Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã yên ninh huyện phú lương tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

DƯƠNG VĂN HƯNG
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI
XÃ YÊN NINH, HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Lâm nghiệp

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2014 - 2018

Thái Nguyên, năm 2018


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

DƯƠNG VĂN HƯNG
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI
XÃ YÊN NINH, HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Lâm nghiệp

Lớp

: K46LN

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2014 - 2018

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Thu Hiền


Thái Nguyên, năm 2018


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là quá trình điều tra
trên thực địa hoàn toàn trung thực, khách quan, chưa công bố trên tài liệu nào.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Thái Nguyên, ngày 17 tháng 6 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA GVHD

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

TS. Nguyễn Thị Thu Hiền

Dương Văn Hưng

Xác nhận của giáo viên chấm phản biện
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót
Sau khi hội đồng chấm yêu cầu.
(ký, ghi rõ họ tên)


ii


LỜI CẢM ƠN
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự nhất trí của Ban
giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên cùng giảng viên hướng dẫn cô TS. Nguyễn Thị Thu
Hiền tôi tiến hành thực hiện đề tài ‘‘Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng
cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên’’.
Trong quá trình thực tập, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự giúp đỡ
của nhiều tổ chức, cá nhân. Tôi xin chân thành cảm sự giúp đỡ của các thầy
cô giáo trong Khoa Lâm nghiệp và đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Thu Hiền đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực tập.
Xin được gửi lời cảm ơn đến cán bộ, nhân viên UBND xã Yên Ninh,
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thầy
lang, bà mế thuộc xã Yên Ninh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài này. Mặc dù đã nỗ lự cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh
nghiệm cũng như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt
nghiệp không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được
những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như các bạn đọc khác để
khóa luận được hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Thái Nguyên, ngày 17 tháng 6 năm 2018
Sinh viên

Dương Văn Hưng


3

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất đai của xã Yên Ninh 2017......................... 20
Bảng 2.2. Tổng giá trị sản xuất của xã Yên Ninh Năm 2017 ......................... 22
Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra cây thuốc của đồng bào các dân tộc tại khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 26
Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu .................... 30
Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp ngành Mộc lan ...................... 32
Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ........................... 34
Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
với số loài từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2)........................ 35
Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều loài được sử dụng làm thuốc ............... 36
Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
........38
Bảng 4.7. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu
.....40
Bảng 4.8. Đa dạng các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng đồng
dân tộc Tày và Sán Chí tại khu vực nghên cứu .............................. 43
Bảng 4.9. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng
đồng dân tộc Tày và Sán Chí tại khu vực nghiên cứu ................... 44
Bảng 4.10. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ............... 45
Bảng 4.11. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 50
Bảng 4.12. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Cỏ xước và cây
Chè dây ................................................................................. . 53


4

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH
Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 27
Hình 4.1. Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu................... 33

Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu .. 39
Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc ở
khu vực nghiên cứu......................................................................... 40
Hình 4.4. Hình ảnh một số loài cây thuốc cần được bảo vệ ở khu vực
nghiên cứu ................................................................................ 52
Hình 4.5. Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết ............................... 53


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBND:

Ủy ban nhân dân

32/NĐ-CP:

Nghị định số32 của Chính phủ

SĐVN:

Sách đỏ Việt Nam

KVNC:

Khu vực nghiên cứu

UNESCO:

Tổ chức Di sản văn hóa thế giới


TCN:

Trước công nguyên

DLDDCT:

Danh lục đỏ cây thuốc

SL:

Số lượng


6

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH ....................................................................... iv
MỤC LỤC ........................................................................................................ vi
PHẦN 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài....................................................................................... 3
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học......................................................................... 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 4
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu...................................................... 4

2.2. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới và trong nước ....................................
5
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới ........................................................ 5
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước.......................................................... 13
2.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu ...........................................................
19
2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................................
19
2.3.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa xã hội ........................................................ 22
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP .
24
NGHIÊN CỨU............................................................................................... 24
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 24
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 24
3.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 25


vii

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN........................... 30
4.1. Đa dạng các bậc taxon nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong
cộng đồng một số dân tộc thiểu số tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên .................................................................................................... 30
4.1.1. Đa dạng về bậc ngành, lớp .................................................................... 30
4.1.2. Đa dạng bậc họ ...................................................................................... 34
4.1.3. Đa dạng ở bậc chi.................................................................................. 36
4.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc......................................... 38
4.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc .............................. 40
4.4. Vấn đề sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu
vực nghiên cứu ................................................................................................ 42

4.4.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc .......................................... 42
4.4.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc..................... 45
4.5. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở
khu vực nghiên cứu ......................................................................................... 50
4.6. Nghiên cứu khả năng kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử
dụng trong cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu ........... 52
PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ .................................. 54
5.1. Kết luận .................................................................................................... 54
5.2. Tồn tại ...................................................................................................... 55
5.3. Kiến nghị .................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57



1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài
nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân
tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần
Thúy và cộng sự, 2005) [22]. Mỗi dân tộc có truyền thống văn hoá và phong
tục tập quán khác nhau. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác
biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng
đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian
về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh.
Cây thuốc dân gian từ lâu đã được nhiều người quan tâm đến, đây là
nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa phương
trong việc phòng chữa bệnh, ngoài ra nó còn có giá trị trong việc bảo tồn

nguồn gen,cung cấp cho lĩnh vực dược học.
Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng
và phong phú, trong đó có tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là khu vực Trường
Sơn. Thêm vào đó với những kinh nghiệm đã được tích lũy qua 4000 năm
lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho nhu cầu cuộc sống từ ăn,
mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh… của cộng đồng 54 dân tộc anh em.
Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thực vật trong đó
có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống và sức khỏe của
mọi người đặc biệt là các đồng bào Dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa
nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên
thiên nhiên trong đó có rừng.


2

Bằng những kinh nghiệm dân gian của những người làm thuốc trong mỗi
dân tộc, những tri thức về cây thuốc được truyền miệng và lưu truyền cho con
cháu đời sau, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trải qua thời gian, các bài thuốc
có tính độc đáo và trở nên thông dụng trong việc chăm sóc sức khỏe người
dân của cộng đồng mình và những dân tộc xung quanh. Vì vậy, đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc cũng như bảo tồn tri thức y
học dân gian được tiến hành và mang lại giá trị khoa học và thực tiễn.
Thái Nguyên là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới ẩm, có
thảm thực vật rất đa dạng, phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh
sống như: Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao,… Từ rất lâu đời, đồng bào các
dân tộc thiểu số ở tỉnh Thái Nguyên đã có truyền thống chữa bệnh bằng cây
thuốc, mỗi dân tộc lại mang bản sắc và những kinh nghiệm chữa bệnh bằng
thực vật riêng, đặc trưng cho dân tộc mình. Trong số đó có đồng bào hai dân
tộc Tày và Sán Chí tại xã Yên Ninh - Huyện Phú Lương cũng có nhiều kinh
nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay diện

tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán diễn ra một cách
phức tạp, dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt
khác những bài thuốc được đồng bào hai dân tộc Tày và Sán Chí sử dụng từ
lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở
khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con
đường khoa học. Vì vậy, để góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và
phát triển các bài thuốc của cộng đồng các dân tộc tại xã Yên Ninh - Huyện
Phú Lương, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng
cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”.


3

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc thiểu số tại xã Yên
Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao được cộng đồng một số dân tộc thiểu số tại xã Yên Ninh, huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên sử dụng trong phòng và trị bệnh.
- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện
có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng một
số dân tộc thiểu số tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn

và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc thiểu số xã
Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.


4

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Tri thức bao gồm sự hiểu biết về sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên
xung quanh con người. Hệ thống tri thức là sản phẩm trí tuệ của loài người
được tích lũy từ những kinh nghiệm của quá trình lao động sản xuất thực tiễn
trong cuộc sống hàng ngày. Hệ thống tri thức này hình thành trong thời gian
dài lịch sử, tồn tại và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội qua
sự trải nghiệm của nhân dân lao động.
Vậy tri thức bản địa là gì? Theo định nghĩa chung cuả tổ chức Di sản văn
hóa thế giới (UNESCO), tri thức bản địa là tri thức hoàn thiện được duy trì,
tồn tại và phát triển trong một thời gian dài với sự tương tác qua lại gần gũi
giữa con người với môi trường tự nhiên nó được truyền miệng từ đời này sang
đời khác và rất ít khi được ghi chép lại. Tri thức bản địa là tri thức được tạo ra
bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẽ với thiên
nhiên trong một vùng nhất định. Tri thức bản địa là nguồn tài nguyên quốc gia
giúp ích rất nhiều cho quá trình phát triển theo những phương sách ít tốn kém,
có sự tham gia của người dân và đạt được sự bền vững. Các dự án phát triển
dựa trên cơ sở tri thức bản địa sẽ lôi kéo được nhiều người dân tham gia, vì nó
hợp với suy nghĩ của nhân dân, dân biết phải làm gì và làm như thế nào. Đó
chính là cơ sở của sự thành công. Đặc điểm quan trọng của tri thức bản địa là
luôn thích ứng với sự thay đổi của môi trường, các cộng đồng cư dân địa
phương luôn có ý thức bản địa hóa những du nhập từ bên ngoài có lợi và thích
hợp với cộng đồng.

Trước đây người ta khái niệm lâm sản chủ yếu là gỗ, ít quan tâm đến các
thành phần khác gỗ. Ngày nay, trong các chiến lược phát triển bền vững của


5

các dự án lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp người ta đã chú ý nhiều đến
các lâm sản khác ngoài gỗ. Và có khái niệm cơ bản về Lâm sản ngoài gỗ là
bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được
từ rừng hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ
ở tất cả các hình thái của nó.
Các loài cây thuốc đa phần là các sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ thuộc một
phần của tài nguyên thực vật. Tài nguyên thực vật là tổng hợp của sinh quyển
trong một loạt các thảm thực vật. Tài nguyên thực vật như là các nhà sản xuất
chính, để duy trì chu kỳ dinh dưỡng sinh quyển và cơ sở dòng năng lượng
trên trái đất. Tài nguyên thực vật giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với
cuộc sống của con người nói riêng và sinh vật nói chung. Nhưng trong thời
gian vừa qua tài nguyên này đã bị suy thoái nghiêm trọng do sự tác động tiêu
cực của con người, chính vì vậy, gần đây Đảng và nhà nước ta đã có những
chủ trương, đường lối mới như: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004,
Luật Đất đai năm 2013, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Nghị định 32 của
Chính phủ năm 2010,… cùng với hàng loạt các văn bản khác đã ra đời nhằm
bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lí. Đây là một cơ sở
pháp lí quan trọng để thực hiện thành công đề tài tri thức bản về khai thác và
sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở xã Yên Ninh.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới, đây là hướng

nghiên cứu ứng dụng được quan tâm từ rất sớm và thu được nhiều thành tựu
to lớn. Đặc biệt là Trung Quốc, có thể khẳng định đây là quốc gia đi đầu trong
việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Một nghiên cứu rất thành công của họ


6

đã cho ra đời cuốn sách "Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở Trung Quốc" vào
năm 1968, do các nhà nghiên cứu Vân Nam - Trung Quốc thực hiện. Cuốn
sách này đã đề cập tới đặc điểm sinh thái, công dụng, kỹ thuật gây trồng, ché
biến và bảo quản cây Thảo quả (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002) [21]. Ở
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản
địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có
những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như:
- Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các thầy lang ở
Kancheepuram quận Tamil Nadu, Ấn Độ của Chellaiah Muthu và cộng sự tìm
thấy 85 loài thực vật thuộc 76 chi và 41 họ để điều trị các bệnh khác nhau, các
cây thuốc đã được ghi nhận chủ yếu được sử dụng để chữa các bệnh về da,
rắn độc cắn, đau bụng và rối loạn thần kinh (Chellaiah Muthu và cộng sự,
2006) [38].
- Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng bởi các nhóm dân tộc Yi, ở
trung tâm Vân Nam, Trung Quốc của Chunlin Long và cộng sự đã tìm thấy
116 loài cây thuốc thuộc 58 chi được người dân địa phương sử dụng trong
việc điều trị các bệnh hoặc rối loạn khác nhau, đặc biệt là những bệnh liên
quan đến chấn thương, rối loạn tiêu hóa và cảm lạnh thông thường (Chunlin
Long và cộng sự, 2009) [37].
- Nghiên cứu về tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của cộng đồng
Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã được Manju
Panghal và cộng sự tìm thấy có 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được
người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây

thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ
Fabaceae (Manju Panghal và cộng sự, 2010) [50].
- Kết quả đánh giá về các loài cây làm thuốc của tài nguyên thực vật ở
Banda Daud Shah, quận Karak, Pakistan của Waheed Murad và cộng sự đã


7

thống kê được 58 loài thực vật thuộc 52 chi và 34 họ được cộng đồng địa
phương sử dụng cho các mục đích khác nhau, có 40 loài thực vật được sử
dụng để điều trị nhiều loại bệnh, trong đó số lượng các loài được sử dụng
nhiều nhất để điều trị các loại bệnh về dạ dày – ruột, long đờm và hạ sốt
(Waheed Murad và cộng sự, 2013) [63].
- Kết quả khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc của Mi-Jang Song và
cộng sự đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử
dụng các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại (Mi-Jang Song và
cộng sự, 2013) [51].
- Công trình nghiên cứu cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân
tộc Karen và Lawa ở Thái Lan của Auemporn Junsongduang và cộng sự đã
tìm thấy ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc,
trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử
dụng nhiều nhất (Auemporn Junsongduang và cộng sự, 2013) [30].
- Công trình nghiên cứu về đa dạng và sử dụng cây thuốc dân tộc trong
khu vực Swat, Bắc Pakistan của Naveed Akhtar và cộng sự đã ghi nhận 106
loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử dụng để điều trị bệnh
(Naveed Akhtar và cộng sự, 2013) [55].
- Công trình khảo sát kinh nghiệm sử dụng cây thuộc bởi gia tộc Deb
Barma của bộ tộc Tripura quận Moulvibazar, Bangladesh của Mohammad
Kabir và cộng sự đã ghi nhận 44 cây thuốc thuộc 34 họ được các thầy thuốc
trong gia tộc sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: đau, ho, cảm lạnh,

rối loạn tiêu hóa, vết cắt và vết thương, bệnh tiểu đường, sốt rét, bệnh về tim
và tê liệt (Mohammad Kabir và cộng sự, 2014) [53]. .
- Công trình nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc
được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin
của hai tác giả Homervergel G. Ong và Young-Dong Kim đã tìm thấy 142


8

loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh (Homervergel
G. Ong và Young-Dong Kim, 2014) [45].
- Kết quả điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc
được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia Gayasan, Hàn Quốc của MiJang Song và cộng sự đã xác định có 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ
được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ
xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương (MiJang Song và cộng sự, 2014) [52]..
- Nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc được bởi cộng đồng người
Tamang ở quận Makawanpur của trung tâm Nepal của Dol Luitel và cộng sự
đã tìm thấy có 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử
dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Dol Luitel và cộng sự, 2014) [40].
Ở Châu Âu: Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người
dân bản địa được thực hiện:
- Công trình nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc trong công viên tự
nhiên của Serra de Saox Mamede, Bồ Đào Nha của Joana Camejo –
Rodrigues và cộng sự đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau (Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự,
2004) [46]. - Công trình nghiên cứu công dụng của cây thuốc trong khu vực
Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền nam nước Ý của Maria Lucia
Leporatti và Massimo Impieri đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được
người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh

về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp (Maria Leporatti và
Massimo Impieri, 2007) [48].
- Kết quả phân tích so sánh các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ
truyền tại Ý và Tunisia của Maria Leporatti và Kamel Gheddira đã ghi nhận


9

có 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị
các bệnh khác nhau (Maria Leporatti và Kamel Gheddira, 2009) [42].
- Kết quả khảo sát cây thuốc ở Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ của Ugur
Cakilcioglu và cộng sự đã tìm thấy 88 loài thực vật thuộc 41 họ được sử dụng
cho mục đích điều trị bệnh (Ugur Cakilcioglu và cộng sự, 2011) [62]. Nghiên
cứu về kiến thức truyền thống của cây thuốc trong công viên tự nhiên Serra de
Mariola, Đông Nam Tây Ban Nha của Belda và cộng sự đã ghi nhận có 93
loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh khác
nhau (Belda và cộng sự 2012) [32].
Công trình nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của
dãy núi Alps Albania ở Kosovo của Behxhet Mustafa và cộng sự đã ghi nhận

98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh
khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ
Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae (Behxhet Mustafa và cộng sự, 2012) [33].
Công trình nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân
địa phương của Alasehir, Manisa, ở Thổ Nhĩ Kỳ của Seyid Ahmet Sargin và
cộng sự đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau (Seyid Ahmet Sargin và cộng sự, 2013) [39].
- Công trình nghiên cứu về sử dụng cây thuốc trong khu vực Đông Nam
của Vườn Partenio, Khu vực Campania, miền Nam nước Ý của Bruno Menale
và Rosa Mucio đã tìm thấy 87 loài thực vật thuộc 76 chi và 35 họ được người

dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau cho cả người và động vật (Bruno
Menale và Rosa Mucio, 2014) [34].
Châu Mĩ, đã có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người
dân bản địa cũng được thực hiện:
- Kết quả nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu
vực Xingó – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil của nhóm tác giả


10

Cecilia Almeida và cộng sự (2006) đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128
chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông
thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần (Cecilia
Almeida và cộng sự, 2006) [36].
- Kết quả nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cổ truyền tại tỉnh Loja, Nam
Ecuador của Rainer W Bussmann và Douglas Sharo (2006) đã ghi nhận cố
215 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh (Rainer
W Bussmann và Douglas Sharo, 2006) [57].
- Kết quả về sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của
họ ở tỉnh Camaguey, Cuba của Gabriele Volpato và cộng sự cho thấy, có 123
loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau (Gabriele Volpato và cộng sự, 2009) [43]. Công
trình nghiên cứu về cây thuốc của cộng đồng Asháninka - một nghiên cứu từ
các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junín, Peru của Gaia Luziatelli và
cộng sự (2010) cho thấy, có 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để
điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu
thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae (Gaia Luziatelli và cộng sự, 2010) [44].
- Công trình nghiên cứu về các loài thực vật làm thuốc được sử dụng
bởi các cư dân làng Genoy, Pasto, Colombia của Andrés Felipe Angulo C.

và cộng sự (2012) cho thấy, có 63 loài thực vật thuộc 31 họ được người
dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, trong đó các họ được sử dụng
chủ yếu thuộc các họ: Lamiaceae và Asteraceae (Andrés Felipe Angulo C.
Và cộng sự, 2012) [65]. Công trình nghiên cứu về cây thuốc của khu vực
Carraso, Đông Bắc Brazil của Renata Kelly Dias Souzaa và cộng sự (2014)
cho thấy, có 32 loài thực vật thuộc 29 chi và 20 họ được người dân địa


11

phương sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau (Renata Kelly Dias Souzaa
cộng sự, 2014) [ 56].
- Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng
Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina”, đã chỉ ra 121
loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu
hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục
(Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [58].
Ở châu Phi: Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng
nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho
thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa
dạng và phong phú (African Ethnobotany, African Medicinal Plants, 2013)
[29]:
- Công trình “Thực vật dân tộc của Samburu của Mt. Nyiru, Nam
Turkana, ở Kenya” của Rainer W Bussmann và cộng sự (2006) [61] đã thống
kê được 448 loài thực vật mà người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh
khác nhau.
- Công trình “Nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc được sử dụng
bởi người dân ở Zegie Peninsula, Tây Bắc Ethiopia” của Tilahun
Teklehaymanot và Mirutse Giday và cộng sự (2007) [60] đã cho thấy có 67
loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được người dân sử dụng để điều trị các

bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh trùng và nhiễm trùng.
- Công trình “Kiến thức cây thuốc của dân tộc Bench ở Ethiopia”, của
Woldu và Tilahun Teklehaymanot (2009) [49] đã tìm thấy có 35 loài thực vật
được sử dụng để làm thuốc, trong đó 32 loài được sử dụng để điều trị các
bệnh cho người và 3 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho cả người và
gia súc.
- “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong
Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài


12

thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị
các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J Simbo,
2010) [41].
- Công trình “Khảo sát về cây thuốc và gia vị được sử dụng trong BeniSueif, Bắc Ai Cập”, theo nghiên cứu của Sameh F AbouZid và Abdelhalim
Mohamed (2011) [59] đã ghi nhận có 48 loài thực vật thuộc 47 chi và 27 họ
được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tim mạch, tiêu hóa
và hô hấp.
- “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [31].
- Công trình “Cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển
Agnalazaha, Đông Nam Madagascar” của Razafindraibe và cộng sự (2013)
[54] đã thống kê được có 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa
phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những
người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới
như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và

giang mai.
- Kết quả nghiên cứu “Một nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng bởi
cộng đồng Marakwet ở Kenya” của Wilson Kipkore và cộng sự (2014) [64]
đã tìm thấy 111 loài cây làm thuốc được người dân sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau.
- Nghiên cứu về “Sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia” của Berhane Kidane và
cộng sự (2014) [35] đã ghi nhận có 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49
họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh
khác nhau.


13

Ở châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được
thực hiện ở châu Úc còn rất ít. “Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử
dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia”
của Joanne Packera và cộng sự (2012) [47] đã ghi nhận có 32 loài cây thuốc
thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những
công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức
dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và
phong phú.
Như vậy, để phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe con người
và để chống lại các bệnh nan y là vấn đề thực sự cần thiết của các nhà khoa
học, các nhà y học cổ truyền. Có thể thấy việc điều tra và nghiên cứu các loài
cây thuốc của các nhà khoa học, đã để lại những công trình nghiên cứu mang
tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về
sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu đời, có thể nói nó
xuất hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy.
Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra
công dụng của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy tổ tiên chúng ta
đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây
rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngày càng có nhiều công
trình nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc Việt Nam. Năm 1976, để phục vụ
cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc, dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã
cho ra đời cuốn sách “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” (Vũ Văn Chuyên,
1967) [6]. Năm 1980, Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ
tay cây thuốc Việt Nam” giới thiệu 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài
mới được phát hiện (Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương, 1980) [1]. Viện


14

dược liệu đã cho xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã tổng kết
các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong nhiều năm, cuốn “Danh lục cây
thuốc miền Bắc Việt Nam”; “Danh lục cây thuốc Việt Nam”; “Atlas – Bản đồ
cây thuốc”, đã thống kê và công bố một danh sách về cây thuốc từ năm 1961
– 1972 ở miền Bắc là 1.114 loài, từ năm 1977 – 1985 ở miền Nam là 1.119
loài (Dẫn theo Viện Dược Liệu, Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, 1993) [28].
Viện Dược liệu (1993) [28], trong quá trình thu thập và nghiên cứu về
cây thuốc cho thấy, các cây thuốc hiện nay ở Việt Nam biết đến chủ yếu được
sử dụng theo kinh nghiệm dân gian và trong số trên 2000 loài và dưới loài cây
thuốc có tới gần 90% cây thuốc là các cây mọc tự nhiên và được phân bố chủ
yếu trong các quần thể rừng với trữ lượng lớn, khoảng 10% là cây thuốc được
đem về trồng ngay tại nhà.
Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học

đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam”
(1993) của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Dẫn theo Viện
Dược Liệu, Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, 1993) [28].
Công trình “1900 loài cây có ích” của Trần Đình Lý (1995) [15], đã
thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo,
160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây. Lương y lão thành,
thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với công trình “Cây thuốc Việt Nam” (1995)
đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức,1997) [11].
Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã
biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ
về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (1996)
(Võ Văn Chi,1996) [4]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II
đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Võ
Văn Chi, 2012) [5].


15

Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm
tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia
truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [14]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương
thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [2] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên
khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [3] của Tào Duy Cần
“Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong, 2006)
[10]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập
hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [12]; “Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của
Phạm Thiệp và cộng sự (2000) [20] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến,…
Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố

trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn
liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177
loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [8].
Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở
huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng
Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [9]. Các tác giả đã phân loại cây được
sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về
gan, bệnh về xương… Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư khi điều
tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân
loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm
thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm
thuốc,các tác giả đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông
sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc (Lưu Đàm Cư và cộng sự,
2004) [7]. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [17] đã xây dựng các
mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại,
vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28
họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.


×