Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực hiện tại thành phố ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.38 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUỲNH OANH

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUỲNH OANH

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thị Hằng

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quỳnh Oanh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1

BHHT

Bảo hiểm hưu trí

2


BHXH

Bảo hiểm xã hội

3

NLĐ

Người lao động

4

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10

2.11
2.12
2.13
3.1

Tên bảng
Trang
Số đơn vị sử dụng lao động và người lao động tham gia đóng
48
BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Ninh Bình
Số thu BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Ninh Bình giai đoạn
52
2012 – 2016
Số doanh nghiệp phải tham gia và đã tham gia đóng BHXH trên
53
địa bàn thành phố Ninh Bình giai đoạn 2012 - 2016
Số tiền nợ đọng BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Ninh Bình
54
giai đoạn 2012 - 2016
Số người lao động hưởng BHXH hàng tháng trên địa bàn thành
57
phố Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2016
Tình hình đối tượng hưởng chế độ BHXH một lần trên địa bàn
58
thành phố Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2016
Dự toán và thực hiện chi BHXH bắt buộc một lần trên địa bàn
60
thành phố Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2016
Số đối tượng tham gia BHHT tự nguyện trên địa bàn thành phố
61

Ninh Bình giai đoạn 2012 - 2016
Số thu BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Ninh Bình giai
62
đoạn 2012 – 2016
Tình hình đối tượng hưởng chế độ BHXH tự nguyện hàng tháng
63
trên địa bàn thành phố Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2016
Số chi chế độ BHXH tự nguyện hàng tháng trên địa bàn thành phố
64
Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2016
Số NLĐ hưởng chế độ BHXH một lần trên địa bàn thành phố Ninh
65
Bình giai đoạn 2012 – 2016
Số chi BHXH tự nguyện một lần trên địa bàn thành phố Ninh Bình
66
giai đoạn 2012 – 2016
Độ tuổi nghỉ hưu của một số quốc gia trên thế giới
74


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1

Tính cấp thiết của đề tài

1


2

Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5

4

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5

5

Phương pháp nghiên cứu

6

6

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6


7

Bố cục luận văn

7

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ

8

NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO
HIỂM HƯU TRÍ

1.1

Khái niệm bảo hiểm hưu trí

8

1.1.1

Định nghĩa và đặc điểm của bảo hiểm hưu trí

8

1.1.1.1

Định nghĩa bảo hiểm hưu trí


8

1.1.1.2

Đặc điểm của bảo hiểm hưu trí

11

1.1.2

Nguyên tắc của bảo hiểm hưu trí

12

1.1.2.1

Các nguyên tắc chung

12

1.1.2.2

Các nguyên tắc riêng

15

1.1.3

Vai trò của bảo hiểm hưu trí


16

1.2

Nội dung quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm hưu trí

18

1.2.1

Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc

18

1.2.1.1

Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng

18

1.2.1.2

Chế độ bảo hiểm xã hội một lần

31

1.2.2

Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội tự nguyện


35

1.2.2.1

Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng

35

1.2.2.2

Chế độ bảo hiểm xã hội một lần

39

1.2.3

Chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung

41


Kết luận chương 1
Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ

44
45

TẠI THÀNH PHỐ NINH BÌNH

2.1


Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Ninh

45

Bình
2.1.1

Vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội

45

2.1.2

Cơ quan thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở thành phố

46

Ninh Bình
2.2

Tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí tại thành phố

48

Ninh Bình
2.2.1

Việc thực hiện chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc


48

2.2.1.1

Thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng

48

2.2.1.2

Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội một lần

58

2.2.2

Việc thực hiện chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội tự

60

nguyện
2.2.2.1

Thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng

60

2.2.2.2

Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội một lần


65

2.2.3

Việc thực hiện chế độ hưu trí bổ sung

67

Kết luận chương 2

69

Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO

70

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM HƯU TRÍ TẠI THÀNH PHỐ NINH BÌNH

3.1

Yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm hưu trí

70

3.2

Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm hưu


71

trí
3.3

Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định

79

pháp luật về bảo hiểm hưu trí tại thành phố Ninh Bình
Kết luận chương 3

89

KẾT LUẬN

90


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi quốc gia, thể hiện bản chất
nhân văn sâu sắc vì đời sống vật chất và đời sống tinh thần của mọi lao động.
Bảo hiểm xã hội được hình thành một cách khách quan, theo nhu cầu thực tế
và nguyện vọng chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động.
Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí đóng vai trò rất quan trọng,
là chế độ bảo hiểm dài hạn, bảo hiểm tuổi già cho người tham gia, chiếm phần
quan trọng nhất cả về quy mô thực hiện, nội dung và nhu cầu tham gia của

người lao động trong xã hội. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bảo hiểm
hưu trí là một trong những lĩnh vực có ảnh hưởng tác động nhiều mặt đến đời
sống kinh tế xã hội của đất nước, vì vậy luôn được quan tâm để việc tổ chức,
quản lý và thực hiện có hiệu quả nhất. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế và
cơ cấu dân số xã hội, bảo hiểm hưu trí được xây dựng tương đối khác biệt
theo từng quốc gia.
Ở nước ta, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói
riêng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ những ngày đầu thành lập
Nước. Sắc lệnh số 54/SL ngày 01/11/1945 của Chính phủ đánh dấu những
quy định đầu tiên về điều kiện và mức lương hưu được hưởng của công chức
khi hết tuổi lao động. Tiếp đến là các Nghị định số 218 - CP ngày 27/12/1961
của Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã
hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Từ đó, chính sách bảo hiểm hưu
trí không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát
triển của đất nước, đặc biệt là từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ngày 29/6/2006, Quốc Hội thông qua Luật bảo hiểm xã hội
năm 2006 có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 là cột mốc quan trọng về việc hoàn


2

thiện hành lang pháp lý chế độ bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm
hưu trí nói riêng.
Theo Nghị quyết số 21 – NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội giai đoạn 2012 – 2020 ngày
22/11/2012 đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao
động tham gia bảo hiểm xã hội; tốc độ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân các năm vừa qua vào khoảng 5-7%, vì vậy để đạt được mục
tiêu trên là một thách thức lớn đối với ngành bảo hiểm xã hội và hệ thống

chính trị. Hàng năm số thu vào Quỹ hưu trí và tử tuất đều lớn hơn số chi,
nhưng trong tương lai số người nghỉ hưu hưởng từ quỹ càng nhiều. Dự báo
đến năm 2023, Quỹ hưu trí và tử tuất sẽ có số thu bằng số chi và đến năm
2037 số thu bảo hiểm xã hội trong năm và dự trữ không đảm bảo khả năng chi
trả, nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Trong khi đó, trên thế giới tốc độ già hóa đang tiến triển nhanh chóng,
không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ
già hóa nhanh nhất ở Châu Á, đứng thứ 7 trên thế giới, đang nằm trong thời
kỳ dân số vàng, cho thấy những thành tựu trong việc cải thiện chăm sóc sức
khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo Điều tra dân
số và nhà ở giữa kỳ năm 2014 về Cơ cấu, giới tính và một số vấn đề kinh tế
xã hội ở Việt Nam của Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ trọng người cao tuổi sẽ
còn tăng nhanh trong thời gian tới, năm 2014 chỉ số già hóa là 43,3%, nghĩa là
có 43,3 người già từ 60 tuổi trở lên trên 100 trẻ em dưới 15 tuổi, trong khi
năm 1979 con số này là 16,6% 1. Xu hướng biến đổi dân số theo hướng già
hóa đã đặt ra nhiều thách thức lên hệ thống tài chính quốc gia mà cụ thể là hệ
thống tài chính hưu trí trong vài thập kỷ tới.

Tổng Cục Thống kê (2016), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2014 cơ cấu tuổi , giới tính và một
số vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà Nội, tr.60.
1


3

Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực đi vào thực tiễn thực hiện từ
ngày 01/01/2016, đã có những điểm mới khắc phục những tồn tại, hạn chế của
Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, đã cơ bản đáp ứng yêu cầu của việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội trong điều kiện mới; tuy nhiên trước những bất
cập và thách thức lớn nêu trên, ở Việt Nam cần có những cải cách toàn diện

về hệ thống hưu trí mang tính hệ thống phù hợp với những biến đổi dân số và
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời phải công bằng, không phân
biệt khu vực kinh tế, đảm bảo bình đẳng giới, quan tâm đến quyền lợi của mọi
tầng lớp xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em chọn đề tài: “Pháp
luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực hiện tại thành phố Ninh Bình”
làm luận văn thạc sĩ. Với mong muốn nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về bảo hiểm hưu trí, qua đó nêu thực tiễn thực hiện tại thành phố
Ninh Bình nơi bản thân đang cư trú, để có được những phân tích sát với thực
tế áp dụng tại địa phương, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật về bảo hiểm hưu trí và một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm hưu trí tại thành phố
Ninh Bình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí, các đề
tài luận án, luận văn, khóa luận về chế độ bảo hiểm hưu trí nhằm phân tích
những ưu điểm, hạn chế trong quy định của pháp luật; đề ra những giải pháp
hoàn thiện để sửa đổi bổ sung quy định pháp luật và chính sách Nhà nước để
các cơ quan chuyên môn, các ban ngành tham khảo. Cụ thể:


Sách, đề tài nghiên cứu khoa học:

-

Nguyễn Hiền Phương: Bình luận khoa học những nội dung cơ bản của

Luật bảo hiểm xã hội, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2016.



4



Báo, tạp chí:

-

Bùi Ngọc Thanh: Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật Bảo hiểm

xã hội, Nghiên cứu lập pháp, số 19, tháng 10/2013.
-

Bùi Sỹ Lợi: Những quan điểm lớn và sự cần thiết sửa đổi Luật Bảo

hiểm xã hội, Nghiên cứu lập pháp, số 7, tháng 4/2014.
-

Nguyễn Hồng Ngọc: Về tuổi nghỉ hưu trong dự thảo Bộ luật lao động

(sửa đổi), Nghiên cứu lập pháp, số 11, tháng 6/2012.
-

Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân: Một số bình luận pháp lý liên

quan đến Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Tạp chí Luật học, số 6,
năm 2015.
-

Nguyễn Hiền Phương: Những điểm mới về chế độ bảo hiểm theo luật


bảo hiểm xã hội năm 2014, Tạp chí Luật học, số 10, năm 2015.


Luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp:

-

Đỗ Văn Sinh: Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với

hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2005.
-

Nguyễn Hiền Phương: Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và

hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Hà Nội, năm
2005.
-

Nguyễn Thị Oanh: Pháp luật về bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội, năm 2015.
-

Nguyễn Lệ Huyền: Bảo hiểm hưu trí – Thực trạng và kiến nghị, Luận

văn thạc sỹ, Hà Nội, năm 2015.
-


Đặng Thị Vân Khánh: Bảo hiểm xã hội tự nguyện – 5 năm thực hiện và

một số kiến nghị hoàn thiện, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội, năm 2013.


5

-

Hoàng Quốc Đạt: Bảo hiểm xã hội tự nguyện – Thực trạng và một số

giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội,
năm 2012.
-

Phạm Lan Hương: Pháp luật về bảo hiểm xã hôi bắt buộc và thực tiễn

thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội, năm 2012.
-

Vũ Thu Trang: Tuổi nghỉ hưu của người lao động. Những vấn đề lý

luận và thực tiễn trong quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, năm 2010.
-

Chu Hà Mi: Những điểm mới của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014,

Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, năm 2015.
-


Nguyễn Vương Hoàng: Bảo hiểm xã hội hưu trí – Thực trạng và

phương hướng hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, năm 2012.
Những bài viết này tuy đã phân tích quy định của pháp luật về bảo hiểm
hưu trí, đề cập tới các vấn đề đang được đặt ra như tăng tuổi nghỉ hưu, điều
chỉnh mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội, các giải pháp
chi trả bảo hiểm đúng đối tượng… tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào toàn diện, phân tích cụ thể về các chế độ bảo hiểm hưu trí và
đặc biệt là thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Ninh Bình. Vì vậy, đây
sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về pháp luật bảo hiểm hưu trí và
thực tiễn thực hiện tại thành phố Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về
chế độ bảo hiểm hưu trí, qua đó phân tích thực tiễn thực hiện bảo hiểm hưu trí
tại thành phố Ninh Bình giai đoạn 2012 - 2016, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo hiểm hưu trí và một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Ninh Bình.


6

Phạm vi nghiên cứu: tiếp cận vấn đề bảo hiểm hưu trí dưới góc độ pháp lý
bao gồm các nội dung về lý luận, quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn
thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí tại địa bàn thành phố Ninh Bình trên
các khía cạnh của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo
hiểm hưu trí bổ sung về: đối tượng đóng, điều kiện hưởng; mức hưởng và thời
điểm hưởng, việc thực hiện quy định hồ sơ và thủ tục giải quyết hưởng bảo
hiểm hưu trí hàng tháng và một lần.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống và hoàn thiện những vấn đề lý
luận về bảo hiểm hưu trí trong nền kinh tế xã hội hiện nay, phân tích quy định
pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tại địa bàn thành phố Ninh Bình, từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và phát triển
chế độ bảo hiểm hưu trí tại thành phố Ninh Bình.
Nhiệm vụ nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
bảo hiểm hưu trí, các quy định pháp luật đang có hiệu lực; phân tích thực
trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí trên địa bàn thành phố Ninh
Bình, chỉ rõ thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân. Đề xuất các giải pháp
có tính khả thi cao nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện trên địa bàn thành phố Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp luận của triết học Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đã đề ra và các
chính sách của Nhà nước nhất là trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực kinh
tế xã hội.
Ngoài ra, luận văn chủ yếu đánh giá thực trạng, kết hợp lý luận với thực
tiễn thông qua phương pháp phân tích, thống kê, so sánh các số liệu, phương
pháp logic và tổng hợp để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu của luận văn.


7

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn sẽ làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo hiểm hưu trí
trong hệ thống bảo hiểm xã hội; hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; phân tích quy định của pháp luật hiện hành về
chế độ bảo hiểm hưu trí và nêu ra điểm mới so với luật cũ. Luận văn là công
trình nghiên cứu khá toàn diện về thực hiện bảo hiểm xã hội tại thành phố
Ninh Bình sau một thời gian dài thực hiện bảo hiểm hưu trí bắt buộc và bảo

hiểm hưu trí tự nguyện trong cơ chế thị trường. Từ đó đề xuất các giải pháp
thiết thực nhằm hoàn thiện và nâng cao, chất lượng, hiệu quả công tác bảo
hiểm hưu trí trên địa bàn thành phố.
Vì vậy, luận văn có thể làm tài liệu để nghiên cứu, học tập và giảng dạy tại
các cơ sở đào tạo luật. Ngoài ra, luận văn còn có thể cung cấp kiến thức cho
các cán bộ làm công tác lao động – xã hội nói chung, những người làm công
tác bảo hiểm xã hội, đặc biệt là công tác bảo hiểm hưu trí nói riêng, giúp họ
thực thi chính sách và pháp luật về bảo hiểm hưu trí hiệu quả.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các bảng, danh mục tài
liệu tham khảo; luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm hưu trí và nội dung quy định
pháp luật hiện hành về bảo hiểm hưu trí
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí tại thành phố Ninh
Bình
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện quy định pháp luật về bảo hiểm hưu trí tại thành phố Ninh Bình


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ VÀ NỘI DUNG
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ

1.1. Khái niệm bảo hiểm hưu trí
1.1.1.

Định nghĩa và đặc điểm của bảo hiểm hưu trí


1.1.1.1.

Định nghĩa bảo hiểm hưu trí

Thời cổ đại đã xuất hiện sự tương trợ lẫn nhau mang tính tự phát theo bản
năng trong phạm vi gia đình, thân tộc hoặc trong cộng đồng nhỏ. Đến khi xã
hội có sự phân công lao động, trong khoảng giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời. Sau đó, cuộc cách mạng công
nghiệp trong lĩnh vực sản xuất lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỷ XIX ở châu Âu, đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời, là hiện
thân của quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và sản xuất hàng hóa.
Nền kinh tế hàng hóa đã buộc các chủ tư bản phải thuê mướn công nhân
lao động, lực lượng ngày càng đông nhưng luôn bị bóc lột; do công nhân phải
bán sức lao động để nhận tiền lương trang trải cho cuộc sống nên khi gặp phải
những trường hợp ốm đau, tai nạn, già yếu không làm được việc thì không có
tiền để sinh sống, lâm vào hoàn cảnh khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến xã
hội; đồng thời những hình thức trợ cấp xã hội tự phát không đủ khả năng về
kinh phí để trợ cấp ổn định lâu dài.
Vì vậy, người lao động (NLĐ) đã liên kết tương trợ lập ra các quỹ cứu trợ
người ốm, người bị tai nạn, cứu giúp những NLĐ khi không may gặp những
biến cố bất lợi. Ngoài nguồn đóng góp của NLĐ, của chủ tư bản còn có sự
tham gia của Nhà nước, nguồn đóng góp này đã đảm bảo được lợi ích trong
quan hệ sản xuất của cả đôi bên, quỹ ngày càng lớn mạnh và phát triển nhanh
chóng, là cơ sở hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) nói chung và
bảo hiểm hưu trí (BHHT) nói riêng trên thế giới hiện nay.


9

Nước Đức là quốc gia đầu tiên khởi xướng và ban hành các đạo luật hoàn

chỉnh về BHXH: Luật về ốm đau (năm 1883), Luật về tai nạn (năm 1885),
Luật về hưu trí (năm 1888); sau đó nước Đức ban hành thêm Luật Bảo hiểm
thất nghiệp (năm 1927), Bảo hiểm chăm sóc y tế dài hạn (năm 1995) 2; các
loại hình bảo hiểm này được chia thành bảo hiểm bắt buộc do nhà nước quản
lý và loại hình bảo hiểm tự nguyện do các công ty tư nhân đảm nhiệm. Đến
những năm đầu thể kỉ XIX thì một số nước ban hành luật BHXH và tổ chức
thực hiện như ở Bỉ, Áo, Ý, Pháp; sau đó được lan rộng ở các nước châu Mỹ,
châu Âu và châu Á; BHXH dần dần đã trở thành trụ cột cơ bản của hệ thống
An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền
con người, hiện nay có trên 180 nước có luật về BHXH.
Năm 1919, Tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization ILO) ra đời, là cơ quan đặc biệt của Liên hợp quốc liên quan đến các vấn đề
về lao động, một trong các mục tiêu chiến lược của ILO là tăng phạm vi và
hiệu lực của bảo trợ xã hội. Theo quan niệm của ILO, an sinh xã hội là sự bảo
vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện
pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về
kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm
đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong3. Trong
đó, an sinh xã hội bao gồm: trợ giúp xã hội, BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp, các chương trình giảm nghèo….và có thể nói BHXH là trụ cột
quan trọng nhất.

Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên
thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.318
3
Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2011), “Khái luận chung về an sinh xã hội”,
tại địa chỉ: />ngày truy cập 11/4/2017
2


10


Ngày 28/6/1952, ILO thông qua Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về an
toàn xã hội, đưa ra 9 chế độ trợ cấp cơ bản: Chế độ chăm sóc y tế, trợ cấp ốm
đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất;
trong đó quy định về nội dung của các chế độ như: đối tượng tham gia, điều
kiện hưởng, thời gian hưởng. Điều 25 công ước 102 quy định: Mọi nước
thành viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải đảm bảo cho
người được bảo vệ được nhận trợ cấp tuổi già (hưu bổng) theo những điều
của Công ước. ILO khuyến nghị các nước phải bảo đảm thực hiện BHHT bắt
buộc, chế độ hưu trí luôn được ILO, Chính phủ các nước hết sức quan tâm:
Trợ cấp tuổi già phải là chế độ chi trả định kỳ, trừ 1 số trường hợp hy hữu thì
các quỹ phòng xa quốc gia thực hiện việc chi trả 1 lần nhưng hầu hết không
đặt được mục tiêu đảm bảo nhu cầu của NLĐ khi không còn làm việc nữa4.
Chế độ hưu trí là một dạng trợ cấp bảo hiểm xã hội dành cho người cao
tuổi không thể tiếp tục làm việc bình thường. Khi con người già đi, sức khỏe
bị giảm sút không còn khả năng lao động, thu nhập sẽ giảm hoặc mất đi, phụ
thuộc vào điều kiện phụ cấp của con cháu; để đảm bảo lợi ích cho NLĐ khi
họ hết tuổi lao động và có nguồn thu nhập ổn định thường xuyên, Nhà nước
đã thực hiện chế độ hưu trí. Vì vậy, theo nghĩa chung nhất, BHHT được
hiểu là chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc
không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Dưới góc độ pháp luật, BHHT
là tổng hợp các quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người
tham gia BHXH, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan
hệ lao động. 5
Điều 28 Công ước 102 về quy phạm tối tiểu về an toàn xã hội; tại địa chỉ:
ngày truy cập: 11/4/2017
5
Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr181

4


11

1.1.1.2.

Đặc điểm của bảo hiểm hưu trí

Hầu hết mọi người tham gia BHXH đều là đối tượng của BHHT: nếu như
các chế độ BHXH khác chỉ áp dụng cho một số đối tượng lao động nhất định
(chế độ ốm đau áp dụng cho NLĐ bị ốm đau, tai nạn; chế độ thai sản áp dụng
chủ yếu đối với lao động nữ khi mang thai, sinh con; chế độ tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp chỉ áp dụng cho những NLĐ bị tai nạn lao động, bị bệnh
nghề nghiệp…) thì chế độ BHHT lại áp dụng cho tất cả các đối tượng tham
gia BHXH, ngoại trừ NLĐ chết khi trong độ tuổi lao động.6 Tất cả NLĐ khi
tham gia BHXH khi hết tuổi đều được hưởng BHHT, đây cũng là động lực
chính để NLĐ tham gia BHXH.
BHHT là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài quá trình lao động và có sự
tách biệt giữa đóng và hưởng. Trong suốt quá trình lao động, NLĐ tham gia
đóng phí BHXH và khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng tham gia
quan hệ lao động nữa thì NLĐ sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng
thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi NLĐ chết. Quá trình hưởng này dài
ngắn bao nhiêu tùy thuộc vào tuổi thọ của từng người và những người hưởng
BHHT là những người đã kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo quy
định được nghỉ làm việc và hưởng lương hưu. Trung bình ở Việt Nam, người
nghỉ hưu sẽ được hưởng lương hưu trung bình là 15 năm; còn số tiền NLĐ
đóng góp vào quỹ BHHT dùng để chi trả lương hưu, trợ cấp tuổi già cho thế
hệ trước, như vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình
thành quỹ BHHT, qua đó thể hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít của BHXH.

Chế độ BHHT có sự phụ thuộc chặt chẽ giữa NLĐ và người sử dụng lao
động (NSDLĐ), BHHT không chỉ là mối quan hệ giữa NLĐ và cơ quan bảo
hiểm bằng quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ mà BHHT còn là trách nhiệm của

6

Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr182


12

NSDLĐ vì chính lợi ích của họ. NSDLĐ muốn ổn định phát triển sản xuất
kinh doanh thì ngoài việc đầu tư cho thiết bị máy móc hiện đại, còn phải
chăm lo tới đời sống NLĐ mà mình đang sử dụng, tạo cho họ việc làm, đảm
bảo cuộc sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng việc đóng BHXH cho NLĐ.
1.1.2.

Nguyên tắc của bảo hiểm hưu trí

Chế độ BHHT là một trong các chế độ của BHXH nên cũng tuân thủ theo
các nguyên tắc chung của BHXH. Vì vậy, chế độ BHHT gồm có nguyên tắc
chung của BHXH và nguyên tắc riêng biệt.
1.1.2.1.

Các nguyên tắc chung

Thứ nhất: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH
BHXH là một trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc dân

nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa cống
hiến và hưởng thụ7. Để đảm bảo hợp lý giữa đóng góp và hưởng thụ, phải căn
cứ vào mức đóng góp của NLĐ cho xã hội thể hiện qua mức đóng, thời gian
đóng…để từ đó quy định mức lương hưu và độ dài thời gian hưởng lương hưu
phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ.
BHXH xây dựng mức hưởng trên cơ sở mức đóng và chia sẻ giữa những
người tham gia BHXH nhằm góp phần thực hiện an sinh xã hội, trên tinh thần
“chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông bù số ít”; mỗi NLĐ sẽ đóng góp một phần trong
thu nhập của mình để tạo lập quỹ nhưng vì nhiều người cùng đóng góp nên
tạo nên quỹ có giá trị lớn đảm bảo chi trả lương hưu hàng tháng, đủ để hỗ trợ
cho NLĐ khi về hưu hoặc không tham gia quan hệ lao động. Nhưng sự đóng
góp của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro
nghiêm trọng mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất

7

Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr126


13

nhiều khó khăn trong cuộc sống; đây chính là mục đích thể hiện bản chất xã
hội của BHXH là sự chia sẻ rủi ro trong cộng đồng.
Thứ hai: Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền
công của NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu
nhập do NLĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương
tối thiểu chung.
Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của đại đa số NLĐ
và mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người để quy định, lựa chọn mức

thu nhập được bảo hiểm để đảm bảo cho mức thu nhập này luôn thăng bằng
tương đối, đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia BHXH.
Nguyên tắc này góp phần đảm bảo cho thực hiện quản lý thu BHXH trong
điều kiện thực tế hiện nay. Đối với BHXH bắt buộc, lấy tiền lương làm căn cứ
đóng BHXH và cũng là cơ sở để quy định mức thu nhập được hưởng bảo
hiểm. Đối với BHXH tự nguyện, mức đóng BHXH được quy định trên cơ sở
mức thu nhập do người tham gia lựa chọn tùy khả năng kinh tế của họ nhưng
không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu, đây là quy định hợp lý nhằm thu hút
và tạo điều kiện để đông đảo NLĐ trong xã hội có thể tham gia BHXH; vừa
đảm bảo cho việc sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp được ổn định.
Thứ ba: NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí trên cơ sở tổng thời gian đã
đóng BHXH
Trên phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH tự
nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau và trong thực
tế tùy theo tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà NLĐ có thể có
những thời gian tham gia BHXH theo các loại hình khác nhau. Vì vậy, để
đảm bảo quyền lợi cho NLĐ và tính liên thông trong quan hệ BHXH thì NLĐ
vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự


14

nguyện được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trong cùng một thời điểm, NLĐ
chỉ được tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Như vậy,
với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện có sự liên
thông, đảm bảo cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động có nhiều cơ
hội được hưởng chế độ hưu trí do thời gian đóng BHXH được tính bằng tổng

thời gian đóng BHXH của 2 loại hình.
Thứ tư: Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ
thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước
quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.
BHXH là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội,
chứa đựng cả nội dung kinh tế, xã hội, pháp lý; để đảm bảo thực hiện hài hòa
các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà BHXH đặt ra thì một trong
những vấn đề quan trọng là việc quản lý quỹ và sử dụng quỹ. Việc sử dụng
quản lý quỹ trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý và hạch toán theo quy
định pháp luật. Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện cho xã hội có trách
nhiệm thực hiện các chính sách xã hội, quản lý thông qua việc ban hành pháp
luật về BHXH, quy định cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động BHXH thống
nhất trong cả nước. Tùy thuộc vào điều kiện của đất nước trong từng thời kỳ
mà Nhà nước quy định chính sách quốc gia về BHXH cho phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.
Thứ năm: Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Với nguyên tắc này việc thực hiện BHXH đối với NLĐ phải được nghiên
cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho phù


15

hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ, NSDLĐ khi tham gia BHXH và
khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
1.1.2.2.

Các nguyên tắc riêng


Thứ nhất: Điều chỉnh hợp lý chế độ hưởng BHHT giữa lao động nam và
lao động nữ
Xuất phát từ yếu tố như giới tính, thể chất, tâm sinh lý, văn hóa truyền
thống và thiên chức của người phụ nữ trong việc sinh con, nuôi con; pháp
luật có sự điều chỉnh hợp lý chế độ hưởng BHHT giữa lao động nam và lao
động nữ. Theo truyền thống lập pháp của nhiều nước, trong đó có Việt Nam
thì tuổi lao động của hai giới được quy định không giống nhau nên các quy
định của chế độ hưu trí cũng cần điều chỉnh hợp lý trong tương quan với quy
định về tuổi lao động, tuổi lao động của lao động nữ được xác định ngắn hơn
nam giới thì lao động nữ được nghỉ hưu sớm hơn nam giới.8
Chính sách BHHT đối với lao động nữ nằm trong sự tương quan giữa các
chính sách khác về phụ nữ như chính sách về sự tiến bộ của phụ nữ, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, chính sách bình đẳng giới. Ở Việt Nam,
trong những văn bản đầu tiên về chế độ BHHT đã quy định lao động nữ nghỉ
hưu sớm hơn lao động nam 5 tuổi, đây cũng là truyền thống ưu đãi phụ nữ đã
được tồn tại từ lâu; vì vậy, cách tính lương hưu giữa lao động nữ và lao động
nam cũng quy định khác nhau nhằm đảm bảo công bằng.
Thứ hai: Nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định
Xuất phát từ điều kiện làm việc của NLĐ trong một số ngành nghề có tính
chất nặng nhọc, độc hại, nơi làm việc ở những vùng sâu xa hẻo lánh hoặc làm
việc trong những lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc phòng, lực lượng vũ
trang thì được hưởng ưu đãi trong chế độ BHHT. Sự ưu đãi của nguyên tắc

8

Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr185


16


này nhằm khuyến khích NLĐ vào làm việc trong các ngành nghề và lĩnh vực
có điều kiện làm việc không thuận lợi, hoặc những công việc mà có tầm quan
trọng đối với an ninh đất nước có thể ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường
của họ9.
Trong chế độ hưu trí, sự ưu đãi thể hiện ở việc pháp luật cho phép họ được
nghỉ hưu ở độ tuổi sớm hơn so với quy định chung nhưng không phải trừ tỷ lệ
lương hưu vì thời gian nghỉ sớm. Pháp luật Việt Nam quy định NLĐ làm việc
trong những công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc ở những vùng sâu, vùng
xa hoặc làm việc trong lực lượng vũ trang sẽ được nghỉ hưu sớm hơn so với
những lao động khác 5 tuổi.
1.1.3.

Vai trò của bảo hiểm hưu trí

BHHT có vai trò quan trọng đối với nhiều chủ thể. Cụ thể:
Đối với NLĐ: BHHT là phương pháp hữu hiệu nhất đảm bảo cho phần thu
nhập bị mất của NLĐ khi về già. BHHT thiết lập một quỹ tiền tệ chung trên
phạm vi rộng, có tính chất ổn định chắc chắn, được rút ra định kì và theo trình
tự thủ tục nhất định. Trên thực tế, NLĐ tự tiết kiệm thì khó có quá trình lâu
dài và không đảm bảo cho những nhu cầu về già được đáp ứng đầy đủ, nếu
được trích một tỉ lệ từ tiền lương từng tháng đóng trong một khoảng thời gian
nhất định sẽ tích góp được khoản tiền lớn và sử dụng có hiệu quả, vì vậy chế
độ BHHT có tính khả thi cao và thực tiễn đã giải quyết được nhu cầu vật chất
của NLĐ khi hết độ tuổi lao động.
Chế độ BHHT đảm bảo việc thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của
NLĐ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Trong quá trình
lao động, khi NLĐ có sự đảm bảo về phần thu nhập khi nghỉ hưu sẽ tạo nên
tâm lí yên tâm để cống hiến sức lao động, tinh thần thoải mái để làm việc với


9

Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr186


17

năng suất lao động cao. Khoản tiền lương hưu mà họ nhận được là kết quả
tích lũy trong suốt quá trình làm việc thông qua việc đóng góp vào quỹ hưu
trí; đây là khoản thu nhập và tiền lương chính, đảm bảo cuộc sống vật chất
cho NLĐ trong suốt quãng đời còn lại sau lao động, là chỗ dựa tinh thần cho
người người về hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.
Đối với NSDLĐ, Nhà nước và xã hội: Chế độ BHHT thể hiện trách nhiệm
của Nhà nước, của xã hội và NSDLĐ đối với những người đã có đóng góp lao
động vào sự phát triển chung của đất nước. Hiện nay, trước xu hướng già hóa
dân số thế giới dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng, để đảm bảo
ổn định và an toàn xã hội, đòi hỏi BHHT ra đời là không thể thiếu và ngày
càng được mở rộng. BHHT thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước trong
việc thực thi các công tác xã hội khi đảm bảo cuộc sống người già, thực hiện
an sinh xã hội, đề ra định hướng cho sự hoạt động, phát triển của chế độ
BHHT, là điều kiện góp phần nhất định vào công cuộc ổn định, phát triển
kinh tế xã hội. Chế độ BHHT tạo ra thu nhập thay thế cho NLĐ, đã gián tiếp
tác động chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng tiêu dùng cho xã hội. Vì vậy,
BHHT thể hiện giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc, là một
trong những nội dung nòng cốt của chính sách bảo đảm xã hội quốc gia.
Bên cạnh đó, BHHT ảnh hưởng tới sự ổn định của cả hệ thống BHXH.
Trên thực tế, tất cả NLĐ tham gia vào BHXH đều tham gia vào chế độ hưu
trí, phần lớn chi phí đóng góp vào BHXH đều dành cho việc chi trả chế độ
BHHT. Thời gian NLĐ hưởng chế độ hưu trí thường lâu dài nên chi phối tới

đời sống NLĐ hơn các chế độ BHXH khác, quỹ BHXH có an toàn hay không
phụ thuộc chính vào chế độ hưu trí thực hiện như thế nào. Ở Việt Nam hiện
nay, trong số 26% quỹ lương đóng BHXH thì có tới 22% dành cho chế độ
hưu trí và tử tuất; như vậy, hoạt động thu chi của chế độ hưu trí ảnh hưởng
lớn tới toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH.


18

1.2. Nội dung quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm hưu trí
1.2.1.

Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.2.1.1.

Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng

a.

Đối tượng áp dụng

Căn cứ theo Điều 53 Luật BHXH năm 2014 thì đối tượng áp dụng chế độ
hưu trí là NLĐ là công dân Việt Nam:
-

Làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng

lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp

đồng lao động được ký kết giữa những NSDLĐ với người đại diện theo pháp
luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
-

Làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới

03 tháng;
-

Cán bộ, công chức, viên chức;

-

Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác

trong tổ chức cơ yếu;
-

Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
-

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ

quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
-

Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an


nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo
học được hưởng sinh hoạt phí;
-

Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có

hưởng tiền lương;
-

Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.


×