Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận: PP Bàn tay nặn bột trong dạy học TNXH chủ đề hệ cơ quan lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.58 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NÔI
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN TRÀ MY

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ HỆ CƠ QUAN LỚP 3

TIỂU LUẬN
Môn: Phương pháp dạy học Tự nhiên – Xã hội
Giảng viên hướng dẫn: Cô Kiều Thị Thu Giang

Hà Nội, năm 2018


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................
3. Tài liệu tham khảo ........................................................................................
4. Danh mục viết tắt..........................................................................................

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tìm hiểu về phương pháp “Bàn tay nặn bột”
1.1. Khái niệm phương pháp “Bàn tay nặn bột” ..............................................
1.2. Bản chất của phương pháp “Bàn tay nặn bột”...........................................
1.3. Các nguyên tắc của phương pháp “Bàn tay nặn bột”.................................


1.4. Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”...........................
1.5. Các kỹ thuật dạy học và rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong phương pháp
“Bàn tay nặn bột” .............................................................................................
Chương 2: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ
cơ quan
3.1. Mục tiêu dạy học chủ đề Hệ cơ quan lớp 3................................................
3.2. Nội dung chủ đề Hệ cơ quan lớp 3.............................................................
3.3. Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ cơ quan lớp
3.........................................................................................................................
PHẦN KẾT LUẬN .........................................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài:
Các môn về Tự niên – Xã hội nhằm giúp học sinh lĩnh hội những tri thức ban

đầu và thiết thực về con người, tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển
cho các em năng lực quan sát, năng lực tư duy, lòng ham hiểu biết khoa học và khả
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần hình thành nhân cách cho học
sinh. Để thực hiện tốt việc dạy và học môn Tự nhiên – Xã hội, người giáo viên phải
thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học sao cho học sinh là người chủ động,
nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực sáng tạo góp phần hình thành
phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện, tự giải quyết các tình huống có vấn đề
được đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Từ
thực tế giảng dạy và đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học, tôi thực hiện nghiên cứu
về “Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ cơ quan lớp
3”.
Môn Tự nhiên - Xã hội nói chung cung cấp, trang bị cho học sinh những kiến

thức về tự nhiên và xã hội trong cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh các em.
Chủ đề “Hệ cơ quan” của môn Tự nhiên – Xã hội lớp 3 nói riêng cung cấp, trang bị
cho học sinh những kiến thức, rèn luyện kĩ năng và giáo dục thái độ về các hệ cơ
quan (cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan bài tiết nước tiểu, cơ quan thần
kinh), vệ sinh các hệ cơ quan và phòng một số bệnh liên quan đến các hệ cơ quan
đó.
“Phương pháp bàn tay nặn bột” và một trong những phương pháp dạy học
tích cực, lấy người học làm trung tâm, là chủ thể của hoạt động chiếm lĩnh những tri
thức mới. Hơn nữa, phương pháp bàn tay nặn bột lại rất phù hợp để dạy học các
môn Tự nhiên – Xã hội, nhất là với chủ đề có tính trìu tượng như chủ đề hệ cơ quan
ở lớp 3.


Khi áp dụng “phương pháp bàn tay nặn bột” giúp học sinh khi học những chủ
đề có tính trừu tượng như chủ đề hệ cơ quan lớp 3 được lĩnh hội kiến thức tự nhiên
hơn, dễ hiểu hơn, học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức vì vậy sẽ ghi nhớ được lâu hơn.
Nếu không áp dụng phương pháp này, chủ đề về hệ cơ quan sẽ là một chủ đề rất khó
để triển khai dạy cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ đó dẫn đến học sinh khó nắm bắt
được nội dung của bài học, ý đồ dạy học của giáo viên không đạt được.
Từ những lí do trên tôi thấy “phương pháp bàn tay nặn bột” là một phương
pháp dạy học tích cực, giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội những
kiến thức mới. Hơn nữa còn giúp người giáo viên triển khai bài dạy một cách sáng
tạo, dễ dàng đạt được ý đồ dạy học hơn nhất là đối với chủ đề hệ cơ quan lớp 3. Vì
vậy ở bài Tiểu luận này, tôi thực hiện đề tài nghiên cứu về: “Vận dụng phương pháp
“Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ cơ quan lớp 3”.
2.

3.

Mục đích nghiên cứu

Đề tài của tôi được xây dựng nhằm đưa ra các kiến thức về “phương pháp
bàn tay nặn bột” và cách áp dụng phương pháp này vào dạy học chủ đề hệ cơ
quan môn Tự nhiên – Xã hội lớp 3, giúp người giáo viên nâng cao chất lượng
dạy học môn Tự nhiên – Xã hội lớp 3. Giáo viên có thể áp dụng vào trong
nhiều các loại bài Tự nhiên – Xã hội. Do đó, nếu được áp dụng và sử dụng
hiệu quả, các biện pháp này sẽ là một giải pháp hỗ trợ hữu ích cho cả người
dạy và học.
Tài liệu tham khảo
1. “Phương pháp bàn tay nặn bột- một phương pháp cần quan tâm” – website
2.

4.

dhsptn.edu.vn.
Giáo trình “Phương pháp dạy học các môn học về Tự nhiên và Xã hội” –

Nguyễn Thị Thuấn (chủ biên).
3. Giáo trình “Cơ sở Tự nhiên và Xã hội” – Nguyễn Thị Thuấn (chủ biên).
Danh mục viết tắt
Kí hiệu

Nội dung

PPPBTNB

Phương pháp bàn tay nặn bột

BTNB

Bàn tay nặn bột



HS

Học sinh

GV

Giáo viên

SGK

Sách giáo khoa

Chương 1: Tìm hiểu về phương pháp bàn tay nặn bột
1.1.

Khái niệm phương pháp “Bàn tay nặn bột”

“Phương pháp bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học dựa trên cơ sở của sự
tìm tòi – nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn học tự nhiên. Phương pháp
này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lí năm 1992).
Theo phương pháp Bàn tay nặn bột, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh
tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí
nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho
mình. Đứng trước một sự vật hiện tượng, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả
thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực nghiệm nghiên cứu để kiểm
chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích,
tổng hợp kiến thức.” Theo “Phương pháp bàn tay nặn bột- một phương pháp cần
quan tâm” – website dhsptn.edu.vn.

1.2.

Bản chất của phương pháp “Bàn tay nặn bột”

BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi
– nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra,



Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi HS là trung tâm
của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến
thức dưới sự giúp đỡ của GV.
1.3.

Các nguyên tắc của phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Dạy học theo PPBTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác nhau phụ thuộc vào
trình độ của HS. Giảng dạy theo PPBTNB bắt buộc GV phải năng động, không theo
một khuôn mẫu nhất định (một giáo án nhất định). GV được quyền biên soạn tiến
trình giảng dạy của mình phù hợp với từng đối tượng HS, từng lớp học. Tuy vậy, để
giảng dạy theo PPBTNB cũng cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
1- HS phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt được
yêu cầu này bắt buộc HS phải tham gia vào các bước hình thành các câu hỏi.
2- Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học.
3- Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi HS nhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng
cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
4- Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà
HS còn cần phải biết lập luận, trao đổi, biết viết cho mình và người khác
hiểu.

5- Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi – nghiên cứu.
6- Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
1.4.
Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
- Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
- Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
- Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.
- Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
- Bước 5: Kết luận kiến thức mới
1.5. Các kỹ thuật dạy học và rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong phương
pháp “Bàn tay nặn bột”
1.5.1. Tổ chức lớp học:
a. Bố trí vật dụng trong lớp học:
Ứng dụng vào chuẩn bị cho mỗi tiết học
Thực hiện dạy học khoa học theo PPBTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì
vậy nếu muốn tiện lợi cho việc thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp
xếp bàn ghế theo nhóm cố định:
- Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng HS trong lớp;


- Cần chú ý đến hướng ngồi của các HS sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ
thông tin trên bảng;
- GV nên lưu ý đối với các HS bị các tật quang học ở mắt như cận thị, loạn thị để bố
trí cho các em ngồi với tầm nhìn không quá xa bảng chính, màn hình máy chiếu.
- Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho HS
khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết;
- Chú ý đảm bảo ánh sáng cho HS;
- Đối với những bài học có làm thí nghiệm thì GV cần có chỗ để các vật dụng dự
kiến làm thí nghiệm cho HS. Không nên để sẵn các vật dụng làm thí nghiệm lên bàn
của HS trước khi dạy học vì có thể sẽ gây mất tập trung với HS và có thể sẽ làm lộ

ý đồ dạy học của GV khi muốn HS tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. Cũng với các
lí do nói trên mà GV nên thu hồi các đồ dung dạy học không cần thiết (sau khi đã
sử dụng xong cho mục đích dạy học và chuyển nội dung dạy học);
- Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dung dạy học cố định (kính lúp, tranh ảnh, mô
hình, cân, kéo cắt giấy,…). Nếu có điều kiện để thực hiện gợi ý này, GV sẽ không
phải vất vả di chuyển đồ dung dạy học mỗi khi thực hiện tiết dạy. Nếu không làm
được như gợi ý trên, GV có thể để các đồ dung dạy học ở phòng bộ môn hoặc
phòng thiết bị. GV có thể nhờ HS giúp mình để di chuyển các đồ dung dạy học
trong trường hợp lớp đông và đồ dung dạy học nhiều. Cần nhắc nhở HS cẩn thận
khi di chuyển đồ dùng dạy học, chỉ nên cho HS mang các đồ vật nhẹ, không dễ vỡ,
hư hỏng vì độ tuổi của các em chưa đủ để điều khiển tốt các hoạt động hành vi của
mình.
- Một số trường hợp có phòng học bộ môn hoặc phòng học đặc biệt thì nên bố trí
các vật dụng theo yêu cầu trong phòng này để thuận lợi cho việc dạy học của GV và
HS;
- Chú ý sắp xếp bàn ghế không nên gập ghềnh vì gây khó khăn cho HS khi làm một
số thí nghiệm cần sự cân bằng hoặc gây khó khăn khi viết.
b. Không khí làm việc trong lớp:
Ứng dụng vào bước 1 trong quá trình dạy học để tạo hứng thú cho HS.
PPBTNB cần một không khí làm việc thoải mái, HS có thể tham gia và ham thích
các hoạt động dạy học.
Để có một bầu không khí học tập sôi nổi trong lớp, GV cần xây dựng không khí
làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử
công bằng, bình đẳng giữa các HS trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá
mức một vài HS nào đó hoặc để cho các HS khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công
việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho


các HS khác. GV cần phải chú ý bao quát lớp học, khuyến khích các HS có ý tưởng
tốt nhưng rụt rè không dám trình bày.

Một không khí làm việc tốt trong dạy học theo PPBTNB có hiệu quả là GV tạo
được sự thoải mái cho tất cả các HS, việc học không trở nên là một điều gì đó quá
căng thẳng, các HS có thể tham gia và ham thích các hoạt động dạy học được GV tổ
chức trong lớp như: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi, trình bày
bằng lời nói hay viết…
1.5.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu:
Ứng dụng vào bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
Quan niệm ban đầu của HS thường là các quan niệm hay khái quát chung về sự
vật, hiện tượng, có thể sai hoặc chưa chính xác về mặt khoa học. GV nên khuyến
khích HS trình bày ý kiến của mình; GV phải biết chấp nhận và tôn trọng những
quan điểm sai của HS; không nên có nhận xét đúng – sai sau khi HS trình bày.
Nếu một vài HS nào đó nêu ý kiến đúng, GV không nên vội vàng khen ngợi hoặc
có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng vì nếu làm như vậy GV đã vô tình
làm ức chế các HS khác tiếp tục muốn trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng
ban đầu của HS càng đa dạng, phong phú, càng sau lệch với ý kiến đúng thì tiết học
càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho HS. Do đó, ý đồ dạy học của GV càng dễ
thực hiện được.
Khi HS làm việc cá nhân để đưa ra biểu tượng ban đầu bằng cách viết hay vẽ ra
giấy thì GV nên tranh thủ đi một vòng quan sát và chọn nhanh những biểu tượng
ban đầu không chính xác, sai lệch lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn nhiều biểu
tượng ban đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình
phương pháp. Làm tương tự khi HS nêu biểu tượng ban đầu bằng lời nói. GV tranh
thủ ghi chú những ý kiến khác nhau lên bảng. Những ý kiến tương đồng nhau thì
chỉ nên ghi lên bảng một ý kiến đại diện vì nếu ghi hết sẽ rất mất thời gian và ghi
nhiều sẽ gây khó khăn trong việc theo dõi các ý kiến khác nhau của GV cũng như
của HS.
Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, GV giúp
HS phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng
dẫn cho HS đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó.
1.5.3. Kĩ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh:

Ứng dụng vào bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực
nghiệm.
Dạy học theo PPBTNB chú trọng nhiều đến hoạt động thảo luận của HS vì như đã
nói ở trên hoạt động tìm tòi – nghiên cứu để xây dựng kiến thức mới của HS là kết


quả của hoạt động hợp tác. Trong quá trình thảo luận, các HS được kết nối với nhau
bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. HS cần được khuyến khích
trình bày ý kiến cá nhân của mình trước các HS khác, từ đó rèn luyện cho HS khả
năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các HS trong lớp đối chiếu, so
sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự
kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học
Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của HS trong lớp học, ngoài việc tổ chức dạy
học thoải mái, không gò bó, tạo một không khí làm việc tốt cho HS, GV cần chú ý
đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành
công:
- Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động nhóm cho HS.
- Khi thực hiên lệnh thảo luận nhóm, GV cần chỉ rõ việc thành lập nhóm làm
việc (nhóm nhiều người hay nhóm hai người), nội dung thảo luận là gì? Mục
đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của GV càng rõ rang và chi tiết thì HS càng
hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu. Không nên đưa ra các lệnh chung chung.
- Khi HS thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất nhiên không có nghĩa
là ồn ào và lộn xộn. Nhắc nhở HS trao đổi, thảo luận vừa nghe trong nhóm
(đối với thảo luận nhóm nhỏ).
- Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với tốc độ nhanh
bởi có nhiều ý kiến của các HS khá giỏi, GV nên làm chậm tốc độ thảo luận
lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia. Tất nhiên việc làm
chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học.
- GV nên để một thời gian ngắn (5 – 10 phút) cho HS suy nghĩ trước khi trả lời
để HS có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời

gian này có thể giúp HS xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa
ra các ý tưởng mới.
- Nếu quan sát thấy một HS nào đó còn rụt rè chưa muốn nêu ý kiến mặc dù
GV cảm nhận được em này đang muốn nói, GV cần khuyến khích, thậm chí
chỉ định để HS này mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình. GV cũng nên phân
tích cho HS hiểu là cần phải nêu ý kiến cá nhân của mình để người khác được
biết, thông qua đó mọi người có thể so sánh với ý kiến của mình để cùng
tranh luận xây dựng kiến thức.
- GV tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý
kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không
chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích các nhóm
khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Để tránh mất thời gian khi
các nhóm có ý kiến bổ sung lặp lại ý kiến nhóm trước, GV yêu cầu các nhóm


tiếp theo chỉ bổ sung ý kiến khác biệt hoặc bổ sung thêm những ý còn thiếu,
làm rõ những ý chưa rõ ràng.
- Khi HS trình bày ý kiến chưa đúng, GV không nên chê bai hoặc nhận xét tiêu
cực để ránh sự rụt rè, xấu hổ của HS. Những nhận xét tiêu cực không đúng
thời điểm và nhất là khi HS trình bày trước tập thể lớp sẽ phản tác dụng giáo
dục, gây bất lợi cho quá trình dạy học, vì sau đó HS ngại không chịu phát
biểu hoặc phát biểu miễn cưỡng khi được yêu cầu, gây không khí nặng nề
cho lớp học.
- Khi một HS có ý kiến ngây ngô, gây cười cho cả lớp hoặc một bộ phận HS,
GV nên chấn chỉnh và phân tích cho HS thấy rằng cần phải tôn trọng ý kiến
của người khác. Việc chấn chỉnh này nên thực hiện một cách nhẹ nhàng.
- Khi trả lời hoặc nêu ý kiến cá nhân, đa số HS có thói quen nhìn vào GV và
hướng phần trả lời của mình vào GV. GV chú ý nhắc nhở nhẹ nhàng để HS
biết là mình đang thảo luận với các bạn trong lớp chứ không phải đang thảo
luận với GV.

- Như đã nói, vai trò của GV trong PPBTNB, cũng giống như đối với các
phương pháp dạy học tích cực khác, đó là hướng dẫn. Người GV không phải
là trung tâm của quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo
viên nên nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu trả lời chuẩn xác cho HS.
Điều quan trọng ở đây là GV hướng dẫn cho HS thảo luận, giúp các em tìm
thấy được sự thống nhất ý kiến và khuyến khích HS thảo luận tích cực.
- Khi HS bế tắc trong thảo luận, GV có thể gợi ý thêm bằng các câu hỏi gợi ý
hoặc những câu khẳng định mang tính chất dẫn dắt để HS chú ý đến những
dữ liệu, thông tin, đặc điểm liên quan đến việc tìm ra câu trả lời.
- Cho phép HS thảo luận tự do, tuy nhiên GV cần hướng dẫn HS tới các kết
luận khoa học chính xác của bài học.
- Trong quá trình thảo luận mở theo tinh thần phương pháp bàn tay nặn bột HS
có thể sẽ đặt ra những câu hỏi khó, vượt ngoài tầm kiến thức trong chương
trình hoặc những câu hỏi mà với những thí nghiệm thực hiện không thể tìm ra
câu trả lời hay chứng minh, thậm chí đôi khi GV gặp những câu hỏi khó vượt
khả năng kiến thức của mình để trả lời cho HS. Cách giải quyết khi điều
khiển thảo luận là GV nên ghi lại những câu hỏi trên bảng, có thể sắp xếp
theo một tiêu chí nào đó tùy theo mục đích dạy học hoặc phân thành hai
nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm tòi,
nghiên cứu của HS và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu trả lời qua việc
thực hiện thí nghiệm, HS sẽ tìm được câu trả lời từ giáo viên, từ các nhà khoa
học, từ sách báo, tài liệu hoặc internet.
1.5.4. Kĩ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp bàn tay nặn bột:


Ứng dụng vào bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Hoạt động nhóm giúp HS làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa
các cá nhân. Kĩ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học
khác, không phải một đặc trưng của PPBTNB. Tuy nhiên, trong việc dạy học theo
PPBTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp HS làm quen

với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho HS.
Yêu cầu khi chia nhóm cho học sinh theo phương pháp bàn tay nặn bột:
- Mỗi nhóm không được quá nhiều HS: nhóm làm việc lí tưởng là từ 4 – 6 HS.
Vì khi số lượng đông sẽ có một số HS không có cơ hội làm việc nếu các HS
này rụt rè hoặc một số HS sẽ không chịu làm việc do chây lười.
- Mỗi nhóm HS cần được tổ chức gồm một nhóm trưởng – là người đại diện
cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình và một
thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra
giấy.
- Trong quá trình HS thảo luận theo nhóm, GV nên di chuyển đến các nhóm,
tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. GV không nên đứng một chỗ trên
bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di chuyển của GV có
hai mục đích cơ bản: quan sát, bao quát lớp, làm cho HS hoạt động nghiêm
túc hơn vì có GV tới; khịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo
luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác nhất của một
nhóm nào đó để yêu cầu phần trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng
như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào chính xác nhất để trình bày sau
cùng.
- Trong quá trình quan sát, khi phát hiện nhóm nào thực hiện sai lệnh thì GV
chỉ nên nói nhỏ, đủ nghe cho nhóm đó để điều chỉnh lại hoạt động, không nên
nói to làm ảnh hưởng và phân tán sự chú ý của các nhóm khác.
1.5.5. Kĩ thuật đặt câu hỏi của giáo viên:
Ứng dụng vào bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Trong dạy học theo PPBTNB, câu hỏi của GV đóng một vai trò quan trọng trong
sự thành công của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Một câu hỏi “tốt” có
thể giúp HS xác định rõ phần trả lời của mình và làm tiến trình dạy học đi đúng
hướng. Người ta gọi những câu hỏi này là “câu hỏi mở” vì nó kích thích một “hành
động mở”, khuyến khích HS suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của HS và phương án
trả lời những câu hỏi đó. Trong dạy học GV thường sử dụng các câu hỏi nêu vấn đề
và câu hỏi gợi ý.

+ Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. Câu hỏi
nêu vấn đề là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học


nhưng cũng đủ “mở” để kích thích sự tự vấn của học sinh. Chất lượng của câu hỏi
nêu vấn đề sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp thoe của tiến trình
phương pháp và sự thành công của bài học.
+ Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của HS. Câu
hỏi gợi ý có thể là câu hỏi “ít mở” hơn hoặc là dạng “câu hỏi đóng”. Vai trò của nó
nhằm gợi ý, định hướng cho HS rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của HS.
Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý tùy thuộc vào tình huống xảy ra trong lớp học, xuất
phát từ hoạt động học của HS (làm thí nghiệm, thảo luận,…)
Một số lưu ý khi đặt câu hỏi cho học sinh:
- Khi đặt câu hỏi nên để một thời gian ngắn cho HS suy nghĩ hoặc có thời gian trao
đổi nhanh với các HS khác, từ đó giúp HS tự tin hơn khi trình bày và trình bày
mạch lạc hơn khi có thời gian chuẩn bị;
- Tuyệt đối không được gọi tên HS sau đó mới đặt câu hỏi;
- Khi nêu câu hỏi, GV cần nói to, rõ. Nếu trường hợp HS chưa nghe rõ câu hỏi thì
phải nhắc lại, tuy nhiên không nên nhắc lại nhiều lần vì làm như vậy sẽ phân tán HS
do HS tưởng rằng GV đưa ra câu hỏi mới;
- Câu hỏi không nên quá dài vì như vậy HS sẽ không thể nắm bắt yêu cầu của câu
hỏi.
- Đối với các câu hỏi gợi ý, GV nên đặt câu hỏi ngắn, yêu cầu trong một phạm vi
hẹp mà mình muốn gợi ý cho HS. Nếu là những câu hỏi gợi ý cho một nhóm khi
các HS đang thảo luận thì chỉ nên nói với một âm lượng vừa đủ cho nhóm này nghe
để tránh phân tán suy nghĩ của các nhóm khác không liên quan.
- Trong khi điều khiển tiết học
1.5.6. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp
bàn tay nặn bột:
Ứng dụng vào bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực

nghiệm và bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
Mặc dù phương pháp bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học dựa trên thực
nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, nhưng ngoài việc làm thực nghiệm, khám phá kiến
thức, HS cần được chú ý rèn luyện ngôn ngữ nói và viết. Đây là một đặc điểm quan
trọng của phương pháp và cũng là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học khi mà
HS đang trong quá trình phát triển ngôn ngữ.
Dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột là sự hòa quyện ba phần gần như tương
đương nhau đó là thực nghiệm, nói và viết. Phương pháp bàn tay nặn bột yêu cầu
dthời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại
kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau.


1.5.7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh
Trong các tiết học theo phương pháp bàn tay nặn bột, ý kiến phát biểu của HS rất đa
dạng, vì vậy đòi hỏi người GV phải nắm bắt ý kiến phát biểu của từng HS, từng
nhóm và phân loại những ý tưởng đó để thực hiện được ý đồ dạy học.
Khi chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của HS, GV cần lưu ý những điểm sau:
- Cho HS phát biểu tự do, không nhận xét đúng, sai các ý kiến đó ngay sau khi
HS phát biểu.
- Khi HS nêu ý tưởng phải tránh trùng lặp ý tưởng, gây mất thời gian.
- Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khách biệt, GV có thể
ghi chú lại để tiện quan sát, khi ghi chú có thể ghi những ý kiến chung gần
nhau để tiện cho việc nhận xét của HS.
- Đối với những biểu tượng ban đầu được học sinh trình bày bằng hình vẽ, sơ
đồ, mô tả bằng cách viết vào vở thực hành,... GV phải quan sát và chọn các
hình tiêu biểu, có những điểm sai lệch rõ rệt nhất để trình bày, giúp HS dễ so
sánh, nhận xét.
- Việc nhóm ý tưởng, GV nên có chủ ý nhanh, nhưng nên để cho một, hai HS
nhận xét các ý kiến mà HS khác vừa nêu. Sau đó, GV có thể giúp HS thấy rõ
những khác biệt của ý tưởng, tạo sự thắc mắc để HS đề xuất các thí nghiệm

kiểm chứng.
- Khi yêu cầu HS phát biểu cần chú ý về mặt thời gian, hướng dẫn HS trả lời
vào thẳng câu hỏi, không trả lời vòng vo mà trả lời ngắn gọn, đủ ý.
- Ý kiến của HS càng khác biệt, càng sai lệch với kiến thức đúng thì tiết học
càng sôi nổi, Gv cũng dễ điều khiển tiết học hơn.
- Khi yêu cầu HS nhận xét ý kiến của HS trước, không yêu cầu nhận xét
đúng/sai, nên hướng “đồng ý và có bổ sung” hoặc “không đồng ý và có ý
kiến khác”.
- GV cần tóm tắt ý tưởng của HS khi viết ghi chú trên bảng.
1.5.8. Kĩ thuật hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu hay
phương án tim câu trả lời.
- Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án, thí nghiệm chứng minh
thì GV có thể cho HS trả lời trực tiếp phương án mà HS đề xuất.
- Đối với các ý kiến phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, HS khó đề
xuất đầy đủ và chuẩn xác, GV có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến
việc làm thí nghiệm sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm
thí nghiệm.


- Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những khác
biệt của ý tưởng ban đầu của HS. GV nên xoáy sâu vào những điểm khác biệt đó để
giúp HS đặt câu hỏi thắc mắc, thôi thúc HS đề xuất các phương án để tìm ra câu trả
lời.
- Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả
lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu: SGK, quan sát trên vật thật, trên mô hình,
tranh vẽ,...
- GV nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, gần
gũi, quen thuộc.
- Khi HS đề xuất phương án tìm câu trả lời, GV không nên nhận xét đúng,sai mà
nên hỏi ý kiến các HS khác nhận xét,phân tích.

- GV cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống HS không nêu được phương án
hoặc phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng.
1.5.9. Kĩ thuật hướng dẫn HS sử dụng vở thực hành
- Yêu cầu HS chuẩn bị vở thực hành cẩn thận
- Yêu cầu HS nên dùng ít nhất 2 màu mực thống nhất từ đầu đến cuối
- Khi vẽ, có thể dùng bút chì để dễ tẩy xóa.
- Ghi thời gian học vào đầu trang vở khi bắt đầu tiết học có sử dụng vở thực hành
để theo dõi
- Thể hiện rõ các nội dụng : ghi chú cá nhân, ghi chú tổng kết của nhóm sau khi
thảo luận, ghi chú tổng kết sau khi thảo luận cả lớp.
1.5.10. Kĩ thuật hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát
được nghiên cứu để đưa ra kết luận:
- Lệnh yêu cầu thực hiện phải rõ ràng , ngắn gọn, dễ hiểu giúp HS nhớ, hiểu và làm
theo đúng hướng dẫn .
- Quan sát, bao quát lớp khi HS làm thí nghiệm. Gợi ý vừa đủ để nghe cho nhóm
khi HS làm sai lệch hoặc đặt chú ý vào những chỗ không cần thiết.
- Đối với các thí nghiệm cần quan sát một số hiện tượng trong thí nghiệm để rút ra
kết luận, GV nên lưu ý cho HS chú ý vào các hiện tượng hay các phần thí nghiệm
đó để lấy thông tin, nhắc nhở HS bám vào mục đích của thí nghiệm.
- Đối với các thí nghiệm cần đo đạc và lấy số liệu, GV yêu cầu HS ghi chép lại các
số liệu để từ đó rút ra nhận xét.
- Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng với các nhóm khác nhau, HS có thể bố trí
thí nghiệm khác nhau theo quan niệm của các em, GV không được nhận xét đúng,
sai và cũng không có biểu hiện để HS biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai.
Khuyến khích HS độc lập thực hiện giữa các nhóm.


1.5.11. So sánh, đối chiếu kết quả thu nhận được với kiến thức khoa học
Ngoài việc hướng dẫn HS hình thành kiến thức, GV cũng nên giới thiệu thêm sách,
tài liệu hay thông tin trên internet mà HS có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp

các em hiểu sâu hơn về kiến thức đã học, không bằng lòng và dừng lại với những
hiểu biết yêu cầu trong chương trình, GV phải biết lựa chọn tài liệu đơn giản, dễ
hiểu, phù hợp cho HS tham khảo và không xem đấy là yêu cầu bắt buộc.
1.5.12. Đánh giá HS trong dạy học theo PPBTNB:
- Đánh giá HS qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học.
- Đánh giá HS trong quá trình làm thí nghiệm.
- Đánh giá HS thông qua sự tiến bộ nhận thức của HS trong vở thực hành
Chương 2: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ
cơ quan
3.1. Mục tiêu dạy học chủ đề Hệ cơ quan lớp 3
a. Kiến thức:
- HS biết tên, vị trí các bộ phận, chức năng và biết cách giữ vệ sinh các cơ quan
trong cơ thể.
- HS biết cách phòng tránh một số bệnh thường gặp ở các cơ quan: Hô hấp, Tuần
hoàn, ...
b. Kĩ năng:
- Học sinh chỉ và nói tên các bộ phận của các cơ quan trên sơ đồ.
- HS giữ vệ sinh các cơ quan trong cơ thể.
- HS phòng tránh được một số bệnh thường gặp ở các cơ quan.
c. Thái độ:
-

HS yêu thích, hứng thú với môn học.
Có ý thức giữ gìn, bảo vệ cơ quan trong cơ thể.

3.2. Nội dung chủ đề Hệ cơ quan lớp 3
a. Cơ quan hô hấp:


- Nhận biết trên sơ đồ tên, vị trí các bộ phận của cơ quan hô hấp.

- Tập thở sâu, thở không khí trong sạch.
- Phòng một số bệnh lây qua đường hô hấp.
b. Cơ quan tuần hoàn:
- Nhận biết trên sơ đồ tên, vị trí các bộ phận của cơ quan tuần hoàn.
- Hoạt động lao động và tập thể dục, thể thao vừa sức.
- Phòng bệnh tim mạch.
c. Cơ quan bài tiết nước tiểu:
- Nhận biết trên sơ đồ tên, vị trí các bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu
- Giữ vệ sinh cơ quan bài tiết nước tiểu.
d. Cơ quan thần kinh:
- Nhận biết trên sơ đồ tên, vị trí các bộ phận của cơ quan thần kinh.
- Biết hoạt động, sinh hoạt điều độ.
3.3. Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học chủ đề Hệ cơ
quan lớp 3
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
*Yêu cầu:
- Là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học.
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.
- Câu hỏi phải phù hợp với trình độ HS, gây mẫu thuẫn nhận thức và kích thích tính
tò mò của HS.
- GV phải dung câu hỏi mở, tuyệt đối không được dung câu hỏi đóng.
Ví dụ: Bài 6 “Máu và cơ quan tuần hoàn”
-

GV dẫn dắt: “Em đã bị đứt tay hoặc trầy da bao giờ chưa? Khi bị đứt tay hoặc
trầy da, bạn nhìn thấy gì ở vết thương? Các em đã bao giờ thắc mắc rằng cơ
quan nào có nhiệm vụ vận chuyển máu đi khắp cơ thể không? Để giải đáp
cho thắc mắc này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vào bài học ngày hôm nay, bài 6:
Máu và cơ quan tuần hoàn”.



Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
*Yêu cầu:
- GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật,
hiện tượng mới.
- GV cho HS trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói,…
- GV không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến
các quan niệm sai.
Ví dụ: Bài 6 “Máu và cơ quan tuần hoàn

Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
-Yêu cầu HS hoạt động theo nhóm “Cô -HS hoạt động theo nhóm.
sẽ phát cho mỗi nhóm 1 mô hình người,
nhiệm vụ của các em sẽ thảo luận với
nhau, vẽ và chú thích các bộ phận của
cơ quan tuần hoàn. Theo các em cơ
quan tuần hoàn gồm những thành phần
nào và vị trí cụ thể của chúng ra sao.
Thời gian thảo luận của mỗi nhóm là
8ph.”
-Mời đại diện của mỗi nhóm lên trình
bày ý tưởng của nhóm mình.

-Đại diện mỗi nhóm lên trình bày.
-HS nhận xét, bổ sung

-Mời HS nhận xét các phần trình bày.

Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.

*Yêu cầu:
a. Đề xuất câu hỏi:
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu
hỏi.


- GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp, từ đó
HS đặt câu hỏi liên quan đến bài học để giúp HS so sánh.
b. Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu:
- Từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực
nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
- GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến không trùng lặp.
- Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến của nhau hơn là ý kiến của GV nhận xét.
Ví dụ: Bài 6 “ Máu và cơ quan tuần hoàn”
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
-Mời HS nêu những câu hỏi thắc mắc
-HS nêu câu hỏi.
-GV hướng dẫn HS đề xuất phương án
để kiểm chứng.
-GV chốt lại phương án: xem video clip -HS đề xuất phương án
giới thiệu về cơ quan tuần hoàn.
-HS lắng nghe.

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
*Yêu cầu:
- Quan sát, mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật.
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu
hỏi.
- GV cần khéo léo lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt

câu hỏi liên quan đến bài học để giúp hs so sánh.
Ví dụ: Bài 6 “Máu và cơ quan tuần hoàn”
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
-GV cho HS xem video
-HS xem video
Bước 5: Kết luận kiến thức mới
Ví dụ: Bài 6 “Máu và cơ quan tuần hoàn”
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
-GV nêu yêu cầu
-HS lắng nghe GV hướng dẫn, tiến
“Vừa rồi lớp mình đã được xem video hành thảo luận, làm việc.
giới thiệu về cơ quan tuần hoàn, vậy
bây giờ chúng ta tiếp tục làm việc theo
nhóm, nhiệm vụ của các nhóm là thảo


luận và ghi chú lại vị trí, trên của các
bộ phận trong cơ quan tuần hoàn vào
phiếu thảo luận nhóm. Thời gian dành
cho mỗi nhóm là 5 phút”
-GV mời đại diện các nhóm lên trình

-Đại diện các nhóm lên trình bày.

bày phần thảo luận của nhóm mình.
-Mời HS nhận xét.

-HS nhận xét, bổ sung


-GV chốt kết luận đúng: Cơ quan tuần
hoàn gồm tim và các mạch máu. Tim

-HS lắng nghe

luôn co bóp đẩy máu vào hai vòng tuần
hoàn.

* Bài 1: Hoạt động thở và cơ quan hô hấp
I. Mục tiêu:
1.1. Kiến thức:
- Giúp học sinh có khả năng nhận biết sự thay đổi của lồng ngực khi hít vào và thở
ra
- Học sinh biết được tên, vị trí của các bộ phận trong cơ quan hô hấp.
1.2. Kĩ năng:
- Học sinh chỉ và nói tên các bộ phận của cơ quan hô hấp trên sơ đồ.
- Học sinh chỉ trên sơ đồ và nói được đường đi của không khí khi ta hít vào, thở ra.
1.3. Thái độ:
Học sinh hiểu được vai trò của hoạt động thở đối với sự sống con người.
- Học sinh hứng thú và yêu thích môn học.


II. Chuẩn bị:
2.1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Phiếu học tập, tranh phóng to hình 2,3 trong SGK/trang 5 không có chú thích
- Phần thưởng
-Video giới thiệu về cơ quan hô hấp, cảnh tập dưỡng sinh
- Powerpoint trình chiếu bài dạy và thiết kế trò chơi.
2.2. Chuẩn bị của học sinh:

- Đọc trước bài ở nhà.
III. Các hoạt động dạy – học:
Thời
gian
1
phút

Nội dung
1.Khởi động

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học
sinh

-Cho học sinh hát một bài

- Học sinh hát

-Chiếu video cảnh tập dưỡng

-HS quan sát video và

sinh và hỏi:

trả lời câu hổi:

+ Trong video mọi người

+ Mọi người đang tập


đang làm gì?

dưỡng sinh.

+ Không khí diễn ra như thế

+ Không khí rất thanh

nào?

bình.

+ Theo em, tập dưỡng sinh có

+ Tập dưỡng sinh rất

tốt cho sức khỏe hay không?

tốt cho sức khỏe

2.Bài mới
1
phút

a. Giới thiệu

-Chúng ta đều biết thở là một
hoạt động rất quan trọng để
duy trì sự sống của con người,

tập thở cũng rất có ích đối với


sức khỏe. Vậy đã bao giờ các
em tự đặt ra câu hỏi cơ quan
hô hấp gồm những bộ phận
nào và vị trí cụ thể của chúng
không? Để tìm hiểu kĩ hơn về
cơ quan hô hấp, chúng ta
cùng đến với bài học hôm
nay: Bài 1: “Hoạt động thở và
cơ quan hô hấp”.
b. Dạy bài mới
*Hoạt động 1:
Thực hành cách
thở sâu.
8

-Học sinh xem slide
-Cho HS xem một slide có và trả lời câu hỏi
một người cứu hộ phải cấp

phút

cứu cho ba người: một người
nhịn đói ba ngày, một người
bị ngạt, một người bị tai nạn
mất tay.

-Người cứu hộ sẽ cứu

người bị ngạt trước.

-Hỏi: Theo các em người cứu
hộ sẽ cứu người nào trước?
-Để hiểu lí do tại sao người
cứu hộ lại cứu người bị ngạt
trước chúng ta hãy cùng thực
hiện một thí nghiệm.

-HS thực hiện động

-GV cho HS cùng thực hiện tác


động tác: bịt mũi và nín thở
-Hỏi: “Các em có cảm giác gì
sau khi nín thở lâu?”

-Cảm giác thở gấp
hơn, sâu hơn lúc bình
thường.
-HS nhận xét câu trả

-Gọi HS nhận xét

lời của bạn.

-Vừa rồi các em đã được biết
vì sao người cứu hộ đã cứu
người bị ngạt trước phải

không nào?

-1HS đứng lên thực

-Mời 1 HS đứng lên thực hiện hiện.
động tác thở sâu như hình 1
trong SGK.
-GV yêu cầu cả lớp đứng tại -Lớp thực hành hít
chỗ, đặt một tay lên ngực và vào, thở ra.
cùng thực hiện ít vào thật sâu
và thở ra hết sức. “Bây giờ cô
mời cả lớp đứng lên, đặt một
tay lên ngực và cùng nhau
làm động tác hít vào và thở ra
hết sức.”
-“Có bạn nào tinh ý có thể
nhận xét giúp cô sự thay đổi
của lồng ngực khi hít vào, thở
ra?”

-Lồng nực phồng lên,
xẹp xuống đều đặn đó
là cử động hô hấp: hít,
thở
-Khi hít vào lồng


ngực sẽ phồng lên vì
“So sánh lồng ngực khi hít
vào, thở ra?”


phổi

nhận

nhiều

không khí nên phổi
căng lên, khi thở ra
hết sức lồng ngực sẽ
xẹp xuống vì đã đưa
hết

không

khí

ra

ngoài.
-HS nhận xét câu trả
-Mời HS nhận xét.

lời của bạn

-GV chốt lại kết luận đúng.
-“Bạn nào giỏi có thể giúp cô
nêu lợi ích của việc thở sâu?”

-Giúp trao đổi khí

giữa cơ thể và môi
trường bên ngoài.

*Hoạt động 2:
Tìm hiểu về cơ
quan hô hấp
15
phút

-Mời HS nhận xét

-HS

-GV chốt lại kết luận đúng.

sung.

nhận

xét,

-GV dẫn dắt:
“Chúng ta đều biết hít vào và
thở ra cùng một đường, vậy
đường đi của không khí có
phải bắt đầu từ mũi không?”
“Để tiếp theo bài học, lớp

-HS lắng nghe


bổ


mình sẽ hoạt động theo nhóm -HS lắng nghe GV
4, cô sẽ phát cho mỗi nhóm 1 hướng dẫn thảo luận
mô hình người, nhiệm vụ của và tiến hành thảo
các em sẽ thảo luận với nhau, luận.
vẽ và chú thích các bộ phận
của cơ quan hô hấp. Theo các
em cơ quan hô hấp gồm
những thành phần nào và vị
trí cụ thể của chúng ra sao và
đường đi của không khí khi
hít vào, thở ra. Thời gian thảo
luận của mỗi nhóm là 8ph.”
-Mời đại diện của mỗi nhóm
lên trình bày ý tưởng của
nhóm mình.

-Đại diện các nhóm
lần lượt lên trình bày.

-Mời HS nhận xét các phần
trình bày.
-Mời HS nêu những câu hỏi

-HS

nhận


xét,

bổ

sung.

thắc mắc
-GV hướng dẫn HS đề xuất

-HS nêu câu hỏi.

phương án để kiểm chứng.
-GV chốt lại phương án: xem
video clip giới thiệu về cơ

-HS đề xuất phương
án

quan hô hấp.
-GV cho HS xem video
-GV nêu yêu cầu

-HS lắng nghe.


“Vừa rồi lớp mình đã được
xem video giới thiệu về cơ -HS chú ý xem video
quan hô hấp, vậy bây giờ -HS lắng nghe GV
chúng ta tiếp tục làm việc hướng dẫn, tiến hành
theo nhóm, nhiệm vụ của các thảo luận, làm việc.

nhóm là thảo luận và ghi chú
lại vị trí, trên của các bộ phận
trong cơ quan hô hấp và
đường đi của không khí khi
hít vào, thở ra vào phiếu thảo
luận nhóm. Thời gian dành
cho mỗi nhóm là 5 phút”
-GV mời đại diện các nhóm
lên trình bày phần thảo luận
của nhóm mình.
-Mời HS nhận xét.

-Đại diện các nhóm
lên trình bày.

-GV chốt kết luận đúng
“Cơ quan hô hấp gồm: mũi,
khí quản, phế quản và hai lá -HS nhận xét, bổ sung
phổi. Mũi và phế quản là
đường dẫn khí, hai lá phổi có
chức năng trao đổi khí” –GV
vừa nói, vừa kết hợp chỉ trên
tranh.
“Nhờ hoạt động thở của cơ
quan hô hấp mà cơ thể chúng

-HS lắng nghe



×