Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam Maritime Bank- Chi nhánh Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.48 KB, 45 trang )

TÓM LƯỢC
Chương I khóa luận nghiên cứu một cách chi tiết về khái niệm, đặc điểm, vai
trò, phân loại bảo lãnh ngân hàng. Bên cạnh đó, khóa luận còn phân tích một cách
tương đối rõ ràng về một số nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh bảo lãnh ngân
hàng bao gồm các vần đề: chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các bên, thực hiện bảo lãnh
ngân hàng... Trên cơ sở đó, khóa luận nêu lên những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động
bảo lãnh ngân hàng, mang tới cho người đọc cái nhìn tổng quát về bảo lãnh ngân hàng.
Chương II khóa luận tập trung tìm hiểu về thực trạng thực hiện và thi hành pháp
luật về bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh
Thanh Xuân. Từ đó, tác giả đưa ra được những đánh giá khách quan bao gồm cả
những thành công và hạn chế để hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
Chương III khóa luận được coi là chương tổng kết các nội dung trong bài.
Thông qua thực trạng nghiên cứu, tác giả có những định hướng và giải pháp cụ thể
tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện và thi hành pháp luật liên quan tới bảo
lãnh ngân hàng cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Đồng thời, tác giả cũng
vạch ra những thiếu sót, những điều mình chưa thực sự làm được trong bài viết để các
tác giả tiếp theo có thể phát triển và hoàn thiện hơn đối với vấn đề liên quan.

1

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, bên cạnh những nỗ lực và cố gắng của bản thân,
em còn nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các anh chị tại Ngân hàng TMCP Hàng
Hải Việt Nam – Chi nhánh Thanh Xuân và cô giáo - Th.S Phùng Bích Ngọc.
Trước tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo – Th.S Phùng Bích Ngọc.
Cô đã dành nhiều thời gian tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em thực hiện bài khóa luận
này.
Sau đó, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Thương


Mại, Khoa Kinh tế - Luật, Bộ môn Luật Chuyên ngành đã tạo điều kiện giúp em hoàn
thành bài khóa luận này.
Cuối cùng, em xin cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên tại Ngân hàng TMCP
Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Thanh Xuân đã giúp em có cơ hội tìm hiểu kiến thức
thực tế để hoàn thành bài khóa luận tốt nhất. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và
thời gian nên khóa luận sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô và mọi người để bài khóa luận được hoàn thiện hơn.
Trân trọng!
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Phan Thị Thùy Dung

2

2


MỤC LỤC

3

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TMCP: Thương mại cổ phần
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
MSB: Tên Viết tắt của Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam

NĐ-CP: Nghị định chính phủ
QĐ-NHNN: Quyết định- Ngân hàng nhà nước
TT-NHNN: Thông tư- Ngân hàng nhà nước
TT-BTC: Thông tư- Bộ tài chính
BLDS: Bộ luật Dân sự
TCTD: Tổ chức tín dụng
MSB: Maritime Bank

4

4


LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài khóa luận
Trong xu thế toàn cầu hoá, với chính sách mở cửa hội nhập quốc tế và khu vực,
các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động thương mại, đầu tư nói riêng
của nước ta với các nước trên thế giới đã và đang ngày càng mở rộng và phát triển.
Trong bối cảnh đó, bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động tiềm ẩn khá nhiều rủi ro,
nhưng lại đem lại lợi ích to lớn cho các bên có liên quan. Tuy nhiên, để nghiệp vụ bảo
lãnh của ngân hàng diễn ra thuận lợi thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm hiểu, tiếp cận
và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng luật, nhằm hạn chế những
tổn hại kinh tế không đáng có. Bảo lãnh ngân hàng được điều chỉnh bởi nhiều nguồn
luật và khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào.
Trong hệ thống pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về sự điều chỉnh quan
hệ hợp đồng ngay từ Luật các tổ chức tín dụng 1997 (bổ sung 2004), tiếp đến là Bộ
luật Dân sự 1995, Luật Thương mại 1997… và cho đến nay là một số văn bản pháp
luật mới được ban hành: luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Thương mại 2005…
Trong những năm gần đây, bảo lãnh ngân hàng thật sự trở thành biện pháp bảo
đảm nghĩa vụ thông dụng trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng do hiệu quả đảm bảo cao

cho quyền lợi của người hưởng. Hoạt động này mang lại lợi ích đáng kể cho nền kinh
tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mang lại, hoạt độngbảo lãnh ngân hàng có thể
mang các ảnh hưởng tiêu cực. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến
sự điều chỉnh của pháp luật. Do vậy, để tránh những tác động tiêu cực do hoạt động
này mang lại, cần có sự nghiên cứu toàn diện, tỉ mỉ các vấn đề về pháp luật trong lĩnh
vực bảo lãnh ngân hàng và thực trạng áp dụng nó. Thông qua đó hệ thống pháp lý về
bảo lãnh ngân hàng sẽ ngày một hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hội
nhập.
Các nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ngày càng nắm giữ vai trò quan trọng trong
kinh doanh. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả của bảo lãnh ngân hàng là vô cùng quan
trọng, giúp đưa đến lợi nhuận tối ưu, tránh các thiệt hại không đáng có. Điều này phụ
thuộc trước hết vào hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời phụ thuộc nhiều vào khả
năng nhận biết cũng như trình độ áp dụng pháp luật của từng doanh nghiệp. Thực tiễn
cho thấy, sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Hiện nay
pháp luật về bảo lãnh ngân hàng đang được hoàn thiện hơn, phù hợp với nhu cầu của
nền kinh tế và pháp luật của thế giới. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề cần nghiên
cứu và hoàn thiện.

5


Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam là một trong những doanh
nghiệp nổi bật trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Bảo lãnh ngân
hàng là nghiệp vụ rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp này.
Nhận thức được lợi ích to lớn do bảo lãnh ngân hàng mang lại, nên việc tìm hiểu pháp
luật về bảo lãnh ngân hàng là điều cần thiết đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc
nghiên cứu áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ
phần Hàng Hải Việt Nam là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng doanh nghiệp
này mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khác. Do vậy đây chính là lí do để em chọn đề
tài “Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng thương

mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam Maritime Bank - Chi nhánh Thanh Xuân” để làm
khóa luận tốt nghiệp. Quan hệ liên quan tới bảo lãnh ngân hàng không chỉ là quan hệ
giữa các thương nhân trong nước với nhau mà còn là quan hệ giữa các thương nhân
trong nước với các thương nhân nước ngoài. Song để tập trung vào nội dung cần
nghiên cứu, khóa luận này sẽ chỉ đề cập đến những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên
quan đến bảo lãnh ngân hàng trong nước.
1.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Những vấn đề pháp lý về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh
ngân hàng nói riêng đã được đề cập trong Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam,
Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân 2007 và Giáo trình Lý luận Nhà
nước và Pháp luật, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp năm 2006 nhưng các giáo
trình này mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các kiến thức cơ bản. Ngoài ra, vấn đề bảo
lãnh ngân hàng cũng được nghiên cứu trong nhiều công trình nghiên cứu khác. Trong
đó có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Luật sư Nguyễn Văn Phương (08/2009) “Đăng ký giao dịch đảm bảo: Rủi do từ
thực tế và bất cập của pháp luật”, Tạp chí Ngân hàng. Bài viết đưa ra những rủi ro
trong thực hiện bảo lãnh ngân hàng do các quy định pháp lý thiếu chặt chẽ mang lại và
đề xuất giải quyết bất cập pháp lý trong thực tế.
- Lê Hải Phượng (2009) “Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại ngân hàng Thương mại
Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh. Bài luận khái quát các khái niệm pháp lý cơ bản liên quan tới bảo lãnh ngân
hàng. Đồng thời đi sâu tìm hiểu vấn đề bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại. Qua đó, bài
luận rút ra được bất cập pháp lý liên quan tới bảo lãnh thực hiện hợp đồng và đề ra giải
pháp khắc phục bất cập đó.
- Vũ Minh (29/06/2015), “Quy định mới về bảo lãnh ngân hàng”, Thời báo ngân
hàng. Bài viết nêu ra những thay đổi mới về quy định về bảo lãnh ngân hàng trong môi
6


trường hội nhập. Bên cạnh đó bài viết cũng nêu ra các ưu nhược điểm của các quy

định này và kiến nghị với các cơ quan nhà nước cần có sự điều chỉnh linh hoạt, phù
hợp với hoàn cảnh hội nhập của Việt Nam.
- Luật sư Trương Đức Thanh (2008), “Vai trò của nhân viên pháp chế trong hoạt
động ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng. Bài viết đưa ra các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt
động bảo lãnh ngân hàng. Đồng thời làm nổi vai trò nhân tố con người nói chung và
nhân viên pháp chế nói riêng trong các nghiệp vụ ngân hàng.
Có thể nhận thấy rằng, thực tế khách quan đã có không ít các đề tài, bài viết, sách,
báo nghiên cứu về bảo lãnh ngân hàng. Song ở mỗi góc độ khác nhau các tác giả đều
có quan điểm của riêng mình. Thông qua các công trình đã được nghiên cứu, tác giả kể
thừa và học hỏi nhằm hoàn thiện đề tài của mình, đưa ra được những giải pháp thiết
thực hơn nữa.
1.3 Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu tham khảo và
thực tiễn áp dụng pháp luật tại đơn vị thực tập, khóa luận này sẽ đưa ra các cơ sở pháp
lý làm tiền đề để đi sâu vào phân tích lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, thực thi pháp
luật tại đơn vị, từ đó có những kiến nghị cần thiết nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng cũng như việc đảm bảo thực thi pháp luật
tại đơn vị. Khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Thanh xuân theo quy
định của pháp luật hiện hành.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng.
1.4 Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu.
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định về bảo lãnh ngân hàng
được điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010, Bộ luật Dân sự 2005, Thông tư 28/2012/TT-NHNN và một số văn bản
pháp luật có liên quan khác. Đồng thời khóa luận còn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng

những quy định này tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam- Chi nhánh Thanh
Xuân để từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng vào thực
7


tiễn. Việc xác định đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai
nghiên cứu, đảm bảo cho khóa luận đi đúng hướng.
1.4.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là dựa trên sự phân tích, đánh giá thực trạng
các nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam - Chi
nhánh Thanh Xuân trong sự so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật để thấy
được rằng thực tiễn triển khai áp dụng có đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng với những
quy định của pháp luật hay không nhằm hệ thống hóa được các quy định của pháp luật
điều chỉnh về lĩnh vực bảo lãnh ngân hàng, làm rõ những bất cập, những hạn chế còn
tồn tại trong thực tiễn và chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế đó để từ đó đề xuất
những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như
khắc phục những hạn chế trên. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, khóa luận tập trung
vào các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa được các quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
Thứ hai, phân tích, đánh giá được thực trạng thi hành pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng tại đơn vị.
Thứ ba, đề xuất được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng.
1.4.3 Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian, phạm vi nghiên cứu nên khóa luận chỉ tập trung làm
sáng tỏ một số vấn đề chính. Cụ thể phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn như
sau:
- Về nguồn tư liệu: Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về bảo lãnh ngân hàng kể từ
khi Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Bộ

luật Dân sự 2005 ban hành cho đến nay.
- Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ vấn đề bảo lãnh ngân hàng tại Việt
Nam, nghiên cứu điển hình tại Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam - Chi nhánh
Thanh Xuân.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài gồm:
- Phương pháp liệt kê: Phương pháp sẽ được áp dụng để làm chương I của bài khóa
luận. Phương pháp sẽ hệ thống, liệt kê tất cả các văn bản pháp luật có liên quan để tiện
theo dõi và phân tích, làm căn cứ cho phần lý luận.

8


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp được áp dụng để làm chương II
của bài khóa luận là phần thực tiễn liên hệ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam Chi nhánh Thanh Xuân. Trên cơ sở giải thích các khái niệm, quy phạm pháp luật liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa, khóa luận sẽ đi phân tích vai trò của các yếu tố
này tới hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, trên cơ sở đánh giá tổng quan những kết
quả đã đạt được và hạn chế pháp lý về bảo lãnh ngân hàng, khóa luận sẽ đề ra phương
hướng để giải quyết những hạn chế phát sinh.
1.6 Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
- Lời mở đầu
Chương I: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng
thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam- Maritime Bank chi nhánh Thanh Xuân
Chương III: Một số giải pháp (kiến nghị) hoàn thiện pháp luận điều chỉnh pháp luật
về bảo lãnh ngân hàng
- Danh mục tài liệu tham khảo

9



CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến bảo lãnh ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng, đặc điểm, chức năng của hoạt động
bảo lãnh ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu, cho đến nay, bảo lãnh đã phát
triển phong phú bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của
mọi quốc gia. Trên phương diện pháp lý, khái niệm về bảo lãnh được quy định tương
đối giống nhau trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, khái niệm về bảo lãnh được quy định tại điều 335 của Bộ luật Dân sự
2015, cụ thể: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ cho bên có nghĩa
vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi dến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Theo quy định tại khoản 18 điều 4 của luật Các tổ chưc tín dụng của nước ta thì:
“Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với
bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã
cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.”
- Sự khác biệt giữa bảo lãnh ngân hàng và bảo lãnh trong dân sự:
Từ hai khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng, có thể thấy rằng bảo lãnh
ngân hàng là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự. Do vậy nó
vừa mang đặc trưng chung của bảo lãnh vừa mang những đặc tính riêng chỉ có trong
hoạt động của tổ chức tín dụng.
Trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh, luật qui định bắt buộc phải có hai bên, đó là:
Bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Việc tham gia ký kết của bên được bảo lãnh không
phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh. Khi bên thứ ba đưa
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiên nghĩa vụ cho người khác
(khách hàng vay) thì chỉ cần thiết lập hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng cầm cố tài sản

giữa hai bên: bên bảo đảm (bên thế chấp) với bên có quyền (bên nhận thế chấp); còn
bên được bảo lãnh đã kí kết tại hợp đồng tín dụng. Bởi hợp đồng tín dụng là hợp đồng
chính còn hợp đồng bảo đảm luôn là hợp đồng phụ, có tính chất dự phòng dự phạt khi
nghĩa vụ bị vi phạm.

10


Thực tế hiện nay một số ngân hàng thương mại và một số doanh nghiệp khi thoả
thuận kí kết hợp hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ 3 để bảo đảm vay vốn
ngân hàng thường thiết lập hợp đồng có cả ba bên gồm: bên bảo đảm (bên thế chấp)
bên được được bảo đảm (bên vay vốn) và bên nhận bảo đảm (bên nhận thế chấp). Điều
này chỉ đúng khi các chủ thể đó độc lập với nhau và người đại diện theo pháp luật của
bên thế chấp và bên vay vốn không phải là một người. Trên thực tế, rất nhiều trường
hợp một người vừa là chủ sở hữu tài sản là chủ thể bên thế chấp vừa là người đại diện
theo pháp luật của chủ thể bên vay vốn cùng ký kết trên một hợp đồng thế chấp với
bên nhận thế chấp (tổ chức tín dụng). Điều này là trái với qui định tại khoản 5, điều
144 Bộ luật Dân sự 2005, cụ thể như sau: Người đại diện không được xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là
người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Để đảm bảo qui định của pháp luật cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
khi giao kết hợp đồng, đặc biệt là khi có tranh chấp tại toà án, hợp đồng không bị vô
hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật, các doanh nghiệp cần chú ý khi giao kết hợp
đồng phải tuân thủ những điều luật nói trên.
1.1.1.2 Đặc điểm, chức năng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
-Đặc điểm:
Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm nghĩa vụ (giao dịch
đảm bảo) mang tính phái sinh, tức khi ngân hàng thực hiện bảo lãnh thì các quan hệ
sau nảy sinh :
- Thứ nhất, quan hệ giữa ngân hàng với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh).

- Thứ hai, quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với khách hàng (bên có
nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh) phát sinh do thoả thuận giữa các bên trong việc tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện thay cho khách hàng và nghĩa vụ hoàn trả của khách hàng
với tổ chức tín dụng độc lập.
Với bản chất đó, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm như:
Bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương mại đặc thù: Một mặt, bảo lãnh
ngân hàng do tổ chức tín dụng (chủ yếu là các ngân hàng) thực hiện mang tính chất
chuyên nghiệp với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Bên cạnh đó, ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ chuyên môn khác song song với nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm
đảm bảo nguồn vốn mình bỏ ra khi ngân hàng trở thành người thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng. Hoạt động này chịu sự chi phối của một số quy tắc pháp lý
đặc thù mang tính chất chuyên nghiệp chỉ áp dụng cho nghiệp vụ này như: quy tắc về
11


thủ tục bảo lãnh, phí bảo lãnh, chế tài với các bên vi phạm cam kết trong quan hệ bảo
lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập: Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không
phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng có
trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên này có yêu cầu và có bằng
chứng chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Ngân hàng không
được viện lý do để trì hoãn thanh toán vì lí do thuộc về mối quan hệ của mình với
khách hàng hoặc không thực hiện thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu
thanh toán, ngân hàng cần thanh toán ngay cho bên nhận bảo lãnh, sau đó mới thu nợ
với bên được bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng mang tính phụ thuộc: tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng
có ít nhất ba chủ thể gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Tuy
nhiên, về mặt pháp lý thì chỉ đòi hỏi bắt buộc có hai chủ thể là bên bảo lãnh và bên
được bảo lãnh. Để xác lập quan hệ bảo lãnh, cần có sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh

- Chức năng:
Bảo lãnh mang chức năng bảo đảm: việc cung cấp sự đảm bảo cho người thụ
hưởng là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Mục đích của bảo lãnh
ngân hàng là cung cấp cho người thụ hưởng một khoản bồi hoàn tài chính cho những
thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh gây ra. Sự đảm bảo này
tạo niềm tin cho việc ký kết các hợp đồng dễ dàng, thuận lợi hơn.
Bảo lãnh là công cụ tài trợ vốn: hầu hết các hợp đồng thi công, buôn bán đều cần
thời gian dài mới hoàn thành. Do vậy cần nguồn tài trợ đủ lớn để thực hiện các hợp
đồng trên. Các doanh nghiệp có thể gặp khó khăn về tài chính nếu như phải hoàn tất
công trình, dự án mới được nhận thanh toán từ chủ công trình.Vì vậy, bảo lãnh ngân
hàng lúc này sẽ có chức năng là công cụ vốn. Nó giúp người bảo lãnh không phải xuất
quỹ, thu hồi vốn nhanh, được vay nợ… Dù không chức tiếp cấp vốn như cho vay trong
ngân hàng nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng nhận được các thuận lơi
như trong trường hợp cho vay.
1.1.2 Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Tùy vào các tiêu chí khác nhau mà bảo lãnh ngân hàng có thể chia thành các loại
khác nhau:
- Căn cứ vào phương thức phát hành có 3 loại:

12


+ Bảo lãnh trực tiếp: Là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh
chịu trách nhiệm bảo lãnh trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Người được bảo lãnh chịu
trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh.
+ Bảo lãnh gián tiếp: là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo
lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa
trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Trong bảo lãnh gián tiếp thì người thụ
hưởng hoàn toàn không có quyền yêu cầu ngân hàng trung gian thanh toán bảo lãnh.
+ Đồng bảo lãnh: là loại bảo lãnh do nhiều ngân hàng cùng đứng ra phát hành bảo

lãnh. Trong đó một ngân hàng sẽ được chọn làm ngân hàng phát hành chính, các ngân
hàng thành viên sẽ cam kết theo từng phần đóng góp của mình bằng các bảo lãnh đối
ứng.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng:
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất
thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết,
gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng
hoá, xây dựng, thiết kế…
+ Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc thanh toán tiền theo đúng
hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh
toán đủ.
+ Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay (Bảo lãnh vay vốn): là cam kết của ngân hàng
đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng
hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
+ Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc
trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp
đồng dự thầu.
+ Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp (người
được bảo lãnh) không trả hoặc trả không đầy đủ.
+ Bảo lãnh bảo hành hay bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng: là
loại bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh cam kết với chủ thầu trong trường hợp chủ thầu
vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm phải bồi thường cho chủ thầu mà nhà thầu
không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì ngân hàng bảo lãnh phải chịu trách
nhiệm trả thay cho nhà thầu.

13


+ Bảo lãnh miễn khấu trừ giá trị hoá đơn: là cam kết của ngân hàng với người mua

về việc thanh toán số tiền khấu trừ giá trị hợp đồng trong trường hợp người bán vi
phạm hợp đồng.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng
Môi trường pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân
hàng nói riêng ngày càng mở rộng và thông thoáng hơn. Lệnh số 38-LCT/HDDNN8
được công bố ngày 24/5/1990 dưới hình thức Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính là văn bản pháp lý cao nhất đầu tiên của Nước Cộng hòa x
hội chủ nghĩa Việt Nam về tổ chức và hoạt động các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, thuật
ngữ “Bảo lãnh ngân hàng” chưa được đề cập đến do hoạt động này còn rất hạn chế.
Quyết định số 196/QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc ban hành “Quy chế về nghiệp vụ
bảo lãnh của ngân hàng” đã đánh dấu sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
Đến năm 1997, do tình hình kinh tế biến động đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động ngân hàng ở Việt Nam. Các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam không còn phù hợp. Do đó Luật Các tổ chức tín dụng 1997 ra đời với các
quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, tạo môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động
ngân hàng. Lần đầu tiên thuật ngữ “Bảo lãnh ngân hàng” được đề cập tại khoản 12,
Điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Thống đốc ngân hàng đã ban
hành Quyết định số 283/200/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/200 về việc ban hành Quy chế
bảo lãnhn ngân hàng. Quyết định này được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số
386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết địnhsố
283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000. Từ đó đến nay, quy chế đã nhiều lần được
thay đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện tại. Mới đây nhất là Thông tư
28/2012/TT- NHNN Quy định về bảo lãnh ngân hàng ngày 03/10/2012 và Luật các tổ
chức tín dụng 2010. Nhiều văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh hoạt động bảo lãnh
cũng được thay đổi, bổ sung, tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về bảo lãnh ngân hàng
1.2.2.1 Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh

- Về bên bảo lãnh:
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành,
bên bảo lãnh trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chủ yếu là các tổ chức tín dụng có
14


đủ những điều kiện theo luật định. Ngoài ra pháp luật còn quy định nếu bên nhận bảo
lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì bên bảo lãnh
chuyên nghiệp chỉ có thể là ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế.
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư 28/2012/TT- NHNN thì đối tượng có thể thực
hiện bảo lãnh gồm:Tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã và
công ty tài chính); Chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương trong thời gian chưa chuyển đổi thành ngân hàng hợp tác xã thực hiện nghiệp vụ
bảo lãnh theo quy định đối với ngân hàng hợp tác xã; Các tổ chức (bao gồm tổ chức
tín dụng nước ngoài trong trường hợp đồng bảo lãnh), cá nhân có liên quan đến nghiệp
vụ bảo lãnh.
So với các các văn bản trước đây điều chỉnh hoạt động này, quy chế mới đã mở
rộng hơn nữa phạm vi chủ thể được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đặc biệt, quy
định này cũng khắc phục được hạn chế về mặt kĩ thuật lập pháp theo hướng liệt kê một
số ngân hàng được phép thực hiện. Có thể nói đây là một trong những điếm tiến bộ
đáng kể và phù hợp với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Để đáp ứng với
tốc độ phát triển kinh tế nói chung và các giao dịch kinh tế nói riêng, tính đảm bảo
chắc chắn đã làm cho bảo lãnh ngân hàng trở thành một trong những điều kiện tiên
quyết mà các bên đưa ra. Vì vậy, để thoả mãn kịp thời đòi hỏi đó cũng như tạo cơ hội
kinh doanh một cách công bằng hơn cho các tố chức tín dụng trong cả hệ thống thì quy
định này là hoàn toàn phù hợp.
- Về bên được bảo lãnh:
Hiện nay để phát triển nền kinh tế nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì vấn đề luôn
được quan tâm đầu tiên là vốn, không chỉ đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh mà các chủ thể khác như: các đơn vị sự nghiệp, hộ gia đình, tư nhân … đều có

thể trở thành những đối tượng nợ và đều là những thành viên cần được tham gia vào
hoạt động bảo lãnh. Mặt khác, đối tượng khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh
ngày càng đa dạng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng của nền kinh tế.
Về nguyên tắc, để được tổ chức tín dụng chấp thuận bảo lãnh, khách hàng phải
thỏa mãn các điều kiện đã được quy định rõ tại Điều 10 Thông tư 28/2012/TTNHNN:
1. Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh và giao dịch phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là hợp pháp.
3. Có khả năng thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ cam kết với các bên liên quan
trong quan hệ bảo lãnh.
15


Do đối tượng được bảo lãnh mở rộng hơn cho các chủ thể trong xã hội, trong đó
có cả cá nhân, tổ chức không trực tiếp tiến hành sản xuất kinh doanh mà nhằm mục
đích phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu khác nên điều kiện này cũng đã đơn giản
hoá và bớt khắt khe hơn so với trước đây. Tuy nhiên, quy chế mới cũng làm hạn chế
hoạt động bảo lãnh của các TCTD trong nước do có yêu cầu đặc biệt với trường hợp
khách hàng là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì ngoài các điều kiện chung còn phải tuân
theo pháp luật về quản lý ngoại hối của Việt Nam. Song đứng trên góc độ nhà quản lý,
pháp luật quy định như vậy là nhằm mục đích thống nhất quản lý chung cho hoạt động
ngân hàng và phù hợp với Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13
tháng 12 năm 2005. Vì vậy, để tăng sức cạnh tranh, các tổ chức tín dụng trong nước
cần phải tìm giải pháp nhanh chóng thích ứng với quy định của luật.
- Về bên nhận bảo lãnh:
Trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bên nhận bảo lãnh là “tổ chức (bao gồm tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), cá nhân là người cư trú và tổ chức là
người không cư trú được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh.”
(Khoản 3 Điều 3, Thông tư 28/2012 Quy định về bảo lãnh ngân hàng). Về nguyên tắc
khi tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bên nhận bảo lãnh cũng phải thoả mãn một

số điều kiện nhất định, như:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Có các giấy tờ, tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ với bên có
nghĩa vụ.
1.2.2.2 Cam kết bảo lãnh
Căn cứ vào khoản 9 Điều 3 Thông tư 28/2012/TT-NHNN, cam kết bảo lãnh được
thể hiện dưới hai hình thức:
- Hợp đồng bảo lãnh: là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên nhận
bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên có lien
quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh.
- Thư bảo lãnh: là văn bản cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc
bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh.

16


Ngoài ra, còn các hình thức cam kết khác do các bên tự thỏa thuận không trái với
quy định của pháp luật Việt Nam. Cam kết bảo lãnh có thể được sửa đổi, bổ sung hay
hủy bỏ nếu các bên liên quan có thỏa thuận. Hình thức và nội dung của cam kết bảo
lãnh phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật (được quy định cụ thể trong Điều 14
của Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về bảo lãnh ngân hàng).
1.2.2.3 Phạm vi bảo lãnh
Trước hết, phạm vi bảo lãnh được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ tài sản mà bên
bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện thay cho khách hàng đối với bên có quyền. Về nguyên
tắc, phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh không thể rộng hơn phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh
theo đó bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của

khách hàng đối với người thụ hưởng (Điều 363 Bộ luật Dân sự 2005). Tại Điều 9
Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về bảo lãnh ngân hàng, các nghĩa vụ bảo lãnh
có thể là: “Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản
vay; Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các khoản
chi phí thực hiện dự án hoặc phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh, hoặc dịch vụ
đời sống; Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, phí, các nghĩa vụ tài chính khác đối
với Nhà nước…”
Như vậy, việc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh là rất đa dạng, tuỳ vào từng loại
hình bảo lãnh mà các bên có thể thoả thuận hợp lý, song phải luôn tuân thủ nguyên tắc
bất di bất dịch là trong mọi trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh không nặng nề hơn nghĩa vụ
được bảo lãnh
1.2.2.4 Nội dung bảo lãnh
- Quyền và nghĩa vụ của bên bảo lãnh:
Trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng đóng vai trò là bên bảo lãnh.
Căn cứ Điều 25 Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về bảo lãnh ngân hàng ngày
03/10/2012 có quy định cụ thể về quyền của bên bảo lãnh. Theo đó, bên bảo lãnh có
quyền chấp nhận hoặc từ chối đề nghị cấp bảo lãnh của khách hàng hoặc của bên bảo
lãnh đối ứng (theo khoản 1, Điều 25, Thông tư 28/2012). Quyền năng này được pháp
luật quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền tự do kinh doanh của tổ chức tín dụng,
đồng thời đề cao tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh
doanh trên thị trường. Việc nhận hay không nhận bảo lãnh là xuất phát từ “ý chí” của
tổ chức tín dụng mà không có sự can thiệp từ các chủ thể khác. Đồng thời, bên bảo
lãnh có quyền đề nghị bên xác nhận bảo lãnh xác nhận bảo lãnh đối với khoản bảo
lãnh của mình cho khách hàng.

17


Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, thông tin có liên
quan đến việc thẩm định bảo lãnh và tài sản bảo đảm (nếu có) (quy định tại khoản 3,

Điều 25, Thông tư 28/2012). Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo đảm an toàn về
phương diện quyền lợi cho tổ chức tín dụng, đồng thời nhằm mục đích đảm bảo sự an
toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế và nâng cao ý thức trách
nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo lãnh.
TCTD có quyền yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm cho việc bảo lãnh của mình
nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho TCTD (quy định tại khoản 4
Điều 25, Thông tư 28/2012).Việc quy định quyền từ chối bảo lãnh đối với khách hàng
không đủ điều kiện bảo lãnh nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền tự do kinh doanh của
TCTD và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của TCTD trong hoạt động kinh doanh
trên thường trường.
Bên bảo lãnh có quyền thu phí bảo lãnh theo thoả thuận (khoản 5, Điều 25, Thông
tư 28/2012). Quy định này có nghĩa là tổ chức tín dụng khi thực hiện bảo lãnh được
quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh phải thanh toán tiền phí dịch vụ bảo lãnh cho
mình theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh sau khi đã phát hành thư bảo
lãnh và gửi cho bên nhận bảo lãnh. Căn cứ vào thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo
lãnh thì tổ chức tín dụng phải phát hành thư bảo lãnh để gửi cho bên nhận bảo lãnh vì
quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Do đó, tổ chức tín dụng (với tư cách là người
đã thực hiện công việc dịch vụ) đương nhiên phải có quyền đòi hỏi bên hưởng dịch vụ
phải thanh toán cho mình số tiền công dịch vụ là phí bảo lãnh.
Bên bảo lãnh có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh (khoản 6,
Điều 25, Thông tư 28/2012). Mặc dù người bảo lãnh đã cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho người được bảo lãnh nhưng không phải trong mọi trường hợp nghĩa vụ này
đều mặc nhiên phải thực thi. Do đó, nếu việc đòi tiền của người nhận bảo lãnh là
không có cơ sở pháp lý và không phù hợp với các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh như đã cam kết thì người bảo lãnh có quyền từ chối thực hiện bảo lãnh.
Ngoài ra, bên bảo lãnh còn có các quyền hạn như: hạch toán ghi nợ và yêu cầu
khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn trả số tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay;
Xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng theo thoả thuận và quy định của pháp luật; Khởi
kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối ứng vi phạm nghĩa
vụ đã cam kết; Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng

khác nếu được các bên có liên quan chấp thuận bằng văn bản…
Việc quy định quyền năng này đã giúp cho tổ chức tín dụng bảo lãnh có phương
diện pháp lý để tự bảo vệ mình khi tham gia quan hệ hợp đồng cấp bảo lãnh. Đồng
18


thời, nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong
nền kinh tế và nâng cao ý thức trách nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo
lãnh. Khi có các quy định này, hoạt động của các tổ chức tín dụng bảo lãnh sẽ trở nên
dễ dàng hơn, thuận tiện cho công tác nghiệp vụ hơn.
Theo quy định tại Điều 28 Thông tư 28/2012/TT-NHNN thì một trong các nghĩa
vụ quan trọng nhất của bên bảo lãnh là thực hiện đầy đủ, đúng nghĩa vụ bảo lãnh ngay
khi bên nhận bảo lãnh xuất trình đầy đủ hồ sơ, tài liệu, chứng từ hợp pháp, hợp lệ theo
quy định tại cam kết bảo lãnh và cam kết xác nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của bên bảo lãnh và bên xác nhận bảo lãnh (khoản 3 Điều 28). Nghĩa vụ này
bao gồm nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh hoặc ký hợp đồng
bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh và các nghĩa thực hiện các cam kết khác trong dịch vụ
bảo lãnh đã ký kết với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Đối với nghĩa vụ phát
hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh hoặc ký hợp đồng bảo lãnh với bên nhận
bảo lãnh thì đây là nghĩa vụ cơ bản của người bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Nghĩa
vụ này có mục tiêu hướng tới việc phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh.
Chỉ khi nào tổ chức tín dụng với tư cách là người cung cấp dịch vụ bảo lãnh đã thực
hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền yêu cầu bên hưởng dịch vụ bảo lãnh
thanh toán tiền công và phí dịch vụ bảo lãnh. Việc quy định nghĩa vụ này cho người
bảo lãnh không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của người nhận bảo lãnh mà còn
có tác dụng đảm bảo lợi ích của khách hàng được bảo lãnh. Đối với nghĩa vụ thực hiện
các cam kết nghĩa vụ khác trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đã ký kết với khách hàng
sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ này tuy không phải là nghĩa vụ chính của bên
cung ứng dịch vụ nhưng cũng có tác dụng bảo đảm quyền lợi cho khách hàng sử dụng
dịch vụ bảo lãnh và đề cao tính kỷ luật hợp đồng cho các bên tham gia giao dịch;

Bên bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện kiểm tra, giám sát tình hình chấp hành các cam kết
bảo lãnh của bên được bảo lãnh trong thời hạn hiệu lực của khoản bảo lãnh. Vì khi
cam kết bảo lãnh cho nghĩa vụ tài sản của khách hàng đối với bên có quyền, tổ chức
tín dụng bảo lãnh phải đem cả uy tín và tài sản của mình để phục vụ quyền lợi của
khách hàng được bảo lãnh nên lẽ công bằng, bên bảo lãnh phải được pháp luật được
bảo hộ như đối với chủ nợ. Do vậy, nghĩa vụ kiểm soát đối với khách hàng cho tổ chức
tín dụng bảo lãnh chính là phương tiện pháp lý để tổ chức tín dụng tự bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình khi tham gia quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh;
Ngoài ra bên bảo lãnh còn có các nghĩa vụ khác như hoàn trả đầy đủ tài sản bảo
đảm (nếu có) và các giấy tờ có liên quan cho khách hàng khi tiến hành thanh lý hợp
đồng cấp bảo lãnh (khoản 5, Điều 28, Thông tư 28/2012). Nghĩa vụ này có mục tiêu
19


hướng tới việc phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Chỉ khi nào tổ chức
tín dụng (với tư cách là bên cung cấp dịch vụ bảo lãnh) đã thực hiện xong nghĩa vụ
này thì họ mới có quyền được yêu cầu hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán số tiền công
là phí dịch vụ bảo lãnh. Việc quy định này có tác dụng đảm bảo quyền lợi cho khách
hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh và đề cao tính kỉ luật hợp đồng cho các bên tham gia
giao dịch.
Việc quy định các nghĩa vụ cho bên tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh có ý nghĩa đảm
bảo cho quyền lợi của bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Đặc biệt là khi bên
được bảo lãnh không có khả năng để thanh toán khoản nợ đối với bên nhận bảo lãnh
thì đây chính là cơ sở để bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện các
nghĩa vụ đã cam kết.
- Quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh:
Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, khách hàng được bảo lãnh có tư cách pháp
lí là người hưởng dịch vụ bảo lãnh, theo đó khách hàng được bảo lãnh sẽ có quyền hạn
hẹp hơn so với TCTD.
Theo khoản 1 Điều 29 Thông tư 28/2012/TT-NHNN quy định về quyền của bên

được bảo lãnh, có thể kể đến một số quyền tiêu biểu như: Từ chối các yêu cầu của bên
bảo lãnh, bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh không đúng với các thỏa thuận
trong hợp đồng cấp bảo lãnh hoặc cam kết bảo lãnh; Yêu cầu bên bảo lãnh, bên bảo
lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm theo cam
kết…
Theo đó, một trong những quyền năng quan trọng nhất của bên được bảo lãnh là
yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm theo cam kết, nhất là thực
hiện nghĩa vụ thay mình với tư cách là người bảo lãnh. Việc quy định này có ý nghĩ
ràng buộc về trách nhiệm đối với bên bảo lãnh, nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
khi tham gia kí kết hợp đồng bảo lãnh và đảm bảo sự công bằng của pháp luật giữa các
chủ thể trong hợp đồng bảo lãnh.
Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh cũng được quy định tại khoản 2 Điều 29 Thông tư
28/2012/TT-NHNN, bao gồm các nghĩa vụ cơ bản như: Cung cấp đầy đủ, chính xác và
trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến khoản bảo lãnh và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của các thông tin, tài liệu đã cung
cấp; Thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ, trách nhiệm đã cam kết và các thỏa thuận
quy định tại hợp đồng cấp bảo lãnh; Chịu sự kiểm tra, kiểm soát, giám sát trách nhiệm,
nghĩa vụ thực hiện bảo lãnh của bên bảo lãnh, bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo
lãnh. Có nghĩa vụ báo cáo tình hình hoạt động có liên quan đến giao dịch bảo lãnh cho
20


bên bảo lãnh, bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh; Các nghĩa vụ khác theo
thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật.
Một trong những nghĩa vụ nổi bật của bên được bảo lãnh là chịu sự kiểm tra, kiểm
soát và báo cáo tình hình hoạt động có liên quan đến giao dịch bảo lãnh cho tổ chức tín
dụng bảo lãnh. Do tổ chức tín dụng phải đem cả uy tín và tài sản của mình để phục vụ
quyền lợi của bên được bảo lãnh nên theo lẽ công bằng thì họ có quyền được pháp luật
bảo hộ như đối với chủ nợ. Việc trao quyền kiểm soát cho tổ chức tín dụng đối với
khách hàng chính là trao phương tiện pháp lý để tổ chức tín dụng tự bảo vệ lợi ích

chính đáng của mình khi tham gia hợp đồng dịch vụ bảo lãnh
- Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh:
Người nhận bảo lãnh có ba quyền cơ bản là yêu cầu bên bảo lãnh, bên xác nhận
bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm theo cam kết bảo lãnh, khởi kiện theo
quy định của pháp luật khi bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã
cam kết và kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của cam kết bảo lãnh. Quyền của bên nhận
bảo lãnh được pháp luật ghi nhận tại khoản 1 Điều 30 Thông tư 28/2012/TT-NHNN
ngày 03/10/2012.
Xét ở góc độ quan hệ hợp động bảo lãnh thì quyền chính của người nhận bảo lãnh
là yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu có nhiều người bảo lãnh liên đới
cho món nợ thì người nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu một trong số những người đó
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Mặt khác nếu nhiều người bảo lãnh theo phần cho món nợ
thì người nhận bảo lãnh chỉ có thể yêu cầu từng người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã
cam kết của họ. Ngoài ra, việc thực hiện quyền yêu cầu này nhìn chung phải ở thời
điểm nghĩa vụ đến hạn.
Trong mối quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nhận
bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trong các hợp đồng liên quan
đến nghĩa vụ bảo lãnh, đảm bảo phù hợp với nội dung cam kết bảo lãnh và thông báo
kịp thời cho bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh và các bên liên quan dấu hiệu vi
phạm, hành vi vi phạm của bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ này được quy định cụ thể tại
khoản 2 Điều 30 Thông tư 28/2012/TT-NHNN. Quy định cho thấy sự tiến bộ của pháp
luật bảo lãnh ngân hàng do trước đó chưa có quy định cụ thể nào về bên nhận bảo lãnh
trong bảo lãnh ngân hàng.
1.2.2.5 Thực hiện bảo lãnh
- Thời hạn bảo lãnh:
21


Thời hạn bảo lãnh được xác định từ khi phát hành bảo lãnh cho đến thời điểm
chấm dứt bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh

không ghi cụ thể thời điểm chấm dứt bảo lãnh thì thời điểm chấm dứt bảo lãnh được
xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt. Căn cứ vào Điều 21 Thông tư
28/2012/TT-NHNN quy định về nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng
kết thúc trong các trường hợp sau: Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh chấm dứt; Bên bảo
lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh; Việc bảo lãnh được hủy bỏ
hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; Hiệu lực của cam kết bảo lãnh đã hết;
Bên nhận bảo lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh; Nghĩa vụ bảo
lãnh chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật; Theo thỏa thuận
của các bên.
Bên cạnh đó, trường hợp được miễn nghĩa vụ bảo lãnh cũng được quy định rõ tại
Điều 19 Thông tư 28/2012TT-NHNN. Theo đó, trong trường hợp bên nhận bảo lãnh
miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh và/hoặc bên có liên
quan vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc thực hiện nghĩa vụ liên đới theo quy định của
pháp luật
Trong trường hợp một trong số thành viên đồng bảo lãnh được miễn việc thực hiện
phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì các thành viên khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của mình theo cam kết bảo lãnh.
- Các biện pháp bảo đảm thực thiện hợp đồng bảo lãnh:
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn đặc biệt là từ phía
người được bảo lãnh do vậy việc dùng biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của người
được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh cũng được pháp luật đề cập tới. Tại Điều 16
Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về bảo lãnh ngân hàng cho phép tổ chức tín
dụng và khách hàng được chủ động thỏa thuận trong việc áp dụng hoặc không áp dụng
các biện pháp bảo đảm của khách hàng đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh. Trong
trường hợp áp dụng có thể sử dụng một trong các phương pháp như: cầm cố tài sản,
thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba, ký quỹ và các biện pháp bảo đảm khác theo
quy định của pháp luật.
Hiện nay, các quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp bảo đảm chủ yếu
được quy định trong Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản

pháp luật này phần nào phù hợp với quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng và trách
nhiệm của khách hàng tạo điều kiện cho việc bảo đảm an toàn và mở rộng phạm vi của
hoạt động bảo lãnh.
22


- Phí bảo lãnh:
Do bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh có thu phí, nên phí bảo lãnh luôn là
một điều khoản quan trọng được các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh. Trước
đây, phí bảo lãnh được quy định “không vượt quá 2%/ năm tính trên số tiền còn đang
được bảo lãnh” đồng thời quy định trường hợp khách hàng chậm thanh toán phí bảo
lãnh sẽ bị phạt lãi suất hoặc các hình thức phạt khác theo thỏa thuận. Hiện nay quy chế
mới về bảo lãnh ngân hàng không quy định mức phí bảo lãnh mà cho phép các bên tự
thỏa thuận và xóa bỏ quy định khách hàng sẽ bị xử lý thế nào trong trường hợp chậm
thanh toán phí bảo lãnh (khoản 1 Điều 17 Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về
bảo lãnh ngân hàng). Việc dỡ bỏ này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh doanh,
tăng quyền chủ động cho tổ chức tín dụng, kích thích cạnh tranh trong nghiệp vụ bảo
lãnh của các ngân hàng. Tuy nhiên quy định này cũng có thể gây ra sự mất an toàn cho
hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Nó tạo ra cơ hội cho các tổ chức tín dụng chỉ quan tâm
tới việc chạy đua trong giảm phí dịch vụ nhằm thu hút khàch hàng về cho mình mà
không xem xét kỹ khả năng thực hiện hợp đồng của khách hàng - điều này đồng nghĩa
với việc họ đang có nguy cơ phải chấp nhận rủi ro lớn hơn
1.3 Nguyên tắc điều chỉnh bảo lãnh ngân hàng
Giao dịch bảo lãnh ngân hàng tạo lập hai hợp đồng, gồm hợp đồng bảo lãnh và
hợp đồng bảo lãnh/ cam kết bảo lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối liên hệ nhân quả
với nhau, thể hiện ở chỗ: việc ký kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh là nguyên nhân, đồng
thời là cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng bảo lãnh và ngược lại, việc ký kết hợp đồng
bảo lãnh là hệ quả của hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, đồng thời là một phương thức để
thực hiện hợp đồng dịch vụ bảo lãnh
Về cơ bản, nguyên tắc giao kết hợp đồng của hai hợp đồng trên vẫn phải phù hợp

với nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội: Dựa
trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều
có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng dân sự nào, nếu muốn. Tuy
nhiên, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ,
giới hạn nhất định – giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và
trật tự công cộng
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng: Nguyên tắc
này được quy định nhằm bảo đảm các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi
23


phải bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế,
thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng trong
quan hệ dân sự. Pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự
bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể.

24


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI VIỆT NAM- MARITIME
BANK CHI NHÁNH THANH XUÂN
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về bảo lãnh
ngân hàng
2.1.1 Tổng quan tình hình về bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ
phần Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank)
Maritime Bank (MSB) chính thức đi vào hoạt động ngày 12/07/1991, sau 24 năm
hoạt động, các chỉ tiêu hoạt động cơ bản như tổng tài sản, nguồn vốn huy động, dư nợ
tín dụng, lợi nhuận trước thuế đều tăng gấp đôi qua mỗi năm. Maritime Bank đã được

Ngân hàng Thế giới lựa chọn là một trong sáu Ngân hàng Thương mại Việt Nam tham
gia Dự án hiện đại hóa Ngân hàng và Hệ thống thanh toán.
MSB là một ngân hàng có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh. Đơn vị này cung cấp
cho khách hàng các loại hình bảo lãnh đáp ứng được đòi hỏi của bên thứ ba, qua đó
thực hiện tốt nhất khả năng kinh doanh, với một số loại hình bảo lãnh cho các đối
tượng tiêu biểu như:
- Cho các nhân như cam kết thu xếp tài chính. Thường dung trong các sản phẩm cho
vay du học nước ngoài,trong đó ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một
khoản tài chính để thanh toán chi phí cho con em đi học nước ngoài
- Cho hộ kinh doanh cá thể như bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
Lợi ích của các khách hàng nhận được từ đơn vị là đơn vị sẽ đáp ứng hàu hết nhu cầu
của khách hàng, linh hoạt trong thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp
với nhu cầu của khách hành.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng
thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam- Maritime Bank chi nhánh Thanh Xuân
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chịu tác động trực tiếp của nhiều nhân tố, gồm cả
nhân tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, cần xác định rõ các nhân tố này để xây dựng
chiến lược kinh doanh hợp lý. Dưới đây là một số nhân tố chủ yếu tác động tới nghiệp
vụ bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt NamMaritime Bank chi nhánh Thanh Xuân:
- Nhân tố chủ quan:
Về chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng: Để phát triển tốt, chiến lược
của ngân hàng sẽ đề ra được những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trong
từng thời kì ngắn hạn và dài hạn. Trong ngân hàng cần phải xác định rõ sản phẩm dịch
25


×