trong
khi các cơ quan tiêu chuẩn hóa có thẩm quyền liên quan của Hội đồng Nhà
nước được giao trách nhiệm quản lý công tác tiêu chuẩn hóa trong các lĩnh
vực chuyên môn thì các cơ quan tiêu chuẩn hóa ở các tỉnh, các vùng tự trị, các
thành phố trực thuộc trung ương, các thành phố và các quận sẽ thi hành quản
lý thống nhất công tác tiêu chuẩn hóa ở các khu vực hành chính đó và sẽ
thành lập các cơ quan tiêu chuẩn hóa trong chính quyền địa phương. SAC
quản lý công việc kinh doanh của các cơ quan giám sát kỹ thuật cấp tỉnh và


15

quản lý trực tiếp trong hệ thống các cơ quan giám sát kỹ thuật dưới cấp tỉnh.
SAC đại diện cho Trung Quốc tham gia vào các hoạt động của Tổ chức
Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) và Uỷ ban Kỹ thuật điện quốc tế (IEC) và các
tổ chức tiêu chuẩn hóa khu vực và quốc tế khác.
Theo pháp luật của Trung Quốc về tiêu chuẩn an toàn và chất lượng sản
phẩm, một số mặt hàng nhập khẩu phải được giám định và chứng nhận phù
hợp với tiêu chuẩn bắt buộc của quốc gia, tiêu chuẩn mậu dịch trong nước và
tiêu chuẩn quy định trong hợp đồng. Một số sản phẩm được cấp giấy chứng
nhận sẽ được dán nhãn an toàn sản phẩm. Về dán nhãn thực phẩm, luật cũng
yêu cầu tất cả hàng thực phẩm đóng gói nhập khẩu phải ghi nhãn bằng tiếng
Trung Quốc, ghi rõ loại sản phẩm, tên nhãn hiệu, tên thương mại, tên và địa
chỉ nhà sản xuất , nước xuất xứ, thành phần cấu thành, ngày sản xuất, hạn sử
dụng. Đối với thực phẩm nhập khẩu như kẹo, rượu, thực phẩm đóng hộp,…
phải được dãn tem với nhãn dính laze chứng nhận an toàn thực phẩm.
Cụ thể, Trung Quốc áp dụng hệ thống chứng nhận bắt buộc vào danh

sách những mặt hàng liên quan có hiệu lực từ ngày 01/5/2002 để hạn chế
nhập khẩu. Ngày 01/5/2003, một số loại hàng nhập khẩu phải ghi dấu CCC
(China Compulsory Certification) trên sản phẩm khi lưu thông trên thị trường.
Hệ thống CCC không chấp nhận bất cứ giấy chứng nhận nào được cấp ở nước
ngoài, kể cả có phù hợp với tiêu chuẩn Trung Quốc. Hàng nhập khẩu phải đưa
vào phòng thí nghiệm ở Trung Quốc để kiểm tra.
Nếu như ở Việt Nam chỉ có hai cấp tiêu chuẩn là tiêu chuẩn quốc gia và
tiêu chuẩn cơ sở thì ở Trung Quốc áp dụng 4 loại tiêu chuẩn là: tiêu chuẩn
quốc gia, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn địa phương và tiêu chuẩn doanh
nghiệp.
1.3.4. Việt Nam và Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại
Từ ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) và bắt đầu thực hiện các cam kết gia nhập


16

của mình, bao gồm việc mở cửa thị trường, giảm dần các rào cản thuế quan và
rào cản phi thuế quan, trong đó có rào cản kỹ thuật được WTO đề cập trong
Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT).
Cam kết trong việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ các rào cản kỹ thuật không
cần thiết trong thương mại khi gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam điều chỉnh hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về kỹ thuật, các tiêu chuẩn và các quy
trình đánh giá sự phù hợp theo các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TBT
như: không phân biệt đối xử, không cản trở thương mại và công khai minh
bạch hóa trong quá trình xây dựng và thực thi các biện pháp kỹ thuật.
Để thực hiện các cam kết đối với Hiệp định TBT, ngay từ khi chưa phải
là thành viên của WTO, ngày 26/5/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 444/QĐ-TTg phê duyệt đề án triển khai thực hiện Hiệp định
TBT và Quyết định số 114/2005/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành Quy

chế tổ chức và hoạt động của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp
của Việt Nam về TBT.
Hiệp định TBT có một số điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật giữa các thành
viên với nhau trong việc chuẩn bị các quy định kỹ thuật, thành lập các cơ
quan tiêu chuẩn hóa quốc gia và tham gia vào các tổ chức quốc tế. Ngoài ra,
Hiệp định TBT công nhận các nước đang phát triển (trong đó bao gồm Việt
Nam) có thể chấp nhận các quy chuẩn, tiêu chuẩn và các quy trình đánh giá
sự phù hợp với mục đích bảo vệ các công nghệ, phương thức và quy trình sản
xuất mang tính bản xứ, do vậy không phải áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
không phù hợp với sự phát triển, nhu cầu về tài chính, thương mại của mình.
Quốc hội của Việt Nam đã thông qua các đạo luật cơ bản để điều chỉnh
các hoạt động có liên quan trực tiếp đến Hiệp định TBT, trong đó có: Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH11 ngày 29/6/2006 và Luật
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa số 05/2007/QH12 ngày 21/11/2007. Đồng
thời, Việt Nam đã cam kết tuân thủ toàn bộ nghĩa vụ theo Hiệp định TBT yêu


17

cầu, mà không có thời gian chuyển đổi. Bên cạnh đó, để tăng cường tính dự
báo trước và công khai minh bạch, Việt Nam còn cam kết ban hành các quy
định pháp luật nhằm cụ thể hoá các điều khoản liên quan đến quy chuẩn kỹ
thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp được quy định trong Hiệp định TBT.
So với các nước phát triển thì hệ thống rào cản kỹ thuật ở Việt Nam còn
thiếu chặt chẽ và lạc hậu. Hệ thống tiêu chuẩn chưa cao do số lượng tiêu
chuẩn được xây dựng trên cơ sở chấp nhập của tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn
khu vực, tiêu chuẩn của các nước tiên tiến còn thấp. Một số quy định của
pháp luật đã không còn phù hợp với tình hình thực tế phát triển kinh tế xã hội,
chưa đáp ứng hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Việt Nam đã ký kết tham gia các Hiệp định thương mại tự do đa phương,

song phương như: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Việt Nam - Liên minh
Á Âu, Hiệp định Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - Nhật Bản..., trong đó đưa
ra các quy định về loại bỏ rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) theo
hướng nới lỏng hơn, mở hơn so với các cam kết, quy định trong các hiệp định
trước đây về tiêu chuẩn, quy chuẩn và đánh giá sự phù hợp. Để các hiệp định
hoạt động có hiệu quả, cần đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, thứ bậc của
toàn bộ hệ thống văn bản luật và dưới luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
loại bỏ các điều khoản không còn phù hợp với thực tế, tránh chồng chéo, mâu
thuẫn giữa các điều khoản.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống hầu hết các quốc gia trong khối
ASEAN, tiêu chuẩn quốc gia do một cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia ban
hành. Các cơ quan này chịu trách nhiệm ban hành tiêu chuẩn quốc gia và đại
diện trong các tổ chức quốc tế và khu vực về tiêu chuẩn hóa. Ví dụ: Tại Thái
Lan là Viện Tiêu chuẩn công nghiệp Thái Lan (TISI) thuộc Bộ Công nghiệp;
tại Malaysia là Tổng cục Tiêu chuẩn Malaysia (DSM) thuộc Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường; tại Singapore là Cơ quan tiêu chuẩn (PSB); tại


18

Indonesia là Cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia thuộc Chính phủ (BSN); còn ở
Việt Nam là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Bộ Khoa học
và Công nghệ (STAMEQ). Hệ thống tiêu chuẩn hóa ở Việt Nam giống một số
nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia, Indonesia,… tổ chức tiêu chuẩn
hóa quốc gia là cơ quan thuộc Chính phủ, còn các nước công nghiệp phát
triển như Mỹ hay các nước Châu Âu thì tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc gia là
các cơ quan phi chính phủ, hiệp hội, tổ chức cá nhân. Nhưng điểm chung là
dù ở hình thức nào thì Chính phủ vẫn có vai trò quan trọng trong việc phối
hợp hoạt động của các tổ chức này.

Việt Nam cần đổi mới cơ chế quản lý, quy hoạch, kế hoạch, quy trình
thủ tục xây dựng tiêu chuẩn quốc gia theo hướng đề cao, tăng cường vai trò
của doanh nghiệp, khu vực tư nhân, với mục tiêu xây dựng tiêu chuẩn phải
thực sự xuất phát từ nhu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng được trọng tâm quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Giống như hầu hết các quốc gia khác, Việt Nam cũng sử dụng các tiêu
chuẩn quốc tế làm cơ sở để biên soạn các tiêu chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, quy
trình cần phải cụ thể để vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và vừa phù hợp
với trình độ phát triển khoa học công nghệ trong nước.
Hiện nay ở Việt Nam, các bộ, ngành thường khép kín trong công tác dự
thảo, phê duyệt kế hoạch xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của mình,
dẫn đến tình trạng cùng một đối tượng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia có nhiều
bộ cùng quản lý. Vì vậy, cần có cơ chế quản lý thống nhất về thẩm định quy
hoạch, kế hoạch xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia để đảm bảo phát triển
hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đồng bộ, phù hợp thông lệ quốc tế,
tránh chồng chéo và sử dụng ngân sách nhà nước hiệu quả hơn.
1.4. Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về rào cản kỹ thuật
trong thƣơng mại
Để nâng cao tính pháp lý điều chỉnh các hoạt động liên quan đến rào cản


19

kỹ thuật trong thương mại trên cơ sở đảm bảo sự tương thích với các nguyên
tắc cơ bản của Hiệp định WTO/TBT, hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam
về rào cản kỹ thuật đã tương đối đầy đủ. Trong đó, Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật được thông qua trước khi Việt Nam trở thành thành viên của
WTO và đã cơ bản diễn giải các nguyên tắc của Hiệp định WTO/TBT ở Việt
Nam. Đồng thời, các Bộ, ngành và địa phương đã rà soát đồng bộ trên diện
rộng và lên kế hoạch thực hiện sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại để đảm bảo không vi
phạm các nguyên tắc của Hiệp định WTO/TBT.
Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về rào cản kỹ thuật trong
thương mại bao gồm các văn bản sau:
- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn và kỹ thuật năm 2006;
- Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007;
- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật;
- Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
- Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 về nhãn hàng hóa, bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 (thay thế Nghị định số 89/2006/NĐ-CP về
nhãn hàng hóa);
- Quyết định số 444/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
triển khai thực hiện Hiệp định TBT;
- Quyết định số 114/2005/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp
của Việt Nam về TBT;
- Thông tư số 21/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và
Công nghệ hướng dẫn về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn;
- Thông tư số 23/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và


20

Công nghệ hướng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành quy chuẩn kỹ thuật.
- Hệ thống Tiêu chuẩn quốc gia, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Về mức độ tương thích của hệ thống văn bản pháp luật về rào cản kỹ
thuật theo các nguyên tắc chủ yếu của Hiệp định TBT, bao gồm: không phân
biệt đối xử, không cản trở thương mại quá mức cần thiết và hài hòa với tiêu

chuẩn quốc tế là đạt yêu cầu. Những điểm cụ thể được thể hiện như sau:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Tiêu chuẩn Quốc gia được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế,
không chứa đựng hoặc ít các yếu tố mang tính phân biệt đối xử. Tính đến hết
năm 2016, số lượng Tiêu chuẩn Quốc gia được xây dựng trên cơ sở chấp nhận
và hoàn toàn đồng nhất với tiêu chuẩn quốc tế là khoảng 47%3 so với tổng số
tiêu chuẩn quốc gia được ban hành. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật được xây
dựng chủ yếu dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn
khu vực và các tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật nước ngoài. Nguyên tắc không
phân biệt đối xử của Hiệp định TBT luôn được các cơ quan tuân thủ trong quá
trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật.
- Nguyên tắc không cản trở thương mại
Pháp luật quy định việc soát xét và có kế hoạch xây dựng mới hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, nhằm hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế để đảm
bảo tính đồng thuận cần thiết giữa các thành viên, không gây ra trở ngại
không cần thiết đối với thương mại quốc tế và loại bỏ các tiêu chuẩn lạc hậu
không phù hợp với trình độ khoa học và công nghệ hiện tại.
- Nguyên tắc minh bạch hóa
Các điều khoản minh bạch hóa của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật tương tự như các điều khoản được quy định trong Phụ lục 3 của Hiệp
định TBT về quy chế thực hành tốt đối với việc xây dựng, chấp nhận và áp
Theo Báo cáo tổng kết năm 2016 của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học
và Công nghệ
3


×