BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------
PHẠM HỒNG QUÂN
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ
NHÂN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------
PHẠM HỒNG QUÂN
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ
NHÂN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ THUÝ LÂM
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Thị Thuý Lâm.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này./.
Xác nhận của người hướng dẫn
Tác giả luận văn
PGS.TS Trần Thị Thúy Lâm
Phạm Hồng Quân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLLĐ
: Bộ luật Lao động
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐLĐ
: Hợp đồng lao động
NLĐ
: Người lao động
NSDLĐ
: Người sử dụng lao động
Nxb
: Nhà xuất bản
QHLĐ
: Quan hệ lao động
TAND
: Tòa án nhân dân
TCLĐ
: Tranh chấp lao động
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................. 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................................... 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ
NHÂN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN.................................................................................................................................... 6
1.1. Tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân ................... 6
1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân .......................................................................................... 6
1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân ....................................................................... 12
1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân và nội dung điều
chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân ........ 15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án
nhân dân ................................................................................................................................... 15
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án
nhân dân.................................................................................................................................... 17
Kết luận chương 1 ....................................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .....23
2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân ................. 23
2.2. Thẩm quyền của Toà án nhân dân trong giải quyết tranh chấp lao động cá nhân .... 26
2.2.1. Thẩm quyền của T a án nhân dân theo vụ việc .......................................................... 27
2.2.3. Thẩm quyền của Toà án nhân dân theo l nh th ......................................................... 29
2.2.4. Thẩm quyền của Toà án nhân dân theo sự lựa chọn của nguyên đơn ....................... 30
2.3. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân ................................... 30
2.4. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân...... 33
2.4.1. Thủ tục giải quyết vụ án tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án cấp sơ thẩm. ........ 33
2.4.2. Thủ tục giải quyết vụ án tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án cấp phúc thẩm ..... 42
2.4.3. Giải quyết vụ án tranh chấp lao động cá nhân theo thủ tục rút gọn ........................... 45
2.4.4. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án tranh chấp lao động cá nhân ........................ 47
Kết luận chương 2 ....................................................................................................................... 51
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
TẠI TÒA ÁN Ở TỈNH YÊN BÁI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH YÊN BÁI.............................................................................................. 52
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân ở tỉnh Yên Bái.. 52
3.1.1. Đặc điểm, tình hình chung của tỉnh Yên Bái . ............................................................. 52
3.1.2. Kết quả và những vấn đề c n vướng mắc, tồn tại trong giải quyết các tranh chấp lao
động cá nhân tại Toà án nhân dân ở tỉnh Yên Bái ................................................................. 53
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Toà án nhân dân ....................................................................................................... 64
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân 64
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Toà án nhân dân ở tỉnh Yên Bái ..................................................................... 70
Kết luận chương 3 ....................................................................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 75
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay đối với
các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Việt Nam đang từng bước tiến lên
trên con đường phát triển, chuyển biến mạnh mẽ về tư duy phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng x hội chủ nghĩa; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường đáp
ứng yêu cầu hội nhập; đẩy mạnh việc hoàn thiện các thể chế, chính sách, pháp luật
tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển, thu hút đầu tư trong
nước và nước ngoài đạt hiệu quả cao. Cùng với sự phát triển đa dạng của nền kinh
tế là sự phát triển của các quan hệ lao động gắn với yếu tố thị trường và đồng nghĩa
với việc các tranh chấp lao động phát sinh ngày càng gia tăng và tính chất ngày
càng đa dạng, phức tạp hơn, trong đó tranh chấp lao động cá nhân giữa NLĐ và
NSDLĐ chiếm số lượng không nhỏ. Do đó cần có những cơ chế giải quyết tranh
chấp lao động ưu việt, làm tốt chức năng giải quyết tranh chấp, điều h a các mâu
thuẫn, giữ n định trật tự các quan hệ lao động nói riêng và các quan hệ trong x hội
nói chung.
Để giải quyết TCLĐ nói chung và TCLĐ cá nhân nói riêng, pháp luật Việt
Nam quy định nhiều phương thức khác nhau như: thương lượng, h a giải và xét xử
tại TAND. Trong đó, phương thức giải quyết tranh chấp lao động bằng TAND là
phương thức quan trọng, có hiệu quả cao. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại T a án là hết sức quan trọng và là một việc làm cần
thiết. Thực tiễn công tác xây dựng pháp luật của nước ta đ nhiều lần sửa đ i, b
sung các quy định của pháp luật về giải quyết TCLĐ cho phù hợp với tình hình thực
tiễn, trong đó phải kể đến BLLĐ năm 2012 với các sửa đ i chương về TCLĐ;
BLTTDS năm 2015 đ có những quy định mới, đầy đủ về trình tự thủ tục giải quyết
các vụ việc dân sự nói chung và giải quyết TCLĐ cá nhân nói riêng tại TAND.
Như vậy với sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao động về giải
quyết TCLĐ cá nhân tại TAND đ có nhiều thay đ i, tạo điều kiện thuận lợi để hệ
thống Toà án các cấp giải quyết tốt các TCLĐ cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả, thành tựu đ đạt được thì việc giải quyết TCLĐ cá nhân trong thực tế hiện
nay c n một số tồn tại, yếu kém mà nguyên nhân không chỉ xuất phát từ những bất
cập, vướng mắc của các quy định pháp luật, mà c n xuất phát từ việc các cơ quan,
t chức, cá nhân có thẩm quyền c n lúng túng, sai sót trong việc giải quyết, nên
2
trong nhiều trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của các bên TCLĐ cá nhân vẫn
chưa được bảo đảm, gây những tác động tiêu cực đến sự n định và phát triển của
quan hệ lao động nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay. Thực trạng trên là những
tồn tại, thiếu sót của hầu hết các địa phương trên cả nước, trong đó có địa bàn tỉnh
Yên Bái.
Việc nghiên cứu về mặt lý luận, thực trạng pháp luật hiện hành cũng như
thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân bằng TAND, nhằm khắc phục những yếu kém,
những điểm không phù hợp với tình hình thực tế đ và đang là mối quan tâm hàng
đầu không chỉ của các bên tham gia QHLĐ mà c n là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đối với những người trực tiếp làm công tác xét xử tại TAND. Đây cũng là một nội
dung cần thiết, quan trọng đặt ra cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như các
nhà làm luật cần hết sức quan tâm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi đ lựa chọn vấn đề “Pháp luật giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân tại T a án nhân dân và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên Bái” là đề
tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, với mong muốn được hoàn thiện thêm về
trình độ lý luận và năng lực thực tiễn của bản thân, cũng như đóng góp một phần
nhỏ trong việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về lao động nói chung và pháp
luật về giải quyết các TCLĐ cá nhân nói riêng trong thời gian tới, để từng bước phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung và pháp
luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng, vấn đề này đ được nhiều nhà khoa
học, luật gia, học viên quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Đ có những
công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại T a án hoặc liên
quan đến giải quyết TCLĐ tại T a án đ được công bố, cụ thể như:
- Về giáo trình, sách tham khảo: Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của
Khoa luật, Đại học X hội và Nhân văn quốc gia, năm 2000; Giáo trình Luật lao
động Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013; Thủ tục giải quyết
các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự, của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2006.
- Về luận án, luận văn: Luận án tiến sĩ Luật học “Tài phán lao động theo quy
định của pháp luật Việt Nam”, do Lưu Bình Nhưỡng thực hiện năm 2002; Luận án
tiến sĩ Luật học “Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại T a
3
án Việt Nam”, do Phạm Công Bảy thực hiện năm 2011; Luận văn thạc sĩ Luật học
“Giải quyết tranh chấp lao động tại T a án nhân dân - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, do Vũ Thị Thu Hiền thực hiện năm 2002; Luận văn thạc sĩ Luật học “Giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân tại T a án theo quy định của pháp luật Việt
Nam”, do Lê Thị Hường thực hiện năm 2012; Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật
về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tình hình thực hiện trên địa bàn Thành
phố Đà N ng”, do Hà Thị Thanh Nga thực hiện năm 2014; Luận văn thạc sĩ Luật
học “Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng Toà án và thực tiễn áp dụng tại
Toà án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh”, do Phan Thị Ngọc Phú thực
hiện năm 2016; Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại T a án nhân dân và thực tiễn xét xử tại T a án nhân dân tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu”, do Phạm Thị Hồng Hạnh thực hiện năm 2016. Luận văn thạc sĩ
Luật học “Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại T a án nhân dân và thực tiễn
thi hành tại T a án nhân dân Thành phố Hà Nội”, do Nguyễn Thị Thanh Loan thực
hiện năm 2016.
- Về các bài viết đăng trên tạp chí: “Bàn về tranh chấp lao động” của tác giả
Lưu Bình Nhưỡng, Tạp chí Luật học số 3 2003; “Giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị”, của tác giả Phạm
Công Bảy, Tạp chí Luật học, số 9 2009; “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tố tụng lao động” của tác giả Lê Thị Hoài Thu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23
(303)/2015; “Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Việt
Nam” của tác giả Đoàn Xuân Trường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
3(276)/2015.
Có thể thấy rằng, các công trình khoa học đ nghiên cứu dưới các góc độ
khác nhau về giải quyết TCLĐ cá nhân bằng TAND, nhưng chủ yếu là những
nghiên cứu dựa trên các quy định của BLLĐ năm 1994 đ sửa đ i, b sung các năm
2002, 2006, 2007 và BLTTDS năm 2004 đ được sửa đ i, b sung năm 2011. Có
một số công trình khoa học nghiên cứu về giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND theo
quy định của BLLĐ năm 2012, nhưng vẫn dựa trên quy định về thủ tục giải quyết
TCLĐ cá nhân bằng TAND theo quy định của BLTTDS năm 2004 được sửa đ i b
sung năm 2011 và số công trình nghiên cứu theo quy định của BLTTDS năm 2015
là không nhiều. Đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu nào về thực tiễn giải
quyết TCLĐ cá nhân bằng TAND tại địa phương tỉnh Yên Bái, nên đề tài được lựa
4
chọn vẫn là vấn đề cần nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, cũng như có ý nghĩa thiết
thực đối với địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
TCLĐ cá nhân và giải quyết TCLĐ cá nhân tại T a án; thực trạng giải quyết TCLĐ
cá nhân tại TAND theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn giải
quyết TCLĐ cá nhân trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Yên Bái, từ đó chỉ ra những bất
cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải
quyết TCLĐ cá nhân trên thực tế tại TAND ở tỉnh Yên Bái nói riêng.
Với mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ chính
sau đây:
- Những vấn đề lý luận về TCLĐ cá nhân và giải quyết TCLĐ cá nhân tại
TAND.
- Nghiên cứu việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND ở tỉnh Yên Bái.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND ở tỉnh Yên Bái.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại T a án ở các nội
dung như nguyên tắc giải quyết, thời hiệu giải quyết, thẩm quyền giải quyết, trình tự
thủ tục giải quyết theo các quy định trong Bộ luật lao động năm 2012 và BLTTDS
năm 2015. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về
giải quyết các tranh chấp lao động tại TAND của tỉnh Yên Bái trong giai đoạn từ
năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về quyền con người
và quyền công dân trong x hội; các quy định của pháp luật về Dân sự, Lao động,
Tố tụng dân sự; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu và các
bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như:
5
phương pháp luận, so sánh, phân tích, t ng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với mục đích nghiên cứu đ đề ra, luận văn có những đóng góp mới về khoa
học và ý nghĩa thực tiễn sau đây:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện hơn những vấn đề về mặt lý
luận về TCLĐ cá nhân và giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND.
- Luận văn phân tích và đánh giá một cách tương đối toàn diện quy định của
pháp luật về giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND.
- Luận văn đ phân tích được thực tiễn hoạt động giải quyết TCLĐ cá nhân
tại TAND ở tỉnh Yên Bái.
- Luận văn đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, đồng thời tăng cường
hiệu quả của giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND nói chung và trên địa bàn tỉnh
Yên Bái nói riêng.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả luận văn hy vọng luận văn là tài liệu tham
khảo hữu ích đối với cơ quan, t chức, cá nhân trực tiếp giải quyết TCLĐ cá nhân,
cũng như những người nghiên cứu, học tập về pháp luật giải quyết TCLĐ cá nhân
bằng TAND, đồng thời đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và t
chức thực hiện có hiệu quả loại hình giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND và đặt vào
trường hợp cụ thể là thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân của TAND ở tỉnh Yên Bái.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh chấp lao động cá nhân và giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân tại T a án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân tại T a án nhân dân.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại T a án ở tỉnh
Yên Bái và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân tại T a án nhân dân ở tỉnh Yên Bái.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân
Trước hết, khi nói đến các quan hệ của con người là nói đến bản chất x hội
bởi chúng đều xuất phát từ các quan hệ x hội. Do đó mà tranh chấp phát sinh giữa
con người với nhau cũng nảy sinh từ quan hệ x hội mà ra. Theo giải thích của Từ
điển tiếng Việt thì “tranh chấp” nói chung được hiểu là việc “giành nhau một cách
giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”1. Sở dĩ xảy ra tranh chấp là do mâu thuẫn
về lợi ích giữa các bên tranh chấp.
Trong QHLĐ cũng vậy, QHLĐ là quan hệ x hội phát sinh trong việc thuê
mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động 2.
Đối tượng của QHLĐ chính là sức lao động và trong nền kinh tế thị trường thì đây
được coi là một loại hàng hóa. Do vậy, quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ là quan hệ
trao đ i mua bán sức lao động. Trong mối quan hệ này, ở khía cạnh người NSDLĐ,
họ sử dụng sức lao động của NLĐ để thực hiện các công việc của mình nhằm thu
được những lợi nhuận và giá trị của lợi nhuận càng lớn hơn giá NSDLĐ bỏ ra để
mua sức lao động của NLĐ thì càng tốt. Ở khía cạnh NLĐ, họ đem sức lao động
của mình làm việc cho NSDLĐ, tuân theo sự quản lý, điều hành của NSDLĐ và
mong muốn nhận lại giá trị mà người sử dụng trả cho sức lao động của họ bỏ ra
càng cao càng tốt. Do vậy, mục tiêu đạt được lợi ích tối đa luôn là động lực trực tiếp
của các bên nên giữa họ khó có thể thống nhất được các quyền và nghĩa vụ trong
quá trình thực hiện QHLĐ. Những lợi ích đối lập này giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ trở
thành bất đồng, xung đột nếu hai bên không dung hoà được quyền lợi với nhau và
khi đạt đến một mức độ nhất định thì trở thành sự tranh chấp giữa các bên.
Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều định ra một cơ chế giải
quyết những bất đồng, xung đột của hai bên chủ thể trong mối quan hệ lao động.
Do điều kiện cụ thể m i quốc gia mà quan niệm về tranh chấp lao động ở các
1
2
Trung tâm Từ điển học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà N ng 1996, tr. 989.
Khoản 6 Điều 3 Bộ luật lao động Việt Nam 2012
7
nước có sự khác biệt. Từ đó, m i nước định ra cơ chế giải quyết tranh chấp lao
động khác nhau.
Theo pháp luật Singapore tranh chấp lao động được hiểu là bất cứ tranh chấp
nào xảy ra giữa NSDLĐ và NLĐ hoặc giữa NLĐ và NLĐ, hoặc giữa NSDLĐ và
NSDLĐ có liên quan đến việc làm hoặc không làm việc, hoặc các điều khoản của
việc làm hoặc các điều kiện làm việc của bất cứ người nào3 (Điều 2 Đạo luật tranh
chấp lao động). Ngoài ra định nghĩa này c n được ghi nhận trong các Đạo luật quan
hệ lao động và Đạo luật Công đoàn của Singapore.
Pháp luật Malaysia trong đạo luật về QHLĐ thì định nghĩa tranh chấp lao
động là bất kỳ một sự tranh chấp nào giữa NSDLĐ với NLĐ có liên quan đến việc
làm hay không, hoặc các điều khoản của việc làm hoặc các điều kiện làm việc của
bất cứ NLĐ nào.
Quan niệm về tranh chấp lao động của pháp luật hai quốc gia Singapore và
Malaysia cho thấy tranh chấp lao động là các mâu thuẫn, xung đột về quyền và lợi
ích giữa NSDLĐ và NLĐ dù có liên quan đến việc làm hay không, các điều khoản
của việc làm hoặc các điều kiện làm việc của NLĐ nào đó. Với cách quy định như
trên, phạm vi tranh chấp lao động được mở rất rộng.
Ở nước ta, khái niệm “Tranh chấp lao động” chính thức được sử dụng trong
Thông tư liên ngành số 02 TT-LN ngày 02 10 1985 của TAND tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động và T ng cục dạy nghề về việc
hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của T a án về một số việc tranh chấp trong
lao động; sau đó khái niệm tranh chấp lao động được đưa ra trong BLLĐ năm 1994,
tại Điều 157 đ đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động như sau: “Tranh chấp lao
động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương và
các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể
và trong quá trình học nghề”.
Sau thời gian thực tế áp dụng BLLĐ năm 1994, Luật sửa đ i, b sung BLLĐ
năm 2006 đ đưa ra định nghĩa TCLĐ như sau: “Tranh chấp lao động là những
tranh chấp về quyền và lợi ích hợp phát sinh trong quan hệ lao động giữa người lao
động và người sử dụng lao động”. BLLĐ năm 2012 đ quy định: “Tranh chấp lao
3
Trần Ngọc Thích (2008), Giải quyết tranh chấp lao động theo pháp luật Singapore và Malaysia - Bài học
kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học luật Hà Nội, Tr.33
8
động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan
hệ lao động”.4
So với quy định về tranh chấp lao động của BLLĐ năm 1994 thì tranh chấp
lao động trong BLLĐ năm 2012 đ mang tầm khái quát và mở rộng hơn về phạm
vi. BLLĐ năm 1994 chỉ coi những tranh chấp có nguồn gốc phát sinh từ những mâu
thuẫn phải giải quyết trong phạm vi quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, điều
kiện lao động… là TCLĐ. Còn nếu những bất đồng của hai bên không về những nội
dung đó thì không được xác định là TCLĐ.
Quy định về TCLĐ trong BLLĐ năm 2012, tuy có sự mở rộng hơn về phạm
vi so với BLLĐ năm 1994 nhưng so với Singapore và Malaysia thì phạm vi như vậy
vẫn c n khá h p. Bởi nó mới chỉ đề cập đến tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
của QHLĐ mà chưa đề cập đến các chủ thể liên quan đến QHLĐ. Theo quy định
của pháp luật lao động Singapore, TCLĐ c n có thể phát sinh giữa NSDLĐ với
nhau hoặc giữa NLĐ với nhau. Đây có thể xem là những chủ thể có liên quan đến
QHLĐ và khi có sự liên quan đến QHLĐ thì việc giữa họ phát sinh tranh chấp là
điều hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn nữa khái niệm này c n chưa bao quát được hết
các TCLĐ được quy định ngay ở trong BLLĐ năm 2012 (Điều 201) như các tranh
chấp về BHXH, tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa NLĐ với doanh nghiệp đưa
người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Do đó, khái niệm về tranh
chấp như BLLĐ năm 2012 của Việt Nam đ vô tình giới hạn phạm vi tranh chấp và
điều này là không phù hợp với thực tiễn phát sinh tranh chấp lao động.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm tranh chấp lao động như sau:
“Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa
các bên trong quan hệ lao động hoặc quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động”.
Tranh chấp lao động bao gồm hai loại tranh chấp lao động cá nhân và tranh
chấp lao động tập thể.
Theo công văn số 40 KHXX ngày 06 7 1996 của T a án nhân dân tối cao thì
TCLĐ cá nhân được hiểu là “Tranh chấp giữa một bên là cá nhân hoặc giữa những
cá nhân NLĐ với NSDLĐ về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu
nhập, các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện hợp đồng và trong quá trình
học nghề, về xử lý kỉ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc bị đơn phương chấm
dứt HĐLĐ, về bồi thường thiệt hại cho NSDLĐ”.
4
Điều 3 Bộ luật lao động Việt Nam 2012
9
Bộ luật lao động năm 1994 (được sủa đ i năm 2006) thì quan niệm TCLĐ cá
nhân là tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp xảy ra giữa cá nhân NLĐ và
NSDLĐ (Điều 157 BLLĐ năm 1994).
Kế thừa BLLĐ năm 1994, BLLĐ năm 2012 cũng quan niệm TCLĐ cá nhân
là tranh chấp giữa NLĐ với NSDLĐ và TCLĐ tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao
động với NSDLĐ. Tuy nhiên tập thể lao động là một khái niệm mở và pháp luật chỉ
quy định mang tính định tính chứ không mang tính định lượng nên không có nghĩa
cứ tranh chấp của 2 lao động trở lên sẽ được xác định là tranh chấp lao động tập thể.
Bởi vậy tranh chấp lao động cá nhân vẫn có thể xảy ra giữa một nhóm NLĐ với
NSDLĐ. Vì vậy, tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp xảy ra giữa cá nhân
NLĐ và trong một số trường hợp là một nhóm NLĐ với NSDLĐ. Song, nội dung
của nó thường chỉ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân người lao động về
các vấn đề trong quan hệ lao động hoặc quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động
như việc làm, tiền lương, bảo hiểm x hội....
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tranh chấp lao động cá
nhân như sau: “Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân người lao
động hoặc một nhóm người lao động với người sử dụng lao động về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích của cá nhân người lao động phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao
động hoặc quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động”.
1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp lao động cá nhân
Tranh chấp lao động cá nhân trước hết là một TCLĐ nên nó cũng có những
đặc điểm chung của TCLĐ như: về chủ thể tranh chấp là các chủ thể của QHLĐ;
nội dung tranh chấp phải là những vấn đề trong QHLĐ hoặc liên quan đến QHLĐ.
Tuy nhiên, do TCLĐ cá nhân là tranh chấp giữa một cá nhân NLĐ hoặc một nhóm
NLĐ với NSDLĐ về quyền lợi và nghĩa vụ đơn lẻ của từng cá nhân. Trong quá
trình tham gia tranh chấp không có sự liên kết giữa những người lao động tham gia
tranh chấp và t chức công đoàn chỉ tham gia với tư cách là người đại diện bảo vệ
người lao động. Do đó, TCLĐ cá nhân mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, một bên chủ thể của TCLĐ cá nhân là cá nhân NLĐ hoặc là một
nhóm NLĐ.
Ngay từ tên gọi đ thể hiện chủ thể của tranh chấp, TCLĐ cá nhân là tranh
chấp giữa cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ với NSDLĐ. Tranh chấp này khác
với TCLĐ tập thể ở ch chủ thể trong TCLĐ tập thể là tập thể NLĐ và Công đoàn
có thể tham gia với tư cách là một bên của tranh chấp. Hiện nay pháp luật lao động
10
Việt Nam không quy định nhóm NLĐ tham gia TCLĐ gồm bao nhiêu người thì
được coi là TCLĐ cá nhân. Do đó, để phân biệt nhóm người tham gia TCLĐ cá
nhân hay TCLĐ tập thể cần dựa vào mục đích của họ là đ i quyền lợi chung cho tập
thể người lao động hay đ i quyền lợi cho riêng bản thân họ. Chính vì chủ thể của
TCLĐ cá nhân là cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ với NSDLĐ cho nên TCLĐ
cá nhân mang tính đơn lẻ, không có sự t chức, thống nhất ý chí và sự gắn kết giữa
những NLĐ như trong TCLĐ tập thể.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, pháp luật có những quy định khá rạch r i về
TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể. Đây được xem là căn cứ pháp lý xác định loại
tranh chấp. Các nhà làm luật Việt Nam có thể tham khảo các quy định này để đưa ra
những khái niệm rõ ràng giúp cho việc áp dụng pháp luật thống nhất. Theo BLLĐ
1975 của Pháp chỉ quy định về TCLĐ cá nhân là tranh chấp lao động phát sinh liên
quan đến hợp đồng lao động. Như vậy, có thể hiểu những TCLĐ tập thể là những
tranh chấp không liên quan đến hợp đồng lao động mà thường là liên quan đến thỏa
ước lao động tập thể. Pháp luật lao động của Đức cũng phân chia tranh chấp lao
động thành TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể. Cụ thể, TCLĐ cá nhân là tranh chấp
giữa một cá nhân NLĐ với NSDLĐ của mình, c n các tranh chấp khác được xem là
TCLĐ tập thể. Pháp luật lao động của nước thì quy định TCLĐ tập thể là các
tranh chấp lao động liên quan đến các quyền lợi nhóm không thể phân chia, TCLĐ
cá nhân là các tranh chấp c n lại5.
Thứ hai, nội dung của TCLĐ cá nhân là những tranh chấp liên quan đến
quyền, nghĩa vụ, lợi ích của một cá nhân NLĐ về các vấn đề của QHLĐ hoặc quan
hệ có liên quan đến QHLĐ.
Tranh chấp lao động cá nhân thường phát sinh trong việc áp dụng các quy
phạm pháp luật vào từng QHLĐ cụ thể, nghĩa là tranh chấp về những vấn đề mà
pháp luật quy định cho các bên được hưởng hay phải thực hiện hoặc những vấn đề
mà các bên thỏa thuận từ trước trong hợp đồng lao động như: Việc làm, tiền lương,
thời giờ làm việc, thời gian nghỉ ngơi,... Hoặc các vấn đề phát sinh từ quan hệ liên
quan đến QHLĐ như: Hợp đồng đào tạo nghề, bảo hiểm x hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bồi thường thiệt hại... Do dó, nội dung TCLĐ cá nhân giữa một
NLĐ hoặc một nhóm NLĐ với NSDLĐ luôn luôn có sự liên quan tới hợp đồng lao
động bởi vì mục đích của NLĐ hoặc nhóm NLĐ khi tham gia tranh chấp đều vì lợi
5
Bùi Danh Việt (2014), Tranh chấp lao động tập thể theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam, Luận
văn thạc s Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 16.
11
ích riêng của họ và thường phát sinh trong những trường hợp có sự vi phạm hợp
đồng. Đây là điểm khác biệt của TCLĐ cá nhân với TCLĐ tập thể.
Thứ ba, trong TCLĐ cá nhân, t chức công đoàn tham gia với tư cách bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho NLĐ chứ không tham gia với tư cách là một bên của
tranh chấp.
Trong việc giải quyết TCLĐ, quyền tham gia giải quyết tranh chấp của t
chức công đoàn là một trong những nguyên tắc giải quyết TCLĐ cá nhân được pháp
luật quy định. Đối với TCLĐ cá nhân, t chức công đoàn tham gia với tư cách là
người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, đề nghị NSDLĐ xem xét những yêu
cầu của NLĐ. T chức công đoàn không tham gia với tư cách một bên tranh chấp,
trực tiếp yêu cầu NSDLĐ giải quyết quyền lợi cho tập thể lao động như trong
TCLĐ tập thể.
Thứ tư, TCLĐ cá nhân là tranh chấp giữa các bên có địa vị kinh tế - pháp lý
không ngang nhau và không tương xứng về lợi thế.
Trước hết nói về địa vị kinh tế giữa NSDLĐ và NLĐ trong quan hệ lao động,
thì bên sử dụng lao động chính là bên có địa vị kinh tế và cũng là bên được nắm
những đặc quyền trong quản lý. Chính những đặc quyền này dẫn tới NSDLĐ
thường có xu hướng lạm dụng quyền. Ngược lại, NLĐ do không có lợi thế trong
QHLĐ nên thường phát sinh những hành động tự vệ bản năng và dần dần hình
thành ý thức đấu tranh để giành lợi thế, chống lại NSDLĐ. Xuất phát từ hai thái cực
nói trên mà có thể dẫn tới những bất đồng trở thành tranh chấp lao động và đa số
những vụ TCLĐ cá nhân là do NLĐ khiếu nại vì cho rằng mình là bên bị yếu thế và
hành vi của NSDLĐ là trái pháp luật. Sự không bình đẳng giữa các bên trong quá
trình thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động là một đặc điểm cơ bản
phản ánh tính chất đặc thù của quan hệ lao động và TCLĐ.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến địa vị pháp lý của NSDLĐ và NLĐ khi hai bên
xảy ra tranh chấp. Có thể khẳng định, NSDLĐ là bên có lợi thế khi xuất hiện tranh
chấp và trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp do vị trí và những quyền trong
quan hệ lao động đ tạo nên lợi thế cho NSDLĐ. Khi xác lập quan hệ hợp đồng lao
động, các bên thỏa thuận với nhau những nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ,
một khi các bên nhất trí về những thỏa thuận đó những quyền, nghĩa vụ được ghi
trong hợp đồng lao động. Tuy nhiên, các quyền, nghĩa vụ đó được thực hiện bằng
nhiều hành vi trong một quá trình và trong những điều kiện không gian, thời gian
khác nhau chứ không chỉ được thể hiện trong hợp đồng lao động. Diễn biến quá
12
trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên được phản ánh qua bộ máy quản lý,
qua các công cụ quản lý của NSDLĐ. Trong bối cảnh xảy ra tranh chấp, NSDLĐ
hoàn toàn có khả năng giành thế chủ động vì họ nắm trong tay chứng cứ, thậm chí
họ có thể tạo dựng những chứng cứ có lợi cho họ. C n NLĐ, khi cho rằng NSDLĐ
đ có hành vi trái pháp luật, hoặc vi phạm những thỏa thuận giữa hai bên sẽ có ít cơ
hội để làm sáng tỏ tự thật hơn6.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
Trong nền kinh tế thị trường, TCLĐ là một tất yếu khách quan nên việc giải
quyết, xoá bỏ những những tranh chấp này không những có ý nghĩa quan trọng đối
với các bên trong quan hệ tranh chấp mà còn có tác dụng tích cực cho cả nhà nước
và xã hội, theo đó việc giải quyết TCLĐ không chỉ nhằm khôi phục các quyền và
lợi ích hợp pháp của NLĐ hoặc NSDLĐ đ bị NSDLĐ hoặc NLĐ xâm hại; duy trì
và củng cố QHLĐ, đảm bảo sự n định trong sản xuất, kinh doanh trong đơn vị, mà
còn tạo điều kiện cho các bên tranh chấp tiếp tục quan hệ lâu dài, n định với nhau.
Bởi vì, khi TCLĐ xảy ra (bao gồm cả TCLĐ cá nhân), thì ít hoặc nhiều đều ảnh
hưởng đến việc làm, thu nhập của NLĐ cũng như tình hình sản xuất, kinh doanh
của NSDLĐ.
Từ những quy định về TCLĐ và mục đích của việc giải quyết TCLĐ, có thể
đưa ra khái niệm giải quyết TCLĐ cá nhân như sau: “Giải quyết TCLĐ cá nhân là
việc các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiến hành những thủ tục
theo luật định nhằm giải quyết những TCLĐ phát sinh giữa cá nhân NLĐ với
NSDLĐ về việc thực hiện quyền nghĩa vụ và lợi ích của hai bên trong QHLĐ và một
số quan hệ liên quan với QHLĐ”.
1.1.2.2. Mục đích giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
Thứ nhất, giải quyết TCLĐ cá nhân nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
NSD, NSDLĐ. Đối với NLĐ, thu nhập có được từ QHLĐ là nguồn sống chủ yếu
của NLĐ và gia đình họ. Khi tranh chấp xảy ra và không được giải quyết thỏa đáng
thì không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của bản thân NLĐ mà c n khiến cuộc sống
của gia đình họ gặp không ít khó khăn. Thông qua việc giải quyết TCLĐ cá nhân,
những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của NLĐ sẽ được đáp ứng, quyền và lợi
ích hợp pháp của NLĐ được đảm bảo.
6
Hà Thị Thanh Nga (2014), háp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tình hình thực hiện trên
địa bàn thành phố Đà N ng, Luận văn thạc s luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 14.
13
Bên cạnh đó, việc giải quyết TCLĐ cá nhân còn nhằm mục đích bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, không phải
mọi yêu cầu của NLĐ đều hợp lý, chính đáng, thậm chí nó có thể xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Do đó, bảo vệ lợi ích của NSDLĐ cũng là
mục đích của giải quyết TCLĐ cá nhân.
Thứ hai, việc giải quyết TCLĐ cá nhân nhằm duy trì, củng cố QHLĐ và hoạt
động sản xuất kinh doanh trong đơn vị. QHLĐ hài h a, n định là một trong những
yếu tố quan trọng để đảm bảo lợi ích cho cả NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy, cần thiết phải
có sự dung hòa lợi ích của cả hai bên. Giải quyết TCLĐ cá nhân nhằm mục đích
giúp các bên cùng nhau tiến hành thương lượng, thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn,
tránh những xung đột có thể làm chấm dứt QHLĐ. Việc giải quyết TCLĐ cá nhân
không chỉ nhằm củng cố, duy trì QHLĐ mà c n góp phần n định đời sống, đảm
bảo suy trì hoạt động bình thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
sử dụng lao động, góp phần làm cho xã hội n định và phát triển.
Thứ ba, giải quyết TCLĐ cá nhân nhằm hoàn thiện pháp luật lao động và
pháp luật về tố tụng lao động. Khi tham gia giải quyết TCLĐ cá nhân, các cơ quan
quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động có điều kiện nhìn nhận, đánh giá tình
hình, kịp thời thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật lao động, kiểm tra
hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tìm ra giải pháp phù hợp, để từ đó có thể rút
ra những kinh nghiệm để hoàn thiện hơn chức năng quyền hạn của mình. Mặt khác,
quá trình giải quyết TCLĐ cá nhân vừa đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được
áp dụng thống nhất, vừa kiểm tra tính chính xác của các quy phạm pháp luật, đồng
thời tìm ra sự khiếm khuyết hay bất hợp lý của các quy định pháp luật từ đó sửa đ i,
hoàn thiện pháp luật một cách kịp thời.
1.1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
Phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân được hiểu là cách thức tiến hành giải
quyết TCLĐ cá nhân. Hiện nay, các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam TCLĐ
cá nhân được giải quyết bằng các phương thức sau: Thương lượng, hòa giải và tại
TAND.
- Giải quyết TCLĐ cá nhân bằng phương thức thương lượng: Thương lượng
là một quá trình các bên tranh chấp đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết trên tinh
thần tự quyết định thông qua hình thức thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp đó.
Thương lượng để giải quyết TCLĐ cá nhân được xuất phát từ bản chất
QHLĐ là được xác lập trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận. Nên khi tranh chấp xảy
14
ra, cách tốt nhất là các bên tự thương lượng và dàn xếp với nhau về giải quyết.
Phương thức này có rất nhiều ưu điểm. Đó là không chỉ giải quyết TCLĐ cá nhân
một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích các bên trên cơ sở các
bên tự định đoạt, mà c n đơn giản, không tốn kém thời gian, tiền bạc, mặt khác lại
duy trì được QHLĐ.
Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam không quy định
cụ thể về cách thức tiến hành phương thức này. Các bên có thể hoàn toàn tự quyết
định và t chức tiến hành thương lượng. Cho nên không có cơ chế bảo đảm thực
hiện kết quả thương lượng. Vì thế, mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng giải quyết
TCLĐ cá nhân bằng phương thức này trên thực tế, nếu mâu thuẫn các bên gay gắt
thì khó thực hiện được.
- Giải quyết TCLĐ cá nhân bằng phương thức hòa giải: Hòa giải là quá trình
các bên tranh chấp đưa TCLĐ giữa họ ra nhờ người thứ ba (người trung gian) giải
quyết. Theo đó, bên thứ ba sẽ h trợ các bên tranh chấp trong quá trình đàm phán,
hoặc khi đàm phán bế tắc thì bên thứ ba giúp họ đạt được thỏa thuận chung.
Hòa giải để giải quyết TCLĐ cá nhân mang tính bắt buộc. Chỉ trừ một số
TCLĐ cá nhân. Thông qua hòa giải, các bên dễ đạt được kết quả của mình, bởi
người hòa giải thông thường là người hiểu biết pháp luật, hiểu biết điều kiện cụ thể
của hai bên, có kinh nghiệm trong công tác hòa giải.
Cũng như phương thức thương lượng, phương thức hòa giải có ưu điểm rất
lớn là giải quyết TCLĐ cá nhân một cách nhanh chóng, đúng pháp luật, vừa đảm
bảo quyền và lợi ích hai bên, vừa không tốn kém thời gian. Theo đó QHLĐ nhanh
chóng được suy trì và n định. Tuy nhiên, cũng do không có cơ chế đảm bảo thi
hành biên bản hòa giải thành nên phương thức này cũng không giải quyết TCLĐ cá
nhân một cách dứt điểm.
- Giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân: Giải quyết TCLĐ cá nhân
bằng TAND là cách thức giải quyết tranh chấp do Tòa án với tư cách là cơ quan tài
phán mang quyền lực nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Bởi vậy, khi TCLĐ cá nhân không được giải quyết bằng các phương thức thương
lượng, hòa giải thì có quyền yêu cầu TAND giải quyết. Lý do là vì việc giải quyết
TCLĐ cá nhân tại T a án được tuân theo tình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định, người tiến hành giải quyết TCLĐ cá nhân đều là những người có trình độ,
hiểu biết pháp luật lao động và pháp luật tố tụng, có kinh nghiệm trong công tác xét
xử. Ngoài ra, việc giải quyết TCLĐ cá nhân bằng Tòa án còn phải tuân theo các
15
nguyên tắc chặt chẽ, có khả năng giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn giữa các bên và
đặc biệt quyết định hoặc bản án của T a án được đảm bảo tính cưỡng chế thi hành
của cơ quan thi hành án. Từ những lý do này, mà một số tranh chấp lao động cá
nhân, do cần đảm bảo quyền và lợi ích các bên, nhất là bên NLĐ nên pháp luật quy
định khi tranh chấp xảy ra, các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ngay mà
không nhất thiết phải thông qua phương thức hòa giải.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND có
một số hạn chế so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thời hạn giải
quyết vụ tranh chấp cũng có thể kéo dài do phải qua nhiều cấp xét xử, gây tốn kém
thời gian, tiền bạc cho các bên đương sự.
1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án nhân dân và nội
dung điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà
án nhân dân
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Toà án nhân dân
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là việc các t chức, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết những tranh
chấp phát sinh giữa cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ với NSDLĐ về việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ và lợi ích của hai bên trong quan hệ lao động, khôi phục các
quyền và lợi ích hợp pháp đ bị xâm hại, xóa bỏ tình trạng bất bình, mâu thuẫn giữa
NLĐ và NSDLĐ, duy trì và củng cố QHLĐ, bảo đảm sự n định trong sản xuất,
kinh doanh.
TCLĐ cá nhân có thể được giải quyết bằng các phương thức: h a giải hoặc
xét xử tại T a án. Có những loại tranh chấp bắt buộc phải giải quyết qua giai đoạn
h a giải, có loại tranh chấp mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn yêu cầu h a giải
hoặc khởi kiện ra T a án.
Từ những phân tích trên có thể nêu ra khái niệm giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Tòa án là “Hoạt động giải quyết các tranh chấp giữa một hoặc một
nhóm NLĐ với NSDLĐ, có liên quan đến hợp đồng lao động bằng một bản án,
quyết định do T a án tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định và được đảm
bảo thi hành bằng biện pháp cư ng chế nhà nước”.
Giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND là một trong những phương thức giải
quyết tranh chấp hữu hiệu thường được các bên lựa chọn khi tranh chấp lao động cá
16
nhân phát sinh. Điều đó xuất phát từ những đặc điểm mang tính ưu việt hơn các
phương thức giải quyết tranh chấp khác, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND được thực hiện bởi T a
án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được tiến hành
theo trình tự, thủ tục chặt chẽ.
T a án nhân dân là cơ quan tư pháp nhân danh nhà nước thực hiện quyền tài
phán, được t chức chặt chẽ theo hệ thống gồm bốn cấp là T a án nhân dân cấp
huyện; T a án nhân dân cấp tỉnh, T a án nhân dân cấp cao và T a án nhân dân tối
cao. Trong cơ cấu, t chức của hệ thống T a án theo Luật t chức T a án nhân dân
năm 2014, T a án nhân dân cấp cao có T a lao động là T a chuyên trách trực tiếp
giải quyết các vụ án lao động; đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh và T a án nhân dân
cấp huyện thì tuỳ thuộc vào số lượng các vụ việc phải giải quyết mà có thể thành
lập Toà chuyên trách là Toà Lao động.
Về trình tự thủ tục, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND phải tuân theo
trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật định, việc vi phạm thủ tục tố tụng sẽ dẫn đến bản
án, quyết định của T a án có thể hủy. Ngoài ra đương sự có thể kháng cáo, yêu cầu
T a án cấp trên xét xử lại, nếu thấy phán quyết của T a án cấp sơ thẩm là không
thỏa đáng hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng. Với cơ chế đảm bảo nguyên tắc hai cấp
xét xử, pháp luật cho phép đương sự thực hiện quyền kháng cáo đối với những bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của cấp xét xử sơ thẩm. C n đối với bản
án, quyết định đ có hiệu lực pháp luật, đương sự vẫn có quyền khiếu nại đến người
có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Với
trình tự thủ tục xét xử hai cấp và thủ tục xem xét lại cả bản án, quyết định đ có
hiệu lực pháp luật là cơ sở để đảm bảo các phán quyết của T a án được ban hành
đúng pháp luật trước khi đưa ra thi hành.
Thứ hai, giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND là hoạt động giải quyết cuối
cùng sau khi TCLĐ cá nhân đ được giải quyết ở các giai đoạn khác nhau mà không
đạt kết quả (trừ một số trường hợp nhất định) nên việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại
TAND góp phần giải quyết dứt điểm tranh chấp lao động, góp phần bảo vệ người
lao động, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, lợi ích nhà nước
và x hội; giải quyết quyền lợi cho các bên theo quy định của pháp luật.
Việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND được tiến hành khi các phương
thức thỏa thuận, h a giải ở các giai đoạn trước đó đ được sử dụng nhưng không đạt
kết quả. Đối với đa số các TCLĐ cá nhân thì điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án lao
17
động tại T a án đó là bắt buộc phải thông qua thủ tục h a giải. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một
cách nhanh chóng nhằm tiếp tục quan hệ lao động, các bên chủ thể có thể khởi kiện
trực tiếp ra T a án yêu cầu giải quyết tranh chấp mà không cần thông qua thủ tục
h a giải.
Thứ ba, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND được thực hiện bởi Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm nên hạn chế
được sự tùy tiện, trái pháp luật về nội dung và thủ tục trong việc giải quyết tranh
chấp. Các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
đảm bảo tính khách quan trong phán quyết của Tòa án.
Thứ tư, phán quyết của T a án được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp
cưỡng chế Nhà nước nên quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được đảm bảo thực
hiện triệt để thông qua cơ quan thi hành án. Điều này giúp củng cố niềm tin của các
chủ thể vào pháp luật và hoạt động của cơ quan nhà nước, là ch dựa pháp lý vững
chắc cho NLĐ và NSDLĐ. Mục đích hàng đầu của đương sự khi khởi kiện là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán
quyết của T a án bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là một ưu điểm, tạo
ra sự khác biệt trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại cơ quan tài phán 7.
Chính sự bảo đảm thực thi các phán quyết của T a án tạo được l ng tin của nhân
dân đối với Nhà nước về việc Nhà nước có thể bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, đồng thời tạo được niềm tin của nhân dân vào pháp chế x hội chủ
nghĩa, pháp luật là thượng tôn và pháp luật phải được thực thi.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Toà án nhân dân
Tranh chấp lao động cá nhân là hiện tượng kinh tế - x hội khách quan trong
nền kinh tế thị trường. Tính chất phức tạp của TCLĐ cá nhân yêu cầu cần có sự
điều chỉnh pháp luật để hạn chế những tác động tiêu cực của nó, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên.
Điều chỉnh pháp luật đối với việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại T a án là
nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ và NLĐ. Sự can thiệp
của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật sẽ góp phần bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của NSDLĐ và NLĐ thông qua cơ quan tài phán là T a án, bởi
7
Lê Thị Hường (2012), Giải quyết tranh chấp lao động tại T a án theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.6.
18
đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền
năng được thực hiện. Do vậy, những nội dung điều chỉnh pháp luật về giải quyết
TCLĐ cá nhân tại T a án bao gồm: Thẩm quyền của T a án; thời hiệu khởi kiện;
trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND
- Về thẩm quyền của TAND trong giải quyết TCLĐ cá nhân
T a án là cơ quan giải quyết một cách có hiệu quả nhất các TCLĐ cá nhân,
nên hầu hết pháp luật các nước đều quy định T a án có thẩm quyền giải quyết loại
tranh chấp này. Tuy nhiên, do T a án là một thiết chế đặc biệt có chức năng giải
quyết tranh chấp và là công cụ để thực hiện quyền tư pháp mang tính quyền lực của
Nhà nước, cho nên việc giải quyết tranh chấp lao động tại T a án ở từng quốc gia
có những nội dung chịu tác động của cơ sở kinh tế - x hội và cơ sở pháp lý mang
đặc thù riêng của m i quốc gia đó, dẫn tới sự hình thành, t chức của thiết chế T a
án cũng có sự khác biệt giữa các quốc gia. Trên thế giới việc giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân được giải quyết thông qua hai t chức thiết chế T a án cơ bản đó là:
Thứ nhất: Thành lập Toà Lao động hoạt động riêng biệt và độc lập với các
Toà Dân sự, đồng thời Toà Lao động tiến hành xét xử theo một thủ tục tố tụng lao
động riêng.
Tiêu biểu cho hình thức t chức Toà án như vậy là ở Đức. Từ năm 1926, một
đạo luật được Nghị viện Đức thông qua làm cơ sở cho các “Toà án Lao động”. Tòa
lao động là một hệ thống t a án độc lập, có thẩm quyền giải quyết cả TCLĐ cá nhân
và TCLĐ tập thể. T a án lao động gồm 03 cấp: T a án lao động địa phương (cấp sơ
thẩm), T a án lao động bang (cấp phúc thẩm), T a án lao động liên bang (cấp Giám
đốc thẩm, tái thẩm). Thẩm phán của Hội đồng xét xử tại T a án lao động (cấp sơ
thẩm) và T a án lao động bang gồm 01 Thẩm phán chuyên nghiệp và 02 Thẩm
phán danh dự (Thẩm phán không chuyên); tại T a án liên bang gồm 03 Thẩm phán
chuyên nghiệp và 03 Thẩm phán danh dự, trong đó 01 Thẩm phán danh dự đại diện
cho giới chủ và 01 đại diện cho giới thợ8. Hệ thống T a án lao động của Công h a
liên bang Đức được coi là kết quả của sự chuyên môn hóa trong hoạt động xét xử
dân sự của T a án thường.
Rõ ràng việc có một hệ thống tài phán lao động riêng được coi là hữu ích bởi
các Toà án sẽ có khả năng đạt được thoả hiệp giữa các bên trong đa số các trường
hợp, và do hai bên đều có đại diện trong Hội đồng xét xử nên các phán quyết dễ
8
Lê Thị Hường (2012), Giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr.9.
19
được bên thua kiện chấp nhận hơn. Thêm vào đó, các Thẩm phán có kiến thức
chuyên sâu về pháp luật lao động và kinh nghiệm đặc biệt trong quan hệ lao động.
Các Thẩm phán có cơ hội đóng góp những kinh nghiệm liên hệ thực tiễn và kiến
thức cơ bản về pháp luật lao động vào việc tranh tụng tại toà. Thủ tục tố tụng được
xây dựng riêng cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động, nên sẽ
phù hợp với những đặc trưng của quan hệ lao động và đáp ứng được yêu cầu giải
quyết nhanh chóng, kịp thời của các TCLĐ.
Thứ hai: Các quốc gia thành lập Toà Lao động nằm trong hệ thống Toà Dân
sự chung và hoạt động xét xử theo những quy tắc tố tụng trong BLTTDS.
Toà Lao động được thành lập theo hình thức này tương đối ph biến trên thế
giới. Các quốc gia quy định Toà án Lao động nằm trong hệ thống Toà án Dân sự
hoặc Toà Tư pháp có thể kể đến như Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản…
Ví dụ, tại Thái Lan, hệ thống Toà án bao gồm: Toà Hiến pháp, Toà Tư pháp,
Toà Hành chính và Toà Quân đội (Hiến pháp 1997). Toà Lao động thuộc về Toà Tư
pháp, theo đó Toà Tư pháp gồm hai bộ phận: Hành chính và xét xử. Các Toà Tư
pháp được phân thành ba cấp: Toà sơ thẩm, Toà phúc thẩm và Toà tối cao. Toà sơ
thẩm gồm Toà xét xử chung và Toà chuyên biệt. Hiện nay ở Thái Lan có năm Toà
chuyên biệt: Toà Gia đình và Vị thành niên, Toà Lao động, Toà Thuế, Toà Sở hữu
trí tuệ và Thương mại quốc tế, Toà Phá sản. Việc thành lập Toà chuyên biệt nhằm
bảo đảm các vụ kiện thuộc từng lĩnh vực được giải quyết bởi các Thẩm phán phù
hợp. Thẩm phán tại Toà chuyên biệt phải là người có kiến thức chuyên môn phù
hợp với lĩnh vực xét xử của Toà đó.9
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng ngoài việc xác định thiết chế Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, pháp luật còn xác định các tranh chấp
lao động nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (thẩm quyền theo vụ việc),
T a án các cấp có thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp lao động cá nhân nào
(thẩm quyền theo cấp của T a án), T a án nào có thẩm quyền giải quyết (thẩm
quyền theo l nh th ) và các đương sự được quyền lựa chọn Tòa án giải quyết.
- Về thời hiệu khởi kiện vụ việc TCLĐ cá nhân tại T a án
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp lao động cá nhân tại T a án, m i quốc gia lại
có những quy định khác nhau. Chẳng hạn, pháp luật lao động Trung Quốc về cách
9
Nguyễn Thị Thanh Loan (2016), Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án và thực tiễn thi hành
tại TAND Thành phố Hà Nội, luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học x hội, Hà nội, tr.17, 18.