Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Địa vị pháp lý của tòa án nhân dân theo hiến pháp năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ LINH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ LINH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành:
Mã số:


Luật Hành chính – Hiến pháp
60380102

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tô Văn Hòa

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi.
Các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính
thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết quả nêu trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác và nếu có
tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Linh


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 3
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................................. 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài .................................. 4
6. Ý nghĩa khoa học và những nghiên cứu mới của luận văn ........................... 5

7. Kết cấu của Luận văn .................................................................................... 7
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
........................................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm “địa vị pháp lý”....................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm “địa vị”.............................................................................. 10
1.1.2. Khái niệm “địa vị pháp lý”................................................................. 11
1.2. Khái niệm “Địa vị pháp lý của toà án nhân dân”..................................... 13
1.2.1. Khái niệm “Địa vị pháp lý của cơ quan nhà nƣớc” ........................... 13
1.2.2. Khái niệm “Địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân” ............................. 16
Chƣơng 2: CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO
HIẾN PHÁP 2013 ........................................................................................... 20
2.1. Tòa án nhân dân có chức năng thực hiện quyền tƣ pháp ......................... 20
2.1.1. Khái niệm “quyền tƣ pháp” ................................................................ 20
2.1.2. Tòa án nhân dân có chức năng thực hiện quyền tƣ pháp ................... 23
2.2. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 2013 ............................. 26
2.2.1. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý .................................... 26
2.2.2. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân ................................................................................................................ 31


2.2.3. Nhiệm vụ bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. .................................................... 35
Chƣơng 3: QUYỀN HẠN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO HIẾN PHÁP
2013 ................................................................................................................. 37
3.1. Khái quát quy định về quyền hạn của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp
2013 ................................................................................................................. 37
3.2. Quyền giải thích pháp luật của Toà án nhân dân ..................................... 39
3.3. Quyền kiến nghị đình chỉ hiệu lực văn bản QPPL sai phạm..…………..44
Chƣơng 4: MỐI QUAN HỆ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN VỚI CÁC CƠ
QUAN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC ....................................................... 48

4.1. Mối quan hệ của Toà án nhân dân và Quốc hội....................................... 49
4.2. Mối quan hệ giữa toà án nhân dân và Chủ tịch nƣớc .............................. 57
4.3. Mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Chính phủ ................................... 59
4.4. Mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân .............. 62
4.5. Mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và chính quyền địa phƣơng ............. 68
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 74


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, là nhân tố
đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội và chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản
chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nƣớc và chế độ. Trong suốt chặng đƣờng hơn
70 năm lịch sử, Quốc hội đã thông qua 5 bản Hiến pháp; đó là Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản Hiến pháp ra đời đều
đánh dấu chặng đƣờng xây dựng và trƣởng thành của Nhà nƣớc cách mạng
Việt Nam, thể chế hoá đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng
giai đoạn phát triển đất nƣớc, làm nền tảng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm
2013. Hiến pháp mới có sự kế thừa những giá trị cốt lõi và nền tảng của các
bản Hiến pháp trƣớc đó, đồng thời thể hiện đầy đủ ý chí, tinh hoa, nguyện
vọng của đồng bào, cử tri cả nƣớc và xứng đáng là Hiến pháp của thời kỳ đổi
mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng, bảo vệ đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Hiến pháp năm 2013 chứa đựng nhiều tƣ tƣởng mới theo hƣớng xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền, trong đó, phải đặc biệt kể tới những quy định
mới về chế định Tòa án nhân dân tại chƣơng VIII. Theo quy định của Hiến
pháp năm 2013, nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân đã đƣợc bổ sung, sửa đổi theo
hƣớng tích cực, hợp lý, thông qua đó địa vị pháp lý của Toà án nhân dân đƣợc
khẳng định sâu sắc và đầy đủ hơn. Xem xét địa vị pháp lý của Tòa án nhân
dân theo Hiến pháp 2013 trong tƣơng quan so sánh với các bản Hiến pháp
trƣớc đó cho thấy sự thay đổi, phát triển về vị thế của Tòa án qua các thời kì;


2

từ đó cho thấy những quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc đối với vị thế của Tòa
án trong Bộ máy nhà nƣớc Việt Nam. Có thể nói, Hiến pháp 2013 thực sự
chứa đựng nhiều tƣ tƣởng hiện đại, tiến bộ về Tòa án nhân dân. Những cơ sở
hiến định đó đã đƣợc cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014,
góp phần bảo đảm Toà án nhân dân xứng tầm là cơ quan đƣợc giao thực hiện
quyền tƣ pháp, thực sự là chỗ dựa của Nhân dân về công lý, góp phần tích cực
vào việc bảo vệ và khôi phục những quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân bị xâm phạm.
Tính đến thời điểm luận văn đƣợc nghiên cứu, chƣa có một công trình
nào khảo cứu toàn diện về địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp
2013. Do đó, ngƣời viết mong muốn những vấn đề đƣợc đề cập trong luận
văn này sẽ góp phần làm rõ hơn tinh thần của Hiến pháp mới về địa vị của
Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nƣớc cũng nhƣ thể hiện nhận thức của
Đảng và nhà nƣớc trong công cuộc xây dựng nền tƣ pháp trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng với những trọng trách đƣợc giao phó. Chính vì lẽ đó, việc
nghiên cứu để đƣa ra những cơ sở lý luận, làm rõ địa vị pháp lý của Toà án
nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 là thực sự cần thiết, khẳng định
địa vị pháp lý của Toà án nhân dân là tiền đề vững chắc để xây dựng nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng phát triển và hội
nhập.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ thời điểm những định hƣớng cải cách tƣ pháp mà trung tâm là cải
cách Tòa án đƣợc đề cập trong các văn kiện chính thức của Đảng, Tòa án đã
trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học ở nƣớc ta, nhƣ
đề tài cấp nhà nƣớc do TS. Trịnh Hồng Dƣơng làm chủ nhiệm hoàn thành
năm 1996 “Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy
nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam”; Đề tài cấp nhà nƣớc do
TS. Uông Chu Lƣu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006 “Cải cách cơ quan


3

tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử
của tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”; Luận
án tiến sĩ của TS. Tô Văn Hòa “Tính độc lập của Tòa án – nghiên cứu pháp
lý về khía cạnh lý luận, thực tiến ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị
đối với Việt Nam”. Ngoài ra còn nhiều bài viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp
lý, sách, tạp chí, báo...đã đƣợc xuất bản có nội dung đề cập đến tòa án từ
nhiều góc độ khác nhau.
Cũng tính đến thời điểm hiện tại, Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực
thi hành bƣớc sang năm thứ tƣ. Trong khoảng thời gian đó, đã có một số công
trình nghiên cứu nhƣ: Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Văn Cƣờng, “Nghiên
cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo định
hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013”; bên cạnh đó cũng có
nhiều hội thảo khoa học đề cập đến Toà án nhân dân theo Hiến pháp mới ở
một vài khía cạnh và góc nhìn khác nhau.
Nhận thấy, những quy định về Toà án là một phần rất quan trọng, chứa
nhiều điểm mới có ý nghĩa trong Hiến pháp năm 2013, nhƣng đến nay vẫn

chƣa có một công trình nào nghiên cứu tổng thể và toàn diện về địa vị pháp lý
của Toà án nhân dân nên ngƣời viết mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Địa vị pháp
lý của Toà án nhân dân theo Hiến pháp năm 2013” với mong muốn có thể
tìm hiểu rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của Toà án
nhân dân với các cơ quan nhà nƣớc khác theo quy định của Hiến pháp và các
văn bản luật cụ thể, từ đó có những nhận thức sâu sắc về địa vị pháp lý của
Toà án nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích làm rõ địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân ở
nƣớc ta kể từ khi Hiến pháp mới ra đời năm 2013. Trên cơ sở phân tích những


4

quy định của pháp luật về Toà án nhân dân, qua đó luận văn đƣa ra đánh giá,
nhận xét về địa vị pháp lý của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Với mục đích nghiên cứu nhƣ trên, luận văn cần hoàn thành những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Xác định nội hàm khái niệm địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân;
- Từ những tiền đề lý luận trên, luận văn lần lƣợt phân tích các khía
cạnh: (i) Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân; (ii) Quyền hạn của Tòa
án nhân dân; (iii) Mối quan hệ của Tòa án nhân dân với các cơ quan nhà nƣớc
khác;
- Trên cơ sở những luận điểm đã nêu ra, luận văn đánh giá, nhận xét về
địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và các văn
bản pháp luật hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn phân tích địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân dựa trên những

quy định của Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật cụ thể hóa Hiến pháp
nhƣ Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2014, Luật tổ chức Quốc Hội 2014, Luật tổ chức Chính phủ 2015, Luật tổ
chức chính quyền địa phƣơng 2015...
Ngoài ra, để tăng tính thuyết phục và chặt chẽ cho những quan điểm
nêu ra, luận văn có sự so sánh với các quy định về Tòa án nhân dân đã đƣợc
ghi nhận trong các bản Hiến pháp trƣớc cũng nhƣ so sánh với địa vị của Tòa
án ở một số quốc gia trên thế giới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu về địa vị
pháp lý của Toà án nhân dân theo Hiến pháp năm 2013, luận văn đã sử dụng
các phƣơng pháp nghiên cứu thông thƣờng của khoa học xã hội và luật học
nhƣ:


5

- Phƣơng pháp lịch sử: Tìm hiểu những quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của Toà án nhân dân trong lịch sử thế giới và Việt Nam để nắm rõ sự
thay đổi và hoàn thiện về địa vị pháp lý của Toà án nhân dân theo từng giai
đoạn.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phƣơng pháp chủ đạo đƣợc
sử dụng. Luận văn phân tích các quy định của Hiến pháp cũng nhƣ các văn
bản pháp luật khác về địa vị pháp lý của Toà án nhân dân; từ đó đƣa ra những
nhận xét, đánh giá mang tính tổng hợp nhằm khẳng định rõ vị thế của Toà án
nhân dân trong nhà nƣớc pháp quyền hiện nay.
- Phƣơng pháp so sánh: Luận văn so sánh địa vị pháp lý của Tòa án
nhân dân theo Hiến pháp 2013 với các bản Hiến pháp trƣớc đó, đặc biệt là
Hiến pháp năm 1992. Mặc dù không phải là phƣơng pháp chủ đạo nhƣng tác
giả đã sử dụng hợp lý phƣơng pháp này để làm bật nổi địa vị của Tòa án theo

tinh thần Hiến pháp hiện nay. Ngoài ra, khi có thể, tác giả so sánh các quy
định pháp luật về Toà án nhân dân của Việt Nam với quy định pháp luật của
một số quốc gia có nền lập pháp phát triển trên thế giới nhƣ Mỹ, Pháp; thông
qua đó đánh giá mức độ tƣơng quan giữa tòa án Việt Nam với hệ thống Tòa
án hiện đại.
Nguồn tài liệu nghiên cứu để hoàn thành Luận văn bao gồm Hiến pháp,
các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia liên quan đến địa
vị pháp lý của Toà án nhân dân, các báo cáo, nghiên cứu, đánh giá của các cơ
quan nhà nƣớc cũng nhƣ của các chuyên gia về pháp luật. Bên cạnh đó, luận
văn còn đƣợc hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo một số bài viết về
vấn đề này trên các tạp chí, website trong và ngoài nƣớc.
6. Ý nghĩa khoa học và những nghiên cứu mới của luận văn
Hiến pháp 2013 đã thể hiện sự đổi mới vƣợt bậc trong các quy định về
tổ chức và hoạt động của Tòa án. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, Toà án đƣợc ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, bảo vệ công


6

lý, bảo vệ quyền con ngƣời và quyền công dân, các quy định này đƣợc đặt
trƣớc các quy định về bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nƣớc. Đây là những quy định có tính tƣơng đồng với Hiến pháp của nhiều
quốc gia tiên tiến trên thế giới. Hiến pháp 2013 tạo ra vị thế mới, điều kiện
mới cho sự phát triển của nền tƣ pháp, nhƣng cũng đòi hỏi các Toà án nhân
dân nâng cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn, khắc phục những hạn chế
trong thời gian qua, tích cực đổi mới về mọi mặt để đáp ứng tinh thần: Cải
cách tƣ pháp là xây dựng một nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bƣớc hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, phân tích chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan

hệ của Toà án nhân dân để từ đó làm nổi bật địa vị pháp lý của Toà án theo
Hiến pháp 2013 là một đóng góp vô cùng thiết thực ý nghĩa. Bởi lẽ, trải qua 4
năm Hiến pháp 2013 đi vào thực tiễn, nhƣng cho đến nay vẫn chƣa có một
công trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề này. Không khó để bắt gặp
những bài viết về vị trí, vai trò của Toà án nhân dân nhƣng tuyệt nhiên, địa vị
pháp lý của Toà án thì chƣa đƣợc khảo cứu cụ thể. Nếu nhƣ nhắc đến vị trí,
vai trò của Toà án nhân dân tức là nhấn mạnh tác động và ý nghĩa của Tòa án
đối với xã hội, là nói tới “giá trị” mà Tòa án đóng góp cho đời sống thực tiễn
thì việc xác định địa vị pháp lý của Toà án nhân dân theo Hiến pháp 2013 lại
ở một tầm mức cao hơn, có sự khái quát lớn hơn rất nhiều. Bởi tất cả các khía
cạnh chức năng, nhiệm vụ; quyền hạn và mối quan hệ giữa Toà án với các cơ
quan khác đều đƣợc soi chiếu và phân tích cụ thể. Lựa chọn nghiên cứu đề tài
địa vị pháp lý của Toà án không đơn thuần là sự khởi đầu của chính tác giả,
mà hơn thế nữa, hi vọng rằng, công trình này sẽ là một đóng góp mới cho quá
trình nghiên cứu Hiến pháp nói chung và nghiên cứu về chế định Toà án nhân
dân nói riêng. Trong đó, lần đầu tiên, khái niệm địa vị pháp lý của Toà án
nhân dân đƣợc đƣa ra sẽ trở thành nền tảng lí luận cho những nghiên cứu về


7

sau. Cuối cùng, tác giả mong muốn, luận văn sẽ đem đến cho ngƣời đọc một
cái nhìn toàn diện với những nhận thức sâu sắc, đầy đủ về địa vị pháp lý của
Toà án nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn gồm các phần chính sau:
Chƣơng 1: Khái quát về địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân
Chƣơng 2: Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Chƣơng 3: Quyền hạn của Tòa án nhân dân

Chƣơng 4: Mối quan hệ của Tòa án nhân dân với các cơ quan khác trong
bộ máy nhà nƣớc


8

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
Theo chiều dài phát triển của đất nƣớc, hệ thống tòa án Việt Nam cũng
đƣợc hình thành và phát triển trong những bối cảnh lịch sử khác nhau. Dƣới
thời Pháp thuộc, ở Việt Nam tồn tại hai hệ thống Tòa án: Hệ thống tòa án Việt
Nam (Tòa án Nam triều) với đặc điểm là quyền xét xử không phân biệt với
quyền hành chính, “quan” hành chính đồng thời là thẩm phán, chỉ có Tòa
thƣợng thẩm mới tách khỏi cơ quan hành chính; và hệ thống tòa án Pháp đƣợc
tổ chức gần nhƣ trên toàn cõi Việt Nam theo mô hình nhƣ nƣớc Pháp, biệt lập
với cơ quan hành chính.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1958 chứng kiến dấu mốc cải cách tƣ
pháp năm 1950. Nếu nhƣ trƣớc năm 1950, hệ thống Tòa án Việt Nam vẫn
mang đậm dấu ấn hệ thống Tòa án thời Pháp thuộc thì sau cải cách tƣ pháp,
“Tòa án” đã đƣợc gọi là “Tòa án nhân dân”.
Giai đoạn từ năm 1958 đến năm 1980, Tòa án nhân dân ở Việt Nam đã
đƣợc tổ chức thành một hệ thống từ trung ƣơng đến huyện, thị xã và tách khỏi
Bộ tƣ pháp. Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm tối đa
sự tham gia của nhân dân. Ngoài việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, một
điểm mới nữa là việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phƣơng do Tòa án nhân
dân tối cao đảm nhiệm.
Tòa án nhân dân trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1992 tiếp tục
tăng thêm quyền xét xử đối với các vụ án lao động; Tòa án nhân dân tối cao
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt
nghiêm trọng; Tòa án nhân dân cấp tỉnh chính thức đƣợc trao thẩm quyền

giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân cấp huyện; Chuyển việc quản lý Tòa án nhân dân cấp
dƣới từ Tòa án nhân dân tối cao sang Bộ tƣ pháp quản lý.


9

Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002, thẩm quyền của Tòa án nhân
dân tiếp tục đƣợc mở rộng hơn trên nhiều lĩnh vực. Khẳng định rõ Tòa án
nhân dân thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử do đó thẩm quyền xét xử sơ
chung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã đƣợc loại bỏ. Chuyển việc quản lý
Tòa án nhân dân địa phƣơng từ Bộ tƣ pháp sang Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” để tiến
hành cải cách tƣ pháp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của đất nƣớc. Việc triển
khai tổ chức thực hiện Nghị quyết đã tạo ra đƣợc một số chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ƣơng đến địa phƣơng về
tính cấp thiết và yêu cầu khách quan của việc đẩy mạnh cải cách tƣ pháp.
Thực tiễn đất nƣớc ta đặt ra những nhu cầu cải cách tƣ pháp sâu rộng, do vậy,
ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW
“Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Đây là sự kế thừa và phát
triển lên một tầm cao mới từ Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về
công tác tƣ pháp. Theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị định hƣớng hệ thống tổ chức Tòa án
nhân dân gồm 4 cấp: Tòa án nhân dân sở thẩm khu vực; Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng; Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân
dân tối cao.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 đem lại nhiều ý nghĩa đặc biệt, đó là
một dấu mốc quan trọng không chỉ đối với hoạt động lập pháp mà còn cả nền
tƣ pháp ở nƣớc ta. Địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân đƣợc khẳng định rõ nét
hơn, hoàn thiện hơn thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và mối quan hệ của Tòa án nhân dân. Chƣơng đầu tiên của luận văn sẽ
tập trung phân tích những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân
làm nền tảng lý luận cho các chƣơng tiếp sau.


10

1.1. Khái niệm “địa vị pháp lý”
1.1.1. Khái niệm “địa vị”
Trong ngôn ngữ lý thuyết và đời sống thực tiễn, “địa vị” là một từ ghép
Hán - Việt đƣợc dùng khá phổ biến, hợp bởi hai thành tố: địa (đất, nền hoặc vị
trí trong không gian nói chung) và vị (cấp độ, ngôi thứ). Vì vậy, từ “địa vị”
trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Giáo sƣ Nguyễn Lân do Nhà
xuất bản Văn học ấn hành năm 2003 đƣợc định nghĩa ngắn gọn là “chỗ đứng
xứng đáng” [tr.204]. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt thông dụng của GS.TS.
Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên, do Nxb. Giáo dục ấn hành năm 2008 định nghĩa rõ
ràng hơn, cho rằng “địa vị” là: (i) “chỗ đứng xứng đáng với vai trò”; hoặc (ii)
“chỗ đứng trong xã hội” [tr.262]. Đến năm 2009 và cũng của GS.TS. Nguyễn
Nhƣ Ý, trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nxb. Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh ấn hành lại cho rằng khái niệm “địa vị” có tới bốn nghĩa
nhƣ sau: (i) “vị trí, chỗ đứng xứng đáng với vai trò, tác dụng có đƣợc”; (ii) “vị
trí, chỗ đứng của cá nhân trong xã hội”; (iii) “chỗ đứng trong cách nhìn nhận
giải quyết vấn đề”; và (iv) “có tƣ tƣởng, đầu óc ham muốn vị trí, quyền lực
trong xã hội” [tr.518]. Còn trong cuốn Từ điển từ Hán Việt của TS. Lê Anh
Xuân chủ biên do Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành
năm 2009 đƣa ra định nghĩa gọn hơn: “địa vị” là “vị trí cá nhân trong quan hệ
xã hội, do chức vụ, quyền lực mà có, về mặt đƣợc coi trọng nhiều hay ít (địa:
vị trí; vị: ngôi thứ) [tr.142]. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng
Phê chủ biên do Viện ngôn ngữ học và Nxb. Từ điển Bách khoa phối hợp ấn
hành năm 2012 đã cho ra đời một khái niệm “địa vị” có tính tổng hợp tƣơng

đối của những định nghĩa đƣợc trình bày ở trên, khi coi “địa vị” là: (i) “vị trí
cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt
đƣợc coi trọng nhiều hay ít”; (ii) “vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị
do vai trò, tác dụng mà có, về mặt đƣợc coi trọng nhiều hay ít”; (iii) “vị trí cá
nhân trong quan hệ xã hội, về mặt chỗ đứng, quyết định các của Viện kiểm sát ra trƣớc Tòa án là cơ sở để
Tòa án có thể tiến hành xét xử. Nếu không có quyết định truy tố này, Tòa án
sẽ không có thẩm quyền giải quyết vụ việc, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện
kiểm sát sẽ không có. Giới hạn xét xử của Tòa án phụ thuộc vào quyết định
truy tố của Viện kiểm sát. Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử đối với bị cáo,
hành vi, tội trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát mang tính phối hợp và chế ƣớc.
Để đảm bảo cho hoạt động xét xử đƣợc khách quan, có căn cứ và hợp pháp,
pháp luật đã quy định mối quan hệ phối hợp và chế ƣớc khi thực hiện các hoạt
động tố tụng. Đây là mối quan hệ biện chứng, đảm bảo cho hoạt động tố tụng
đƣợc kịp thời, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật mang tính phối hợp
và chế ƣớc lẫn nhau.
Trƣớc hết, xuất phát từ sự nhạy cảm và tính chất quan trọng của hoạt
động xét xử, nên pháp luật không giao cho một cơ quan thực hiện toàn bộ quá
trình chứng minh và xử lý tội phạm mà phân ra thành nhiều giai đoạn. Mỗi
giai đoạn tƣơng ứng với thẩm quyền của một cơ quan. Vì vậy, giữa hai cơ
quan này buộc phải có sự phối hợp với nhau. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình, cả Tòa án và Viện kiểm sát đều không tránh khỏi những thiếu
sót và sai lầm. Khi có sự phối hợp, làm việc với nhau thì các bên có thể thấy
đƣợc những thiếu sót, sai lầm đó để sửa chữa, bổ sung cho nhau. Ngoài ra,
việc phối hợp giữa các cơ quan nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật


67

đƣợc thống nhất, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong hoạt động tƣ pháp.

Bên cạnh đó, giữa Toà án và Viện kiểm sát còn tồn tại mối quan hệ chế
ƣớc, đƣợc thể hiện thông qua sự kiểm tra, đánh giá hoạt động hai chiều giữa
Tòa án và Viện kiểm sát.
Trên thế giới, tất cả các mô hình tố tụng đều đƣợc thiết kế nhằm tạo ra
hàng loạt cơ chế phối hợp, kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, trong đó có quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát. Ví nhƣ mô hình tố
tụng của Cộng hòa liên bang Đức, trong giai đoạn tiền xét xử, cơ quan công
tố phải thẩm tra và kiểm soát quá trình điều tra; Tòa án cũng thực hiện việc
kiểm soát hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn này. Trong giai đoạn
trung gian, Tòa án kiểm tra cáo trạng và tại phiên tòa xét xử, Tòa án thực hiện
việc kiểm tra tổng thể đối với toàn bộ tiến trình tố tụng, kiểm tra các chứng
cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng nhƣ các chứng cứ, tài liệu đƣợc đƣa ra
tại phiên tòa. Mô hình tố tụng ở Liên bang Nga tạo ra một hệ thống tƣ pháp
hình sự trên cơ sở phân chia quyền lực, kiềm chế và đối trọng, để đảm bảo sự
bình đẳng quyền lực giữa các bên truy tố với bên biện hộ và đảm bảo hệ
thống Tòa án độc lập. Theo đó, Viện kiểm sát Liên bang Nga chỉ có chức
năng kiểm sát hoạt động của Tòa án trƣớc khi xét xử và giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án với tƣ cách bên buộc tội. Tòa án có chức năng kiểm tra
hoạt động của Viện kiểm sát nhƣ: xác nhận cáo trạng hoặc bản luận tội là phù
hợp, quyết định có huỷ bỏ, thay đổi các biện pháp cƣỡng chế tiền xét xử hay
không và có cho phép đƣa ra kiến nghị hoặc khiếu nại không; xác định xem
có căn cứ để tổ chức xét xử sơ bộ không.
Mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát là một mối quan hệ tất yếu, với
đặc điểm quan trọng nhất trong mối quan hệ này là có sự phối hợp và chế ƣớc
lẫn nhau trong hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát. Tuy vậy, cũng cần khẳng
định, Tòa án vẫn luôn đóng vai trò trung tâm trong hệ thống cơ quan tƣ pháp và
là chủ thể duy nhất đƣợc Hiến pháp trao chức năng thực hiện quyền tƣ pháp.


68


4.5. Mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và chính quyền địa phƣơng
Điều 111 Hiến pháp 2013 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm
có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”. Chính quyền địa phƣơng của
nƣớc ta là một bộ phận hợp thành, gắn bó hữu cơ của chính quyền Nhà nƣớc
thống nhất, là hình thức pháp lý thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình ở địa phƣơng. Vì vậy tính Nhà nƣớc là thuộc tính vốn có của
chính quyền địa phƣơng ở nƣớc ta. Chính quyền địa phƣơng bao gồm Hội
đồng nhân dân - cơ quan đại diện quyền lực Nhà nƣớc ở địa phƣơng do nhân
dân địa phƣơng trực tiếp bầu ra và Uỷ ban nhân dân - do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu và là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân.
Điều 113 Hiến pháp 2013 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng.
Quy định về Ủy ban nhân dân đƣợc ghi nhận tại Điều 114 Hiến pháp
2013 nhƣ sau: “Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân,cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng
nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”. Ủy ban nhân dân là cơ
quan hành chính nhà nƣớc ở địa phƣơng.
Mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và chính quyền địa phƣơng cũng
đƣợc thể hiện trên hai phƣơng diện tổ chức và hoạt động.
Trƣớc hết, về công tác nhân sự. Khoản 1 Điều 86 Luật Tổ chức Toà án
nhân dân 2014 ghi rõ: “Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm đề nghị Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu



69

chuẩn theo quy định tại Điều 85 của Luật này để Hội đồng nhân dân có thẩm
quyền theo luật định bầu Hội thẩm nhân dân.
Chánh án Tòa án nhân dân sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp đề nghị Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, bãi nhiệm
Hội thẩm nhân dân”.
Hội thẩm nhân dân chính là ngƣời đại diện cho nhân dân trong việc
tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội nói chung và công tác xét xử của
Tòa án nói riêng. Ở nƣớc ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa
án đƣợc thể hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân.
Chế định Hội thẩm là sự bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân
dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nƣớc của dân,
do dân và vì dân. Do đó, việc ghi nhận quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội
thẩm nhân dân của Hội đồng nhân dân cùng cấp là một quy định hoàn toàn
đúng đắn và hợp lý. Chính các đại biểu do nhân dân bầu ra sẽ tiếp tục lựa
chọn những ngƣời đại diện cho nhân dân trong việc giám sát hoạt động xét xử
của Toà án, điều này giúp tăng cƣờng mối quan hệ giữa Toà án và nhân dân.
Từ đó, vai trò, vị trí của Toà án tiếp tục đƣợc nâng cao hơn nữa.
Thứ hai, về hoạt động, Điều 19 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy
định: Hội đồng nhân dân địa phƣơng giám sát Tòa án nhân dân địa phƣơng
thông qua việc xem xét báo cáo công tác xét xử của Tòa án địa phƣơng. Nếu
nhƣ ở cấp trung ƣơng, Toà án nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội
thì ở địa phƣơng, Toà án nhân dân địa phƣơng sẽ phải báo cáo công tác xét xử
cho Hội đồng nhân dân.
Bên cạnh đó, đại biểu Hội đồng nhân dân cũng có thể chất vấn Chánh
án Tòa án nhân dân cùng cấp. Chánh án Tòa án nhân dân phải báo cáo công
tác trƣớc Hội đồng nhân dân cùng cấp; đại biểu Hội đồng nhân dân đƣợc thực
hiện quyền chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp. Việc chất vấn chỉ

diễn ra trong phạm vi những vấn đề đƣợc nêu trong báo cáo về hoạt động xét


70

xử nói chung của Tòa án. Không ghi nhận quyền chất vấn liên quan tới việc
giải quyết một vụ án cụ thể bởi điều này có thể làm ảnh hƣởng tới sự độc lập
của Toà án.
Hiến pháp 2013 quy định về chế độ báo cáo của các Toà án khác nhƣng
không quy định cụ thể chế độ trách nhiệm nhƣ Hiến pháp 1992 (Điều 135) là
Chánh án Toà án nhân dân địa phƣơng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trƣớc Hội đồng nhân dân mà để nội dung này cho Luật tổ chức Toà án nhân
dân quy định. Đây là sửa đổi quan trọng của Hiến pháp 2013, nhằm hƣớng tới
xây dựng hệ thống Toà án không quá phụ thuộc vào các đơn vị hành chính
lãnh thổ, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Một điểm nữa thể hiện mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và chính
quyền địa phƣơng về mặt hoạt động liên quan đến các quyết định hành chính
và hành vi hành chính bị kiện. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan
hành chính nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức đƣợc giao thực hiện quản lý hành
chính nhà nƣớc ban hành hoặc ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính
đƣợc áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tƣợng cụ thể. Quyết định
hành chính bị kiện khi quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm
dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung
làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Còn hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính
nhà nƣớc hoặc của ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
hoặc cơ quan, tổ chức đƣợc giao thực hiện quản lý hành chính nhà nƣớc thực
hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Hành vi hành chính bị kiện khi hành vi đó làm ảnh hƣởng đến việc thực hiện

quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân28. Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 quy định Tòa án nhân dân có quyền xét xử các tranh chấp,
28

Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015


71

khiếu kiện liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính theo
nguyên tắc, tòa cấp nào thụ lý vụ việc trên địa bàn hoặc trên cùng phạm vi địa
giới hành chính của cấp đó.
Nhƣ vậy, Toà án có quyền xét xử thành viên Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân nếu có vi phạm trong quá trình ban hành quyết định hành chính,
hành vi hành chính. Nhằm bảo đảm công lý đƣợc thực thi, Luật Tố tụng hành
chính 2015 đã quy định, (i) cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng
hành chính phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân (Điều
15); (ii) khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ (Điều 14). Tuy nhiên,
một rào cản tâm lý đối với ngƣời khởi kiện là liệu Tòa án có thực sự độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật hay không? Liệu những ngƣời đóng vai trò “cầm
cân nảy mực” có thực sự khách quan trong việc xét xử các quyết định và hành
vi hành chính của chính cơ quan hành chính nhà nƣớc và ngƣời có thẩm
quyền trên cùng địa bàn không? Hay hội đồng xét xử có đủ khách quan và
công tâm khi “xử” chính những ngƣời đã tham gia hoặc có ý kiến vào quá
trình lựa chọn, bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm chính họ? Tuy nhiên, dù thế nào
đi nữa thì vẫn phải khẳng định rằng, pháp luật quy định điều này đã góp phần
nâng cao địa vị pháp lý của Toà án nhân dân, chứng tỏ Toà án vẫn luôn là cán
cân công lý đảm bảo công bằng cho xã hội.

Tóm lại, mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và chính quyền địa phƣơng
vẫn luôn đƣợc pháp luật ghi nhận thông qua các quy định về tổ chức và hoạt
động. Đó là mối quan hệ vừa có sự giám sát nhƣng cũng có sự phối hợp vì
mục tiêu chung là hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan nhà
nƣớc. Quy định của Hiến pháp 2013 cũng nhƣ Luật tổ chức Toà án nhân dân
2014, Luật Tổ chức Chính quyền địa phƣơng 2015 đã góp phần nâng cao hơn
nữa địa vị pháp lý của Toà án nhân dân.


72

KẾT LUẬN CHƢƠNG
Tóm lại, hệ thống Tòa án ở Việt Nam tồn tại trong nhiều mối quan hệ
đan xen với các nhánh quyền lực khác của nhà nƣớc. Đó là Quốc Hội, Chủ
tịch nƣớc, Chính phủ, Viện kiểm sát và chính quyền địa phƣơng. Mức độ mật
thiết của mỗi mối quan hệ tuy không giống nhau tùy thuộc vào vai trò, đặc
điểm của mỗi cơ quan. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở trên, Hiến pháp 2013 và
các luật liên quan đều đang thể hiện cho thấy địa vị pháp lý của Tòa án nhân
dân đã đƣợc nâng cao hơn trƣớc rất nhiều. Cũng cần phải hiểu đúng, sự nâng
cao vị thế của Tòa án không có nghĩa là địa vị của cơ quan còn lại bị hạ thấp,
mà đây là xu hƣớng đúng đắn thể hiện tinh thần xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền, khi đặt Tòa án vào đúng vị trí đặc biệt của nó. “Nhà nước rất cần một
thiết chế độc lập để có thể chống lại mọi sự đe doạ đối với các nguyên tắc và
những giá trị nền tảng của xã hội hiện hành. Đó là Toà án, thành trì cuối
cùng của tự do”29
Nhƣ vậy, Hiến pháp năm 2013 cùng với các quy định trong Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các quy định pháp luật khác đã tạo ra vị
thế mới, khẳng định mạnh mẽ hơn tính độc lập của hệ thống Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, cũng chính từ các quy định của pháp luật hiện hành đòi hỏi hệ
thống Tòa án nhân dân nâng cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn, khắc phục

những hạn chế thời gian qua, tích cực đổi mới về mọi mặt để đáp ứng tinh
thần và mục tiêu Cải cách tƣ pháp là xây dựng một nền tƣ pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bƣớc hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tƣ
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử đƣợc tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao trong một Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cần
29

Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nƣớc, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2005, tr.634


73

tăng cƣờng hơn nữa việc phát huy mối quan hệ giữa hệ thống cơ quan Tòa án
và các cơ quan nhà nƣớc khác bảo đảm cho quyền lực nhà nƣớc đƣợc vận
hành hiệu quả đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, bảo đảm các
giá trị của quyền con ngƣời, giá trị của công lí luôn luôn đƣợc tôn trọng trong
thực tiễn đời sống.


74

KẾT LUẬN CHUNG
Địa vị pháp lý của Toà án nhân dân theo Hiến pháp 2013 là một vấn đề
cần đƣợc nghiên cứu và có sự đánh giá đúng đắn. Trong khuôn khổ luận văn,
tác giả đã cố gắng phân tích ở cả ba khía cạnh: Chức năng, nhiệm vụ; quyền
hạn; mối quan hệ của Toà án nhân dân để từ đó bật nổi lên đƣợc địa vị pháp
lý của Toà án nhân dân theo Hiến pháp 2013. Kết quả nghiên cứu cho phép

tác giả đƣa ra một số kết luận nhƣ sau:
- Quy định của Hiến pháp 2013 về chức năng, nhiệm vụ của Toà án
nhân dân là một điểm mới cần đƣợc ghi nhận. Thay cho việc quy định chung
nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân với nội dung chƣa
thể hiện đƣợc tính đặc thù trong hoạt động của Toà án, Hiến pháp 2013 quy
định riêng chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân. Chức năng xét xử của
Toà án là một chức năng đã đƣợc thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến
pháp trƣớc đây. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Toà án đƣợc trao sứ mệnh
riêng là “thực hiện quyền tƣ pháp”, Hiến pháp 2013 xác định rõ ràng, cụ thể
vị trí vai trò của Toà án nhân dân trong bộ máy cơ quan nhà nƣớc. Toà án là
cơ quan duy nhất thực hiện quyền tƣ pháp, thực hiện chức năng xét xử; Toà
án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp
luật, các tranh chấp theo quy định pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Xử lý các vi phạm
pháp luật bằng chế tài nhà nƣớc, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà
nƣớc đều thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án nhân dân thực hiện quyền tƣ
pháp, có nhiệm vụ: “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Hiến pháp nhấn mạnh rằng, bảo vệ
công lý, quyền con ngƣời, quyền công dân là những nhiệm vụ đầu tiên của
Toà án nhân dân, sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Toà


75

án phải là nơi mà mọi ngƣời, mọi công dân tìm đến lẽ phải, sự thật; có nhiệm
vụ bảo vệ công lý khi quyền, lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại;
khi công dân yêu cầu Toà án giải quyết mọi tranh chấp thì Toà án có trách
nhiệm thụ lý giải quyết mà không có quyền từ chối. Theo đó, công lý, quyền

con ngƣời, quyền công dân là mục đích của việc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nƣớc, bao gồm cả quyền tƣ pháp. Đây là điểm rất mới so với Hiến
pháp năm 1992. Với quy định này có thể thấy rõ hơn định hƣớng tổ chức bộ
máy nhà nƣớc ta theo kiểu Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và Toà án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tƣ
pháp.
- So với Hiến pháp 1992, quyền hạn của Toà án nhân dân đã đƣợc mở
rộng và quy định rõ ràng hơn rất nhiều, phù hợp với xu thế chung của nền tƣ
pháp hiện đại. Tất cả các quyền hạn mà Tòa án đƣợc trao cho đều hƣớng tới
mục tiêu giúp Toà án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Với quyền
giải thích pháp luật và quyền đình chỉ hiệu lực thi hành văn bản quy phạm vi
phạm của Toà án nhƣ đã phân tích ở trên, cho thấy địa vị pháp lý của Toà án
đã đƣợc nâng cao hơn so với trƣớc. Trao cho Toà án thực thi hai quyền này là
hoàn toàn đúng quy luật phát triển, do đó, hi vọng trong thời gian tới, quy
định của pháp luật sẽ có sự ghi nhận rõ ràng hơn nữa để Toà án phát huy hết
quyền hạn của mình trong công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
- Trong nhà nƣớc pháp quyền, về nguyên lý, mọi hoạt động quyền lực
nhà nƣớc đều phải đƣợc kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện quyền lực do Nhân dân uỷ quyền không chỉ đƣợc thực hiện bởi
Nhân dân – ngƣời uỷ quyền quyền lực, mà trƣớc hết và đặc biệt là sự kiểm
soát quyền lực ngay bên trong bộ máy nhà nƣớc giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Vì vậy, đổi mới tổ chức Toà án nhân


76

dân cần tạo ra khả năng kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc một
cách thực tế cho Toà án nhân dân, đặc biệt là Toà án nhân dân tối cao. Trong

điều kiện chƣa thể có một cơ chế bảo hiến nhƣ một cấu trúc tổ chức phán
quyết độc lập bảo vệ tính tối cao và toàn vẹn của Hiến pháp, cần nghiên cứu
trao quyền phán quyết tính hợp pháp của các văn bản do các cơ quan nhà
nƣớc ban hành khi có đơn khiếu nại, khiếu kiện gửi tới Toà án. Hơn nữa, để
tăng cƣờng khả năng kiểm soát quyền lực nhà nƣớc thông qua hoạt động xét
xử, đặc biệt là xét xử các vụ kiện hành chính, cần đảm bảo tính độc lập thật sự
cho các hoạt động xét xử của Toà án theo đúng thủ tục luật định. Tuy nhiên,
khi đề cập đến tính độc lập của Toà án trong điều kiện Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân luôn trong ý nghĩa
độc lập xét xử theo nguyên tắc, khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Việc ra phán quyết của Toà án đối với tất cả các vụ án hình sự
và mọi vụ kiện dân sự, kinh tế, lao động, hành chính chỉ trên cơ sở luật pháp
mà không chịu bất kỳ một sự can thiệp, gây sức ép nào từ bất kỳ một tổ chức
hay cá nhân nào. Điều này có nghĩa là Toà án độc lập trong quan hệ tố tụng
mà không bao gồm ý nghĩa độc lập tuyệt đối trong các quan hệ khác giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc. Toà án nhƣ một chủ thể thực hiện quyền tƣ
pháp, trong cơ cấu ba quyền: lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Về nguyên tắc,
quyền lực của Toà án cũng phải đƣợc kiểm tra, giám sát từ phía các cơ quan
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp. Vấn đề đặt ra trong tổ chức và hoạt
động của Toà án là xác định một cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền xét
xử của Toà án một cách đặc thù sao cho vừa đảm bảo quyền kiểm tra, giám
sát của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp vừa đảm bảo tính
độc lập xét xử của Toà án.
Vì lẽ đó, trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn không thể hình thành
một hệ thống Toà án từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhƣ một hệ thống khép
kín theo mô hình Toà án cấp trên lãnh đạo Toà án cấp dƣới và Toà án cấp


×