Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Di sản thừa kế những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.84 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

HẠP THỊ NHƢ NGUYỆT

DI SẢN THỪA KẾ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

HẠP THỊ NHƢ NGUYỆT

DI SẢN THỪA KẾ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số học viên: CH23UD056

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN TUYẾT

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Hạp Thị Nhƣ Nguyệt


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLLĐ

: Bộ luật lao động


HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

PLTK

: Pháp lệnh thừa kế

TAND

: Tòa án nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN THỪA KẾ ..................5
1.1. Khái niệm chung về di sản ...............................................................................5
1.2. Khái niệm về di sản thừa kế .............................................................................8
1.3. Một số đặc trưng của di sản thừa kế: .............................................................18
CHƢƠNG 2: XÁC ĐỊNH DI SẢN THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH ...............................................................................................23
2.1. Các dạng tài sản là di sản thừa kế: .................................................................23
2.1.1. Di sản là các tài sản tồn tại ở dạng vật ....................................................23
2.1.2. Di sản là các tài sản tồn tại ở dạng tiền ...................................................24
2.1.3. Di sản là các tài sản tồn tại ở dạng giấy tờ có giá ...................................26

2.1.4. Di sản là các tài sản tồn tại ở dạng quyền tài sản....................................28
2.2. Thành phần của di sản ....................................................................................30
2.2.1. Tài sản riêng của người chết: ..................................................................30
2.2.2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác ....34
2.3. Xác định thừa kế trong một số trường hợp cụ thể..........................................36
2.3.1 Xác định di sản thừa kế đối với trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố
là đã chết ...........................................................................................................36
2.3.2. Xác định di sản thừa kế của vợ, chồng đối với hoa lợi, lợi tức thu được
từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân ......................................38
2.3.3. Xác định di sản thừa kế liên quan đến phần tài sản mà người chết đã tặng
cho người khác khi còn sống.............................................................................39
2.3.4. Xác định di sản thừa kế của một bên vợ, chồng chết trước trong thời gian
bản án hoặc quyết định của Toà án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật ......39
2.3.5. Xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ........................................40
2.3.6. Xác định di sản thừa kế là nhà ở .............................................................43


CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ DI SẢN
THỪA KẾ ................................................................................................................47
3.1. Nguyên nhân của các tranh chấp về về di sản thừa kế ..................................47
3.2. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế ..................................50
3.2.1. Tranh chấp liên quan đến việc xác định chủ sở hữu tài sản là đất đai: ...50
3.2.2. Tranh chấp liên quan đến việc trích di sản cho người có công quản lý,
tôn tạo di sản thừa kế: .......................................................................................53
3.2.3 Tranh chấp thừa kế liên quan đến di sản là đất công: ..............................60
3.2.4 Tranh chấp liên quan đến di sản đã được cho trước thời điểm người để lại
di sản chết:.........................................................................................................63
3.2.5 Tranh chấp di sản thừa kế trong trường hợp nhà, đất thuộc di sản thừa kế
bị giải tỏa, thu hồi..............................................................................................65
3.3 Kiến nghị hoàn thiện việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế:........................68

3.3.1 Kiến nghị chung trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế: ..........68
3.3.2 Kiến nghị hoàn thiện các quy định về di sản thừa kế: .............................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp và pháp luật ghi nhận. Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền thừa kế của con
người xuất phát từ quan điểm coi gia đình là tế bào của xã hội, đảm bảo các nét đẹp
văn hóa truyền thống của dân tộc. Chế định thừa kế là một chế định quan trọng
trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Đảm bảo quyền thừa kế là bảo vệ quyền
hiến định của công dân.
Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống,
tài sản để lại được gọi là di sản. Các chế định về vấn đề thừa kế do Pháp lệnh thừa
kế năm 1990, Bộ Luật dân sự năm 1995, Bộ Luật dân sự năm 2005 luôn là một
trong những các vấn đề gây tranh cãi do xung đột quyền lợi giữa các bên tham gia
quan hệ luôn là đề tài nóng của pháp luật khi xử lý, giải quyết các tranh chấp phát
sinh của các bên tham gia tố tụng. Sau thời gian góp ý, xây dựng luật, ngày 24
tháng 11 năm 2015 Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua Bộ luật dân sự
năm 2015 để thay thế Bộ Luật dân sự năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2017. Nhìn chung, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định tương đối cụ
thể, rõ ràng, chặt chẽ về chế định thừa kế và được thể hiện việc hoàn thiện các vấn
đề về : Thời điểm, địa điểm mở thừa kế, xác định người thừa kế, di sản thừa kế, thời
hiệu thừa kế…
Trong những năm gần đây, tranh chấp về thừa kế luôn gia tăng và chiếm tỷ
trọng lớn trong các tranh chấp dân sự, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến di
sản thừa kế. Bởi vậy, nghiên cứu về thừa kế và di sản thừa kế có ý nghĩa sâu sắc về
lý luận và đời sống thực tế. Có thể nói, di sản thừa kế là yếu tố quan trọng hàng đầu
trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân sự về thừa kế. Giải quyết các

tranh chấp về di sản thừa kế trước hết phải xác định đúng khối tài sản chia thừa kế
và kết quả giải quyết tranh chấp sau cùng là phân chia di sản thừa kế theo đúng
phần mà người thừa kế có quyền được hưởng.
Trước thực tiễn đó đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Di sản thừa kế những vấn đề lý luận và thực tiễn”, qua đó, mong muốn có thể làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn để có thể nhận diện, xác định chính xác di sản thừa kế, yếu tố
quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về vấn đề thừa kế thu hút rất nhiều các học viên, nhà nghiên cứu.
Di sản thừa kế cũng đã được đề cập trong một số đề tài nghiên cứu khoa học, đáng kể
đến là các nghiên cứu của PGS.TS Trần Thị Huệ, PGS.TS Phạm Văn Tuyết đã làm rõ
được khái niệm về di sản thừa kế, quan niệm về di sản thừa kế qua các thời kỳ, cung
cấp những nghiên cứu có tính hệ thống về di sản thừa kế một cách chung nhất, khái
quát nhất. Trong các luận văn, khóa luận, vấn đề di sản thừa kế không phải là vấn đề
mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này như: Khóa luận tốt nghiệp năm
2011 của tác giả Nguyễn Thu Thủy, Đại học Luật Hà Nội: Di sản thừa kế theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành,. Luận văn thạc sỹ năm 2010 của tác giả Lê
Khắc Hanh, Đại học Luật Hà Nội về :Thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở từ thực
tiễn ở TP Hải Phòng; Luận văn thạc sỹ năm 2015 của tác giả Phan Văn Nghĩa, Đại
học Luật Hà Nội về xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam
hiện nay; Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Hương Giang, Khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội với đề tài: Thừa kế theo pháp luật – 1 số vấn đề lý luận và thực tiễn
(2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu đi vào nội dung về di chúc, hàng thừa
kế, phân chia di sản mà chưa phân tích rõ hơn về các dạng tài sản là di sản và gọi tên
các loại di sản phổ biến, xác định chúng trong trường hợp cụ thể, các dạng di sản còn
bị xác định sai trong thực tế.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định chung của pháp luật hiện
hành về di sản thừa kế, xác định di sản thừa kế, tìm hiểu thực tiễn về áp dụng các
quy định về di sản thừa kế trong giải quyết tranh chấp thừa kế.
Xác định di sản thừa kế chính là vấn đề xác định tài sản, do đó, với mục tiêu
và nhiệm vụ chính đã nêu, trong điều kiện về thời gian nghiên cứu, tài liệu tham
khảo, và trong khuôn khổ của một luận văn cao học, tác giả đã xác định phạm vi
nghiên cứu phù hợp như sau: luận văn chỉ phân tích các dạng tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và nêu tên các quyền tài sản là di sản thừa kế mà không phân tích sâu về
quyền tài sản như quyền sở hữu trí tuệ. Luận văn cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn
việc xác định di sản thừa kế, các dạng tranh chấp về thừa kế phổ biến, làm rõ một số
điểm còn có cách hiểu khác nhau về nhận diện các tài sản là di sản thừa kế trong quy
định của Pháp luật.

2


4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn các
quy định của pháp luật hiện hành về di sản thừa kế; những vướng mắc trong thực tế
giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế. Luận văn còn đưa ra hướng hoàn thiện pháp
luật cũng như mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với mong muốn góp phần nâng
cao hiệu quả khi áp dụng các quy định về xác định di sản thừa kế.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Đưa ra khái niệm và làm rõ một số vấn đề lý luận về di sản thừa kế,
+ Phân tích làm rõ quy định về di sản thừa kế trong BLDS 2015 hiện hành;
+ Nghiên cứu pháp luật liên quan như: Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật dân
sự năm 1995, Luật HN&GĐ 2014, Luật Đất đai 2013….
+ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật, những hạn chế còn tồn tại, nguyên
nhân của những hạn chế đó, hướng hoàn thiện công tác xét xử về di sản thừa kế,
cùng pháp luật có liên quan tới đề tài đang nghiên cứu.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về
xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong quá trình hội nhập.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: Phương pháp phân tích, phương pháp suy diễn logic,
phương pháp diễn giải, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh… để làm sáng
tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về xác định di sản thừa kế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn phân tích tổng hợp làm sáng
tỏ quy định của pháp luật hiện hành về di sản thừa kế, quan điểm về di sản thừa kế
qua các thời kỳ. Luận văn đã hệ thống quá một cách có chọn lọc một số vấn đề cơ
bản trong xác định di sản thừa kế, góp phần bổ sung kết quả nghiên cứu mới so với
các công trình nghiên cứu trước đây về xác định di sản thừa kế trên thực tế, cũng
như chỉ ra một số hạn chế, nguyên nhân của những tranh chấp về di sản thừa kế và
những kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế trên thực tế.

3


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về di sản thừa kế
Chương 2: Xác định di sản thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành
Chương 3: Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế

4



CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm chung về di sản
Thế giới vật chất là thế giới biến đổi không ngừng, cái tồn tại sau là kết quả
của sự biến đổi đã xảy ra của giai đoạn trước. Con người cũng vậy, nhờ có lao động
mà con người biến đổi theo hướng phát triển nhanh chóng, tạo thành một xã hội
loài người. Các thế hệ đời sau được kế thừa những cái vật chất của đời trước để lại.
Ngoài kế thừa thế giới vật chất trong tự nhiên, con người còn kế thừa những thành
quả, có thể là giá trị vật chất, cũng có thể là giá trị tinh thần của thời trước, của xã
hội trước và của người đi trước do lao động, cải tạo và tích lũy đã tạo nên. Để chỉ
những gì mà thời trước hay đời trước để lại người ta hay dùng từ “di sản”.
Thuật ngữ “di sản” là một từ ghép Hán Việt, gồm hai từ “di” và “sản”.
Trong đó, từ “di” mang nhiều nghĩa khác nhau khi đặt trong các ngữ cảnh cụ thể:
Với góc độ là sự dịch chuyển thực tế thì từ “di” biểu hiện sự chuyển động
ra khỏi vị trí nhất định thông qua sự tác động nào đó lên một vật để lại dấu vết nhất
định. “Di” còn được hiểu là dời đi nơi khác, dời đi chỗ khác, “thoát” khỏi vị trí ban
đầu, biểu hiện của sự chuyển động từ nơi này đến nơi khác, từ điểm này đến điểm
khác trong không gian và thời gian.
Với góc độ khác, “di” được hiểu là là sự truyền lại, lưu lại, để lại cho đời
sau, thế hệ sau, người đi sau. Có thể hiểu là việc giữ gìn, giao lại giá trị tinh thần,
vật chất nào đó cho thế hệ sau.
Với các nghĩa trên đây, “di” có thể được hiểu một cách chung nhất là sự
dich chuyển sự vật, hiện tượng làm thay đổi vị trí của chúng trong không gian và
thời gian. Sự thay đổi vị trí của chúng bao giờ cũng thể hiện yếu tố “trước” và
“sau”. Nó có thể diễn ra trong một thời gian rất ngắn (như nét vẽ đầu tiên đến nét
vẽ tiếp theo trong một bức tranh) hoặc nó được diễn ra trong một thời gian dài (như
từ thời cổ đại sang thời trung đại)1.
Từ “Sản” có thể được hiểu là quá trình tạo ra làm ra một kết quả nhất định.
Có thể là hoạt động sinh sản tự nhiên tạo nên một con người, cũng có thể là quá
trình sản xuất, lao động để tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, khi đứng với từ “Di”
1


Trần Thị Huệ (2007), Di sản thừa kế trong pháp Luật Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học
Luật Hà Nội, tr10.

5


thì từ “sản” sẽ được hiểu là tài sản, sản nghiệp thuộc sở hữu của cá nhân thông qua
lao động tạo nên nhằm mang lại lợi ích cho con người.
Trong từ điển tiếng Việt thì “di sản” được hiểu theo các nghĩa:
- Tài sản của người chết để lại.
- Cái của thời trước để lại: Kế thừa di sản văn hoá, kinh tế; di sản pháp
luật; di sản về nghiên cứu khoa học... chẳng hạn như di tích lịch sử, di vật lịch sử,
di sản văn hóa, di sản thiên nhiên…….
Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, khái niệm di sản được định
nghĩa theo ngữ nghĩa đầu tiên của từ “di sản” như sau:
Di sản là "Tài sản (tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp
khác) của người chết để lại, gồm: những tài sản thuộc sở hữu của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác, quyền và nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại.
Trong lĩnh vực pháp lý, từ “di sản” cũng được được sử dụng theo nghĩa là
“Tài sản của người chết để lại”. Từ điển Luật học định nghĩa: Di sản là tài sản mà
người đã chết để lại, bao gồm:
+) Tài sản mà người đã chết chủ sở hữu, gồm có:
- Tài sản riêng như: tư liệu sinh hoạt (vd. Quần áo, chăn màn, giường tủ,
máy thu thanh, máy thu hình, vv.); tư liệu sản xuất, vốn sản xuất hoặc kinh doanh
hợp pháp; nhà ở; tài sản được thừa kế, tặng cho; tiền mua trái phiếu; tiền tiết kiệm
gửi ngân hàng hoặc quỹ tín dụng; các thu nhập khác (vd. Tiền công lao động, tiền
nhuận bút, tiền thưởng, tiền trúng xổ số, vv.).
- Phần tài sản của người đã chết trong khối tài sản chung với người khác

(vd. Sở hữu chung một ngôi nhà, một cơ sở sản xuất, kinh doanh, vv.).
- Những quyền về tài sản do người chết để lại (vd. đòi nợ, đòi tài sản cho
thuê hoặc cho mượn, chuộc lại tài sản đã cầm cố, đòi bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng hoặc ngoài hợp đồng...)
+) Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Trong định nghĩa này, nội hàm của từ “di sản” được xác định đồng nhất với
“di sản thừa kế”, định nghĩa đã phân loại và liệt kê khá chi tiết các loại di sản thừa

6


kế, đây cũng là một định nghĩa chỉ ra hướng tiếp cận toàn diện và đi vào bản chất
của di sản thừa kế.
Đối với ngữ nghĩa thứ hai, có thể kể đến các định nghĩa như:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng
nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống,
tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những tri thức dân gian khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.
Tất cả các định nghĩa này đều chứa nội hàm của từ di sản đó là: Các giá trị
vật chất và tinh thần đang tồn tại, được thế hệ trước tạo dựng, bảo tồn, duy trì và để
lại cho thế hệ sau.
Tại sao không dùng từ tài sản để thay thế cho từ di sản?
Từ thời cổ xưa các đồ vật được xem là tài sản. Nhưng thời đại càng phát
triển thì càng xuất hiện nhiều dạng tài sản mới, tức là cấu trúc các dạng tài sản càng

trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm
2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai.” Di sản là tài sản do người chết để lại, do đó từ tài sản
không hoàn toàn thay thế được di sản bởi vì không làm rõ đặc trưng của loại tài sản
này đó là tài sản có sự dịch chuyển từ người chết sang cho những người còn sống.
Từ tài sản không hoàn toàn thay thế được di sản bởi vì không làm rõ đặc
trưng của loại tài sản này đó là tài sản có sự dịch chuyển từ người này sang người
khác, thời này qua thời khác, và ý nghĩa để phân biệt nó là ngoài các quy định nhằm
đảm bảo quyền sở hữu tài sản của cá nhân đối với tài sản hiện hữu của mình, thì
việc phân biệt được tài sản nào là di sản sẽ dẫn đến câu chuyện giải quyết việc xác
định người được sở hữu di sản, bảo quản di sản là tài sản nói chung và các di sản
đặc biệt nói riêng như di sản văn hóa, di sản thiên nhiên….

7


Trong nội dung luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu định nghĩa “di sản” theo
nghĩa là tài sản và những giá trị tài sản của người chết để lại. Nói đến tài sản thì phải
làm rõ vấn đề về sở hữu tài sản. Tất cả các hoạt động sản xuất lao động tạo ra của
cải đều là những tiền đề của sở hữu tài sản. Như vậy, sở hữu là một yếu tố khách
quan, xuất hiện từ khi có xã hội loài người và cùng phát triển với sự phát triển của
loài người. Tài sản vật chất do con người làm ra do con người lao động để biến
thành các dạng vật chất thuộc sở hữu của mình. Đây là yếu tố sống còn để đảm bảo
cho sinh tồn và sinh hoạt đời sống cho con người. Quyền sở hữu trong trường hợp
này được chuyển giao từ người chết sang cho người được hưởng di sản và được
pháp luật công nhận. Việc công nhận sự chuyển giao này là do pháp luật đã căn cứ
trên yếu tố đạo đức, văn hóa và cả yếu tố kinh tế.
Từ phân tích trên đây, có thể định nghĩa di sản từ góc độ pháp lý như sau:
Di sản là toàn bộ tài sản cùng các nghĩa vụ tài sản được truyền từ đời trước sang

đời sau.
1.2. Khái niệm về di sản thừa kế
Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống,
tài sản để lại được gọi là di sản. Khi xem xét về vấn đề thừa kế thì di sản thừa kế là
một trong những vấn đề được quan tâm trước tiên. Chỉ khi di sản còn tồn tại trên
thực tế thì người để lại tài sản mới có “cái” để định đoạt.
Di sản thừa kế là yếu tố vật chất của thừa kế, khoa học luật Dân sự thừa nhận
về mặt nội dung của thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản thừa kế từ người chết
sang cho những người còn sống. Sự biểu hiện của nó là việc để lại và nhận di sản
thừa kế mà đối tượng là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết. Pháp luật dân
sự Việt Nam từ trước đến nay chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm về di sản thừa kế
mà chỉ hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp quy định về thành phần của di sản thừa kế.
Thực tế, quan niệm về di sản thừa kế trong các thời kỳ là có sự khác nhau,
do thay đổi về quan niệm về vấn đề tài sản, tư cách người thừa kế và việc hưởng di
sản thừa kế.
Ở Việt Nam luật dân sự đặt trong sự phát triển của kinh tế, xã hội và chịu
sự tác động của truyền thống đạo đức. Vốn là một quốc gia chịu ảnh hưởng của
Phật giáo và Nho giáo, con người Việt Nam vốn rất chăm chỉ, bao dung, nhường
nhịn. Các thành viên rất ý thức về việc lao động làm ra của cải cho gia đình, tiết

8


kiệm của cải để dành cho con cái, các thế hệ về sau, cho gia tộc, dòng họ. Các thế
hệ nối tiếp nhau ra đời và của cải họ làm ra được truyền từ đời này sang đời khác
được diễn ra như một quy luật khách quan, thậm chí chưa cần có quy phạm pháp
luật điều chỉnh.
Trong chế độ phong kiến, người nông dân là đa số trong xã hội, do sự bóc
lột truyền kiếp của địa chủ mà đa số các gia đình người nông dân mắc nợ, sản xuất
nông nghiệp của gia đình không đủ để nuôi sống các thành viên. Nếu có tài sản thì

đa số là tầng lớp địa chủ, tài sản của họ là đất đai, vàng bạc, của cải cho con cháu
tiếp tục chế độ cai trị của mình. Đối với người nông dân, họ vừa không có tài sản để
chia thừa kế mà thậm chí con cháu còn phải gánh tất cả các nghĩa vụ của ông cha để
lại. Điều này là để đảm bảo sự tồn tại của chế độ địa chủ điền trang.
Đến thời kỳ pháp thuộc, vấn đề thừa kế vẫn được xác định là bao gồm cả
thừa kế tài sản và thừa kế nghĩa vụ của người chết. Nghĩa vụ tài sản mà người chết
để lại không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản mà các con được hưởng di sản của
cha mẹ thì phải liên đới trả cho hết các khoản nợ của cha mẹ. “Người chánh thất,
quả phụ hoặc người đích tôn thừa tự cũng thế. Những khoản nợ của người thứ nhất
mệnh một để lại mà người ấy vì sự làm lợi ích cho gia đình hay buôn bán phải vay
thời cả người chồng, vợ cũng phải trả như vậy. Còn những người thừa kế khác thì
chỉ phải trả các khoản nợ, gánh vác các trách nhiệm của người mệnh một ngang
với phần di sản mà mình được hưởng là cùng, trừ khi nào từ chối di sản thì không
phải gánh chịu”2. Thời kỳ này, các món nợ được coi là phương tiện đảm bảo cho
gia đình sinh sống, đồng thời người thừa kế phải là thành viên với tư cách là con,
cháu, vợ, chồng, hoặc cháu đích tôn trong gia đình liên quan đến việc sử dụng tài
sản mới phải gánh chịu trách nhiệm vô hạn, còn những người không cùng sống
trong một một gia đình nhưng với tư cách là người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm của
mình trong phạm vi tài sản được hưởng. Thực tế cho thấy, việc thực hiện nghĩa vụ
này cũng là do chế độ bóc lột của giai cấp địa chủ và sự bóc lột ấy nhằm mục đích
duy trì và củng cố chế độ tư hữu.
Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám – 1945, giai đoạn này về vấn đề di
sản thừa kế được xác định theo lệ “phụ trái tử hoàn” là một tục lệ cổ theo chuẩn
mực của đạo đức phong kiến quy trách nhiệm cho các con phải trả toàn bộ các
khoản nợ của người cha đối với người khác. Đây là điều kiện kinh tế xã hội hình
2

Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật, 1944, Điều 379.

9



thành nên quan điểm thứ nhất về di sản thừa kế, Đó là: Di sản thừa kế bao gồm tài
sản và các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Có nghĩa là các khoản tài sản của
người chết trở thành tài sản của người thừa kế, nợ của người chết cũng là nợ của
người thừa kế bất kể tài sản của người chết có đủ để thanh toán hay không. Có
nghĩa là các khoản tài sản của người chết trở thành tài sản của người thừa kế, nợ của
người chết cũng là nợ của người thừa kế bất kể tài sản của người chết có đủ để
thanh toán hay không. Như vậy sẽ thừa nhận: từ thời điểm mở thừa kế, hai người
này là một đối với tư cách thanh toán nợ đối với chủ thể mang quyền và người thừa
kế có trách nhiệm trả nợ vô hạn. Những người theo quan điểm này hiểu rằng khi
còn sống, người để lại di sản thừa kế ngoài những tài sản thì họ còn có những nghĩa
vụ, khoản nợ. Khi họ chết họ để lại các nghĩa vụ về tài sản, các nghĩa vụ này phải
được dịch chuyển sang cho những người thừa kế thực hiện. Có như vậy mới đảm
bảo được quyền lợi cho người có quyền đối với các nghĩa vụ mà người chết phải
thực hiện hết nếu còn sống.
Quan điểm về trách nhiệm vô hạn của những người thừa kế đối với khoản
nợ của người thân trong gia đình có nguồn gốc từ những luật tục cũ. Các luật tục
này được coi là dựa trên đạo hiếu đối với bậc sinh thành, sự liên quan của các thành
viên trong gia đình đối với việc lao động, buôn bán để duy trì cuộc sống gia đình.
Tuy nhiên có thể thấy, bản chất sâu xa của các luật tục này là nhằm duy trì chế độ
bóc lột của bọn địa chủ cường hào đối với các khoản nợ truyền kiếp của người nông
dân, khiến cho họ vĩnh viễn là những con nợ, làm thuê, bán sức lao động nhưng
không nhận được thành quả xứng đáng mà không thể phản kháng.
Sau cách mạng tháng 8-1945 do điều kiện lúc bấy giờ nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa chưa ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh về thừa kế nên về
nguyên tắc vẫn áp dụng các văn bản pháp luật về thừa kế trước đó như Bộ dân luật Bắc
Kỳ (1931), Bộ dân luật Trung Kỳ (1936), Bộ dân luật giản yếu (1883) nhưng không
được trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1957 theo chỉ thị Số 72/TANDTC ngày 10/07/1957 của TAND tối

cao thì Pháp luật của chế độ cũ không được làm cơ sở xét xử của các Tòa án nhân
dân nữa nên việc giải quyết quan hệ thừa kế chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật
như: Hiến pháp 1959, Sắc lệnh 97/SL ngày 22/05/1950 của chủ tịch Hồ Chí Minh,
Luật Hôn nhân và gia đình 1959. Những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ thừa kế
bước đầu đã được quy định Trong sắc lệnh 97/SL ngày 22/05/1950 là : Quyền bình
đẳng của vợ và chồng trong gia đình, vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau;
10


con trai, con gái đều có quyền hưởng di sản thừa kế của bố, mẹ, người chồng góa
hay vợ góa, các con đã thành niên có quyền chia tài sản của người đã chết sau khi
thanh toán tài sản chung… Sắc lệnh 97/SL đã cụ thể hóa quyền bình đẳng của công
dân trong quan hệ tài sản, trong đó có vấn đề thừa kế, theo đó: “Con, cháu, vợ hay
chồng của người chết không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đó. Khi nhận
thừa kế các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để
lại”, “Trong lúc sinh thời, người chồng góa hay vợ góa, các con đã thành niên có
quyền đem chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh
toán tài sản chung.” Trong quy định của Sắc lệnh 97/SL mặc dù cũng chưa quy
định cụ thể về di sản thừa kế nhưng đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc khi xóa bỏ các
quy định mang tính hủ tục, lỗi thời của chế độ trước theo tục “Phụ trái, tử hoàn”.
Sắc lệnh đã xác định: Di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản, việc thanh
toán nghĩa vụ tài sản chỉ nằm trong phạm vi di sản thừa kế để lại.
Giai đoạn này, di sản thừa kế còn bao gồm cả đất đai, xuất phát từ đường
lối chiến lược của Đảng ta, Đảng xác định vấn đề ruộng đất là một trong những vấn
đề có tính quyết định cao cho việc bảo toàn thành quả của cách mạng. Do đó, Nhà
nước đã ban hành Luật cải cách Ruộng đất 1953 trong đó xác lập quyền sở hữu đất
đai của cá nhân. Khi cá nhân đó chết, đất đai được coi là di sản thừa kế. Đến khi các
Hiến pháp 1959, 1980 ra đời, quan niệm về tài sản là đất đai đã có sự thay đổi. Hiến
pháp 1959 quy định: “Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền sử hữu ruộng
đất và các tư liệu sản xuất khác của người dân”. Hiến Pháp 1980 xác định đất đai

thuộc sở hữu toàn dân, cá nhân không có quyền xác lập sở hữu đối với đất đai. Vì
thế, đất đai theo quy định của pháp luật không được xác định là di sản thừa kế. Có
sự thay đổi trong xác định di sản thừa kế là đất đai do quan điểm về sở hữu đất đai
qua các thời kỳ có nhiều thay đổi. Trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám
1945 đến ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959 của nước ta quy định sở hữu đa cấp độ - trong đó có sở hữu công và tư
nhân - về đất đai. Năm 1960, miền Bắc thực hiện phong trào “hợp tác hóa” vận
động nông dân đóng góp ruộng đất vào làm ăn tập thể, nhưng chế định sở hữu đất
đai vẫn theo các quy định của Hiến pháp 1959. Đến năm 1987, Luật Đất đai ra đời,
quy định “đất đai thuộc SHTD, do Nhà nước thống nhất quản lý” theo tinh thần
Hiến pháp 1980.
Để tòa án nhân dân các cấp giải quyết được tốt những tranh chấp về thừa kế.

11


Thông tư số 594/NCPL ngày 27/08/1968 của TAND tối cao quy định: Các con của
người chết không phân biệt giới tính, trẻ, già, có năng lực hành vi hay không có năng
lực hành vi dân sự đều được hưởng phần di sản ngang nhau; vợ hoặc chồng của
người để lại di sản được thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với các con của người đó.
Tiếp đến, TAND tối cao đã ban hành Thông tư số 594/TT-TANDTC ngày
27/08/1973 hướng dẫn đường lối xét xử các tranh chấp về thừa kế; Thông tư
02/TATC ngày 28/08/1973 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về di sản liệt sĩ; Và
Thông tư số 81/TT-TANDTC của TAND tối cao ngày 24/07/1981 hướng dẫn xét
xử các tranh chấp về thừa kế.
Theo các văn bản trên, di sản thừa kế không chỉ là tài sản thuộc quyền sở
hữu của cá nhân người đó để lại mà còn bao gồm cả quyền tài sản và nghĩa vụ tài
sản mà người chết để lại. Tuy nhiên, phạm vi thực hiện nghĩa vụ chỉ là trong khối
tài sản mà người chết để lại: “Người thừa kế có quyền nhận hoặc không nhận thừa
kế. Người nhận thừa kế được hưởng các tài sản và các quyên về tài sản của người

chết để lại, đồng thời phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ về tài sản mà
người chết để lại, trong phạm vi giá trị tài sản đã nhận được3”. Đây là quan điểm
thứ hai về di sản thừa kế: Di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản của người chết để lại. Khác với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản vô
hạn ở quan điểm thứ nhất, ở đây, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong
phạm vi di sản được hưởng, họ không phải thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại
bằng tài sản riêng của mình. Nhưng nội dung căn bản mà hai quan điểm này thống
nhất là đều xác định nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại là di sản thừa kế.
Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thừa kế. PLTK
được coi là một văn bản pháp luật đầy đủ và có hệ thống nhất về lĩnh vực thừa kế.
Pháp lệnh quy định về di sản tại Điều 4 như sau: Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác,
quyền về tài sản do người chết để lại. Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất, các thu nhập hợp pháp. Như vậy, đáng lưu ý trong quy định này là các nhà làm
luật đã không dự liệu “nghĩa vụ về tài sản" là di sản thừa kế nữa. Nhưng do phạm
3

Nguyên tắc chung về xét xử các tranh chấp về thừa kế - Thông tư số 81/TTTANDTC của TAND tối cao ngày 24/07/1981 hướng dẫn xét xử các tranh chấp về thừa kế.

12


vi tài sản của công dân được mở rộng hơn trước, nên di sản không chỉ là đồ dùng
hàng ngày, các công cụ sản xuất mà còn bao gồm cả máy móc, nhà xưởng, vốn
bằng, tiền, vàng, ngoại tệ, cổ phần, cổ phiếu, tín phiếu... với số lượng không hạn
chế. Do đó, tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu của một người sẽ là di sản khi
người đó chết.
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh
thừa kế có lưu ý trong việc xác định di sản thừa kế như sau:

- Di sản không chỉ là những đồ dùng hàng ngày, nhà ở, tư liệu sinh hoạt
khác; của cải để dành; những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được
phép lao động riêng lẻ... như trước đây, mà còn bao gồm cả những máy móc, nhà
xưởng, kho tàng, nguyên vật liệu...; vốn bằng tiền, vằng, ngoại tệ, với số lượng
không hạn chế; cổ phiếu v.v... Do đó, tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu của một
người sẽ trở thành di sản khi người đó chết.
- Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không
phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi
công dân chết. Các tranh chấp về di sản có liên quan đến quyền sử dụng đất được
giải quyết theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai.
- Di sản còn là những quyền về tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng như
quyền nhận tài sản mà người chết lúc còn sống đã cho vay, gửi giữ, gửi chữa,
mua...; quyền nhận tiền công lao động, tiền nhuận bút, tiền bán hoặc cho sử dụng
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tiền gửi tiết kiệm...; quyền của
người chết được bồi thường thiệt hại về tài sản (như tiền bồi thường tư trang, hành
lý của hành khách bị tai nạn giao thông; các khoản bồi thường khác của người chết
khi còn sống...).
- Những quyền về tài sản gắn liền với người chết như quyền được hưởng
trợ cấp thương tật, tiền tuất, tiền cấp dưỡng... thì không phải là di sản.
BLDS năm 1995 ra đời về cơ bản đã kế thừa rất nhiều các quy định của
Pháp lệnh thừa kế, bởi lẽ qua thời gian áp dụng, Pháp lệnh thừa kế vẫn phù hợp với
thực trạng của quan hệ thừa kế. Tại khoản 2 Điều 637 BLDS năm 1995 đã bổ sung

13


một nội dung mới có tính chất rất đặc biệt so với các văn bản qui định về di sản
trước đây, đó là "quyền sử dụng đất cũng là di sản thừa kế”.
Đối với vấn đề Di sản thừa kế thì Điều 634 BLDS năm 2005 qui định: “Di

sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác. So với Điều 637 BLDS năm 1995, qui định này đã lược
bỏ phần “quyền sử dụng đất cũng là di sản thừa kế”, lược bỏ phần này là hợp lý, vì
tại Điều 163 BLDS 1995 đã qui định tài sản bao gồm cả “quyền tài sản” mà quyền
tài sản trong đó có quyền sử dụng đất. Cả hai điều luật kể trên đều qui định nghĩa vụ
về tài sản không phải là di sản thừa kế.
BLDS 1995 qui định người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ do người
chết để lại trong “phạm vi di sản” mà họ được hưởng. BLDS 2005 đã bổ sung cụm
từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đây chỉ là sự thay đổi nhỏ, nhưng lại có ý
nghĩa rất lớn về pháp lý. Về nguyên tắc, nghĩa vụ của người thừa kế đối với khoản
nợ do người chết để lại vẫn nằm trong giới hạn và theo tỷ lệ di sản mà họ nhận
được từ người chết, nhưng phạm vi này có thể không tương ứng với tỷ lệ di sản,
thậm chí có thể lớn hơn phần di sản mà người thừa kế thực tế được hưởng, nếu các
bên có thỏa thuận khác. Đây là một qui định mềm dẻo, vừa bảo vệ được quyền lợi
chính đáng của những người thừa kế và quyền lợi chính đáng của chủ nợ, vừa đề
cao nguyên tắc tự định đoạt trong quan hệ dân sự. Quy định này thể hiện tư tưởng
tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của pháp luật dân sự trên thế giới, tôn trọng và
đề cao nguyên tắc tự do, tự nguyện trong các quan hệ dân sự.
Tính từ khi Pháp lệnh thừa kế ra đời đến các BLDS sau này thì quan điểm
thứ ba về di sản thừa kế được giữ nguyên: Quan điểm thứ ba xác định di sản thừa
kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ
tài sản. Quan điểm này không phủ nhận việc thực hiện tiếp các nghĩa vụ của người
chết đối với các nghĩa vụ tài sản mà khi còn sống người chết chưa hoàn thành. Tuy
nhiên, quan điểm này cho rằng, việc thực hiện nghĩa vụ này phải tiến hành trước
khi xác định di sản thừa kế. Trong khối tài sản của người chết thì phần tài sản để
thực hiện nghĩa vụ tài sản và phần tài sản được coi là di sản thừa kế là hai phần
riêng biệt.
Như vậy, trong quá trình lịch sử phát triển về pháp luật thừa kế, các quy định

14



về di sản thừa kế đã nhiều lần thay đổi4:
- Thứ nhất là giai đoạn phong kiến: Di sản thừa kế bao gồm tài sản và các
nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
- Giai đoạn 1950-1968: giai đoạn trước khi Thông thư 594 được ban hành,
theo quy định tại sắc lệnh 97 thì di sản thừa kế chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản,
mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
- Giai đoạn 1968-1990: trước khi Pháp lệnh thừa kế 1990 được ban hành thì
trong các Thông tư số 594, thông tư 81 đều có hướng dẫn xác định di sản thừa kế
bao gồm toàn bộ tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
- Giai đoạn 1990-1995: Từ khi Pháp lệnh thừa kế được thi hành (10/09/1990)
đến khi BLDS có hiệu lực pháp luật (1-7-1996), thì di sản thừa kế được quy định
chỉ bao gồm: Tài sản, quyền tài sản của một người để lại mà không bao gồm các
nghĩa vụ tài sản của người đó.
- Giai đoạn Từ 1/07/1996 đến nay: Kể từ khi BLDS 1995 được ban hành và có
hiệu lực pháp luật, có cách xác định di sản thừa kế tương tự Pháp lệnh thừa kế, các quy
định về phần thứ tư BLDS 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định BLDS
năm 1995 và có một số thay đổi nhỏ để khắc phục những vướng mặc trong quá trình
giải quyết các tranh chấp thừa kế trong thời gian qua. Bộ luật Dân sự 2015 về thừa kế
tiếp tục hoàn thiện các quy định về thừa kế, quan điểm về di sản thừa kế tiếp tục quy
định là tài sản của người chết mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản. Như vậy, kể từ Pháp
lệnh thừa kế đến các Bộ luật dân sự thì di sản thừa kế đều được xác định là toàn bộ tài
sản thuộc sở hữu của người chết mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản.
Hiện nay, khoa học pháp lý thừa nhận quan điểm thứ ba rằng nghĩa vụ tài
sản không được coi là di sản thừa kế bởi lẽ:
- Với ý nghĩa thừa kế là việc được hưởng tài sản do người chết để lại, thì
không thể tư duy theo hướng người thừa kế, người hưởng di sản “được hưởng
nghĩa vụ tài sản”.
- Về phương diện pháp lý, nếu quan niệm di sản thừa kế mà người chết để

lại không chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm cả các nghĩa vụ tài sản
của người đó để lại, thì vấn đề thanh toán và phân chia di sản thừa kế được hiểu như
4

Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sỹ
2002

15


thế nào? Thực tế các điều luật5 cũng thể hiện rằng trước khi chia di sản, những
người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết. Việc thực hiện nghĩa vụ
không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà là thực hiện các
nghĩa vụ do người chết để lại bằng chính di sản của người chết.
Theo qui định tại Điều 615 BLDS năm 2015, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản thuộc về những người hưởng di sản thừa kế: "Những người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại...”.
Qui định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới “bước vào quan hệ nghĩa
vụ”, có nghĩa là họ không thay thế vị trí chủ thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng
tài sản của người chết để lại, hay nói cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họ tiếp nhận
tài sản có của người chết để lại (nợ của người chết không phải là nợ của người
hưởng di sản). Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và những
chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn (nghĩa vụ tài sản và các
chi phí khác bằng hoặc lớn hơn khối tài sản mà người chết để lại) thì khi đó không
còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản thừa kế.
Theo qui định tại Điều 620 BLDS năm 2015 thì người thừa kế có quyền
nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc nợ thay
cho người để lại di sản. Nếu từ chối nhận di sản cũng có nghĩa từ chối nghĩa vụ tài
sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản người chết, vì không

phải là món nợ của bản thân họ. Điều này chứng tỏ rằng, người thừa kế không buộc
phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho tài sản.
Nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ
đều có quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện việc trả nợ. Ở đây phải coi nghĩa vụ
đó là của chính bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để thanh toán.
Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự là món nợ của người đó lúc còn
sống phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế, phải coi nghĩa vụ đó là của
chính bản thân người chết và phải được thanh toán bằng tài sản của người chết, lúc
này là di sản của họ để thanh toán. Nếu sau khi đã thanh toán các khoản nghĩa vụ
này và các chi phí khác liên quan mà vẫn còn di sản để chia thì phần di sản này mới
được coi là di sản thừa kế. Trong đó có thể có phần di sản dành cho người thừa kế
5

681 đến 685 BLDS 2005

16


không phụ thuộc vào di chúc, di sản thờ cúng, di sản dành cho di tặng, phần di sản
dành cho những người thừa kế.
Như vậy, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết mà
chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên những căn cứ hợp pháp
mà người chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Hiểu một cách tổng quan
nhất thì di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại
cho những người có quyền hưởng thừa kế mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản của
người đó.
Chúng ta có thể nêu khái niệm di sản thừa kế như sau: Di sản thừa kế là
toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, là đối tượng dịch chuyển
tài sản của người chết sang cho những người hưởng thừa kế, được nhà nước thừa
nhận và đảm bảo thực hiện6.

Từ khái niệm di sản thừa kế trên đây chúng ta có thể làm rõ được các vấn
đề sau:
Thứ nhất, xác định di sản thừa kế chỉ đặt ra khi người để lại di sản chết.
Nói cách khác quan hệ thừa kế phát sinh bằng một sự kiện pháp lý là người để lại di
sản chết. Cái chết ở đây không chỉ là cái chết về mặt sinh học mà còn có thể là cái
chết về mặt pháp lý được quy định theo pháp luật khi một người bị tuyên bố là đã
chết. Sau khi người để lại di sản chết thì việc làm đầu tiên là phải xác định được tài
sản nào là di sản của người chết để lại. Qua đó xác định được chính xác khối di sản
mà người chết để lại, đảm bảo đúng phần di sản mà người chết đã để lại hoặc đã
định đoạt bằng di chúc cho từng người thừa kế. Di sản phải còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế, nếu không thì sẽ coi như người chết không để lại di sản. Có nhiều
trường hợp người chết khi còn sống đã liệt kê và định đoạt nhiều loại tài sản thông
qua di chúc cho từng người thừa kế, nhưng nếu tính đến thời điểm người đó chết, tài
sản đó không còn thì coi như họ không để lại di sản thừa kế.
Thứ hai, di sản thừa kế phải là tài sản thuộc sở hữu của người chết, do
người đó tích lũy và có được một cách hợp pháp. Đặc trưng của di sản thừa kế là chịu
sự điều chỉnh của chế định thừa kế cũng như chế định về sở hữu, ngoài ra còn có các
6

Trần Thị Huệ (2007), Di sản thừa kế trong pháp Luật Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học

Luật Hà Nội.

17


chế định riêng đối với các loại tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, quyền tài sản
khác… Như đã phân tích, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người
chết để lại khi người đó chết. Để xác định được đó là tài sản của người chết để lại cần
làm rõ các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản. Khi có các căn cứ xác lập sở hữu thì

một tài sản mới được pháp luật công nhận thuộc khối di sản mà người chết để lại.
Đây là điều kiện cần thiết để xác định được đúng khối lượng di sản bởi vì trên thực tế
hiện nay, các dạng tài sản ngày càng đa dạng phong phú, không giải quyết được vấn
đề về xác định quyền sở hữu đối với tài sản sẽ dẫn đến xác định sai khối lượng di sản.
Thứ ba, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để
lại mà chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên căn cứ hợp pháp
mà người chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Nhưng nói vậy không có
nghĩa người hưởng thừa kế không chịu trách nhiệm gì về nghĩa vụ tài sản mà người
chết để lại mà người hưởng thừa kế thực tế sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản đó chỉ
trong phạm vi tài sản thừa kế người chết để lại mà thôi. Những người hưởng thừa
kế có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản của người chết để lại, qua đó sẽ không
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, trừ trường hợp người nhận
thừa kế tự nguyện.
1.3. Một số đặc trƣng của di sản thừa kế:
Thứ nhất, di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết: Di sản thừa
kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại do đó, cần phải căn
cứ vào các quy định về quyền sở hữu tài sản của cá nhân do pháp luật ghi nhận. Tùy
từng chế độ chính trị khác nhau mà căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của
cá nhân là khác nhau. Nội dung các căn cứ đó có bao quát hay hạn hẹp, cụ thể hay
khái lược đều được thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị và phù hợp với thực tế
xã hội ở thời điểm nhất định. Ví dụ, pháp luật hiện hành quy định tại Điều 170,
BLDS 2015 - Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau
đây:

- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp: Công dân
bằng sức lao động của mình tạo ra các sản phẩm, các thành quả lao động thì họ
hoàn toàn có quyền sở hữu đối với những tài sản được tạo ra bằng chính lao động
của họ.

18



- Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền: Thỏa thuận là cơ sở của hợp đồng, việc thỏa thuận này
của các bên với mục đích hợp pháp là chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản từ
chủ thể này sang chủ thể khác thông qua các hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi,
cho vay…. Là cách thức thực hiện hành vi pháp lý phổ biến nhất làm phát sinh quyền
sở hữu của chủ thể. Người được chuyển giao tài sản thông qua các hợp đồng mua
bán, tặng cho, trao đổi, cho vay là cách thức thực hiện hành vi pháp lý phổ biến nhất
làm phát sinh quyền sở hữu của chủ thể. Người được chuyển giao tài sản thông qua
các hợp đồng dân sự hợp pháp thì có quyền sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm nhận tài
sản nếu không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác.

- Thu hoa lợi, lợi tức: Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu
đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản mà họ có quyền sở hữu. Đó là nguồn tài
sản liên quan đến vật ban đầu tạo ra hoa lợi, lợi tức đó.

- Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến: Do có các sự kiện này
mà tài sản của nhiều chủ sở hữu tạo thành vật mới. Vật mới có thể là chung hay
riêng của sở hữu chủ.

- Được thừa kế tài sản: Người được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật là chủ sở hữu tài sản được thừa kế do người chết để lại.

- Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ,
vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới
nước di chuyển tự nhiên;

- Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai phù hợp với thời hiệu quy định


- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Như vậy theo quy định này thì những tài sản nào mà không được xác lập
dựa trên các căn cứ trên đây thì quyền sở hữu của cá nhân sẽ không được pháp luật
thừa nhận và đảm bảo với tư cách là chủ sở hữu.
Thứ hai, yếu tố giá trị của di sản: Di sản thừa kế là các tài sản thuộc sở hữu
của người chết, nó có thể mang giá trị vật chất, cũng có thể là giá trị tinh thần đối
với những người được hưởng thừa kế. Xét trên phương diện đạo đức, xã hội: Di sản
thừa kế là của cải, vật chất mang giá trị vật chất và tinh thần, là phương tiện để thực

19


×