Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Pháp luật về dân chủ ở cơ sở của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.01 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60380101

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Văn Long

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Nội dung của Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của Luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng 08 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kim Ngân



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM .....................................................................................9
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ ở cơ sở ........................................................ 9
1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam............................. 19
1.3. Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam .............................. 24
1.4. Vai trò của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam............................ 30
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam ...33
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................36
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC
TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM ........37
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của
Việt Nam ...................................................................................................................37
2.2. Thực trạng của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam ..................... 42
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam ............68
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................74
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM ................................................................ 75
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................................75
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam ............81
Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................96
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chỉ thị 30CT/TW
Chỉ thị số số 07CT/TW

: Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
: Chỉ thị số số 07-CT/TW ngày 05/9/016 của Ban Bí thư về đẩy
mạnh công tác thông tin cơ sở trong tình hình mới

HĐND
Nghị định số
29/1998/NĐ-CP
Nghị định số
79/2003/NĐ-CP

: Hội đồng nhân dân
: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
: Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã

Nghị định số
29/1998/NĐ-CP
Nghị định số
79/2003/NĐ-CP
Nghị quyết liên
tịch số 09/2008


: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
: Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
: Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN
ngày 17/4/2008 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Chính phủ hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14,
Điều 16 và Điều 22 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
Nghị quyết số 48- : Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/4/2005 của Bộ Chính trị về
NQ/TW
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010 định hướng đến năm 2020
Quyết định số
: Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng
80/2005/QĐ-TTg
Chính phủ về Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng
Thông tư liên tịch : Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTTsố 03/2000
BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn
hóa – Thể thao và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư
Thông tư liên tịch : Thông

liên
tịch
số
04/2006/TTLT-BKHĐTsố 04/2006
UBTWMTTQVN-BTC ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tô quốc Việt Nam, Bộ Tài
chính hướng dẫn Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế
giám sát đầu tư của cộng đồng
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền văn
minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời
đại, các chế độ xã hội khác nhau với nội dung cơ bản: Dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân. Xét về mặt phạm vi, dân chủ bao quát toàn diện các lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ
giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công
dân với nhà nước, giữa các tổ chức và thể chế hiện hành, giữa các quốc gia với nhau
trong quan hệ quốc tế.
Dân chủ luôn là khát vọng và mục tiêu vươn tới của con người trong lịch sử
nhân loại; dân chủ cũng chính là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của quốc
gia; do đó tăng cường dân chủ là xu hướng phát triển tất yếu đối với nền chính trị
của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Là một thành tố của dân chủ chính trị, dân chủ ở cơ sở là thước đo cho việc
phát huy và đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Thực hiện
dân chủ ở cơ sở là giải quyết đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra: Mở rộng
dân chủ và phát huy cao độ quyền làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy

mạnh chiều sâu dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng chính là thuộc tính cơ bản của
nhà nước ta đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện dân chủ ở cơ sở, Đảng và Nhà nước ta
đã có những chính sách, chủ trương cụ thể, qua đó thể chế hóa thành pháp luật.
Nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở cơ sở, động viên
sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí, xây dựng chính quyền và các đoàn thể ở cấp xã trong sạch, vững mạnh, ngăn
chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần thực hiện


2

mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngày 18-021998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và
hoàn thiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây vừa là kết quả tất yếu của quá trình Đảng
lãnh đạo thực hiện dân chủ, vừa là bước đột phá để phát huy dân chủ ở cơ sở. Cụ
thể hóa các chủ trương của Đảng, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (ban hành kèm theo Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998, sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐCP ngày 07-7-2003). Việc ra đời của Quy chế đã có những tác động tích cực nhất
định trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, qua đó góp phần
quan trọng vào việc xây dựng chính quyền ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần giảm bớt tệ quan liêu, mệnh lệnh,
cửa quyền.
Kế thừa và phát huy các kết quả đã đạt được, ngày 20-4-2007, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số
34/2007/PL-UBTVQH11. Để cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh, Chính phủ và
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số
09/2008/NQLT-CP-UBMTTQVN ngày 17/4/2008 hướng dẫn thi hành các điều 11,
14, 16, 22, 26 của Pháp lệnh. Các văn bản đã đề cập đến những nội dung cần giải

trình trước nhân dân; những nội dung cần được nhân dân thảo luận và quyết định;
những nội dung cần lấy ý kiến của nhân dân trước khi được cơ quan có thẩm quyền
quyết định; những nội dung phải được nhân dân giám sát; trách nhiệm của Chính
phủ, cán bộ và công chức ở cấp xã; trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức, cá nhân
và những người có liên quan trong quá trình thi hành dân chủ ở cấp xã. Có thể thấy
rằng, so với các văn bản trước, nội dung quy định tại Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn đã có nhiều điểm tiến bộ về cả cách thức và phương thức thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng như các quy định về trách nhiệm của các
chủ thể trong việc đảm bảo thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn. Việc nâng Quy
chế thành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (năm 2007) là một điều
tất yếu, có tác dụng tích cực trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân.


3

Bên cạnh những văn kiện pháp lý kể trên, các quy định pháp luật về dân chủ
cơ sở ở Việt Nam thời gian qua đã có nhiều điểm mới, thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước tới vấn đề dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, hệ thống văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta vẫn còn một số
hạn chế nhất định.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII và Kết luận số 120-KL/TW (ngày
07/01/2016) của Bộ Chính trị Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả
việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đều khẳng định phải tiếp tục
đẩy mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới nhiều hình thức dân chủ
khác nhau và để đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân, việc hoàn thiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở cần được xem là một vấn đề trọng tâm. Tuy nhiên, đây
là một nhiệm vụ không hề đơn giản. Chính vì vậy, để góp phần giải quyết những
vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt
Nam, tác giả chọn vấn đề “Pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam” làm đề tài

nghiên cứu của luận văn với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về nội dung pháp luật
dân chủ ở cấp cơ sở, đồng thời đóng góp cho việc hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung và pháp luật về dân chủ cơ sở nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài
Dân chủ và dân chủ ở cơ sở là vấn đề có phạm vi nội dung khá rộng và được
chọn làm đề tài nghiên cứu của nhiều học giả cả trong và ngoài nước. Tính đến nay,
các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề dân chủ ở cơ sở là khá nhiều và đa
dạng về mức độ cũng như phạm vi, loại hình nghiên cứu. Để phục vụ cho việc
nghiên cứu của luận văn, sau khi đã tìm hiểu, tác giả khái quát về tình hình nghiên
cứu đề tài qua các công trình nghiên cứu khoa học như sau:
Sách:
+ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở
trên thế giới và ở Việt Nam do các tác giả Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Trịnh
Đức Thảo, Trương Hồ Hải là đồng chủ biên [61] đã trình bày các nội dung về


4

dân chủ trực tiếp và dân chủ cơ sở trên thế giới và những bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ nói chung và
dân chủ ở cơ sở nói riêng.
+ Về thi hành pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007
[44] do tác giả Nguyễn Văn Hiển chủ biên trình bày về pháp luật thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn; thực trạng thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007 và thực trạng thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trong một số lĩnh vực cụ thể, bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn.
+ Dân chủ và pháp luật dân chủ của tác giả Ngô Huy Cương [41], cuốn sách
chủ yếu trình bày những khảo cứu các quan điểm về dân chủ và pháp luật dân chủ.

Nội dung cuốn sách tập trung vào hai vấn đề dân chủ và pháp luật dân chủ, mối
quan hệ giữa giữa chúng trên cơ sở trình bày của tác giả về nhiều khía cạnh, tình
huống của các vấn đề cơ bản như dân chủ, tính dân chủ trong pháp luật, vấn đề xây
dựng dân chủ và pháp luật dân chủ…
+ Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của tác giả Nguyễn Hồng Chuyên [40].
Cuốn sách trình bày về cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; những yêu cầu của nhà
nước pháp quyền XHCN đối với thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã; nghiên
cứu, đánh giá về việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn một số
tỉnh, thành và đề xuất các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Luận văn, luận án:
+ Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Nghệ An hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Hùng Sơn [53] đã trình bày những vấn đề lý
luận về vấn đề dân chủ và cơ sở lý luận của việc thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn; trên cơ sở đó đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
của tỉnh Nghệ An, rút ra kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
có hiệu quả dân chủ ở xã, phường, thị trấn.


5

+ Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà
Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Vương Ngọc Thịnh [57] trình bày về cơ
sở lý luận của thực hiện dân chủ ở cơ sở, thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, qua đó đưa ra những
phương hướng và giải pháp thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
+ Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà

nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Tô Văn Châu [38]. Luận án
đã trình bày cơ sở lý luận của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam; quá trình hình thành, phát triển và thực
trạng của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước ở Việt Nam; quan điểm và giải pháp pháp hoàn thiện pháp luật về thực
hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Tạp chí:
Các bài viết được đăng trên các tạp chí có nội dung liên quan đến vấn đề dân chủ
và dân chủ ở cơ sở có số lượng khá nhiều, có thể kể đến một số bài viết như sau:
+ Dân chủ với pháp luật của tác giả Nguyễn Minh Đoan [42]. Bài viết chỉ ra
mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, qua đó cho thấy dân chủ và pháp luật có
mối quan hệ gắn bó với nhau, quy định lẫn nhau.
+ Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn của tác giả Chu Thị Vân Trang [58]. Bài viết đánh giá về quá
trình thực thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007: khó
khăn, vướng mắc, nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc và kiến nghị một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn năm 2007.
+ Đổi mới cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã của tác giả Nguyễn Hồng Chuyên [39]. Bài viết đánh
giá về thực trạng thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và nêu
một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả cơ chế này.


6

+ Dân chủ ở cơ sở và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị
Thạch [54]. Bài viết của tác giả đã chỉ ra những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở
và một số vấn đề lý luận về thực thi dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần tiếp tục
nghiên cứu, đồng thời bài viết cũng nêu ra một số định hướng nghiên cứu đối với

hai nội dung trên.
+ Thực hiện dân chủ trực tiếp theo Hiến pháp năm 2013 một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của đồng tác giả Vũ Công Giao và Nguyễn Minh Tuấn [43]. Bài viết đã
chỉ ra dân chủ trực tiếp và thực trạng dân chủ trực tiếp trên thế giới; nhận thức, thực
trạng, triển vọng và thách thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam; thực hiện dân chủ
theo Hiến pháp năm 2013 và một số ý kiến đề xuất.
+ Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và việc đổi mới chế độ bầu cử nhằm hoàn
thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam hiện nay của tác giả Thái Vĩnh Thắng
[55]. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế trong chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay;
trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bầu cử và tăng cường
quyền làm chủ của nhân dân.
+ Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân hiện
nay”của tác giả Trần Ngọc Thanh [56]. Bài viết trên cơ sở đánh giá những hạn chế
trong cơ chế hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, đã đưa kiến nghị một số giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, đảm bảo quyền
giám sát của nhân dân ở cấp cơ sở.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo các quyền dân chủ trực tiếp của
nhân dân của tác giả Đinh Thanh Hương [47]. Nội dung chính của bài viết là nêu ra
và phân tích một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo các quyền dân
chủ trực tiếp của nhân dân.
+ Một số kiến nghị, đề xuất tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
của tác giả Nguyễn Thanh Huyền [48]. Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận,
qua khảo sát, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật dân chủ
ở cơ sở, tác giả đưa ra một vài ý kiến đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
dân chủ cơ sở.
Các công trình nghiên cứu nêu trên là tiền đề để tác giả đi sâu nghiên cứu vấn
đề “Pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam”.


7


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của
Việt Nam dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật. Để
đạt được mục đích, luận văn nghiên cứu các quan điểm trong và ngoài nước, các
quy phạm pháp luật của Việt Nam về dân chủ ở cơ sở.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về góc độ nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung, hình thức pháp luật về dân chủ ở
cơ sở của Việt Nam dưới góc độ của khoa học lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, nội dung của luận văn chủ yếu hướng vào hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực này.
Về không gian: Nghiên cứu các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở đối
với cấp xã, phường thị trấn trên lãnh thổ Việt Nam.
Về thời gian: Nghiên cứu pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam từ sau
thời kỳ Đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ sau Chỉ thị số 30-CT-TW ngày 18/02/1998
của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đến
nay và trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước.
Về giới hạn nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dựa trên việc khai thác nội hàm
của khái niệm “cơ sở” ở khía cạnh - cơ sở để chỉ xã, phường, thị trấn mà không đề
cập đến các khía cạnh còn lại là các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của luận văn: Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam, từ đó đưa
ra những quan điểm, giải pháp hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật
trong lĩnh vực này.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề dân chủ tại cơ sở của các học giả
trước đó, đánh giá giá trị của các công trình nghiên cứu và chỉ ra các vấn đề mà luận
văn cần tiếp tục làm rõ, những điểm mới mà luận văn muốn hướng đến;

- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam: khái niệm,
bản chất, các hình thức của dân chủ, dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở cơ sở;


8

- Đánh giá về thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở thời gian qua ở Việt Nam.
Xác định rõ những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về dân chủ ở cơ sở;
- Luận chứng và đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu để thực hiện luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lênin, đồng thời sử dụng các phương
pháp logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, đối chiếu khi nghiên cứu pháp
luật về dân chủ ở cơ sở.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thu
thập và phân tích các tài liệu sẵn có từ các công trình nghiên cứu có liên quan đến
những nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống cơ sở lý luận về pháp luật
dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) của Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật
trong thời gian tới, vì vậy, luận văn có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn như sau:
- Làm rõ khái niệm, xác định các đặc điểm và bản chất, nội dung của pháp luật về
dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) của Việt Nam; làm rõ vai trò của pháp luật trong
lĩnh vực này đối với: sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động của nhà nước; thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân; sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội;
- Làm rõ các yếu tố tác động vào quá trình hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở (xã, phường, thị trấn) của Việt Nam;
- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật dân chủ ở Việt Nam,
đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong pháp

luật về dân chủ cơ sở;
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm phát huy thành tựu và khắc
phục hạn chế của pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bốc cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương và 10 tiết.


9

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời cổ đại. Theo tiếng Hi Lạp cổ “dân chủ” được
biểu đạt bởi từ demokratia, bao gồm 2 từ tạo thành là: demos có nghĩa là nhân dân và
kratos là cai trị; khi ghép 2 từ này lại thì demokratia có nghĩa là nhân dân cai trị. Còn
trong tiếng Anh người ta dùng từ democracy để nói về dân chủ, democracy có nghĩa là
chính thể dân chủ. Vậy, có thể diễn đạt lại một cách tổng quát, dân chủ nghĩa là cai trị
bởi nhân dân hay quyền lực của nhân dân hoặc quyền lực thuộc về nhân dân.
Còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dân chủ là:
…hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân
dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ
cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế
chính trị nhất định1.
Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Dân chủ được hiểu trong phạm vi rộng hẹp khác nhau, bởi bản thân dân chủ có
một lịch sử phát triển phức tạp, hơn nữa dân chủ lại được tiếp nhận trong những

điều kiện và hoàn cảnh xã hội khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau; “hay
có khi lại được đặt dưới sự nhìn nhận bởi các quan điểm cá nhân theo những thiên
hướng nhất định nhằm phục vụ lợi ích cho một nhóm nào đó” 2.
Theo nghĩa thông thường nhất, dân chủ được sử dụng để chỉ một dạng chính
quyền mà tại đó các quyết định được đưa ra theo khuynh hướng của đa số công dân
thông qua một quy trình bầu cử công bằng hoặc thông qua một quy trình lựa chọn
ngẫu nhiên. Nhân dân có thể trực tiếp cai trị bằng cách tự mình quyết định trong
một cuộc bỏ phiếu hoặc gián tiếp thông qua những người đại diện cho mình 3.
1

Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 1, Hội đồng quốc
gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr. 653.
2,3
Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 25.


10

Cách tiếp cận này khẳng định quyền lực đối với xã hội luôn luôn thuộc về
nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực đó theo cách thức lựa chọn của mình.
Dân chủ là một phạm trù mang tính lịch sử, mà bản chất và nội dung phụ thuộc
trực tiếp vào cơ sở vật chất của đời sống xã hội, như V.I.Lênin nhận xét thì bất cứ
nền dân chủ nào, xét đến cùng cũng đều phục vụ sản xuất và đều do quan hệ sản
xuất trong xã hội nhất định quyết định. Dân chủ cũng có mối quan hệ chặt chẽ với
tính chất của thể chế chính trị.4
Trong lịch sử, dân chủ luôn được xem xét trong mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân; và ngày nay, dân chủ còn được xem xét trong quan hệ giữa cá nhân công
dân với xã hội, cộng đồng, tổ chức và với cá nhân khác trên tất cả các phương diện:
kinh tế, dân sự, chính trị, văn hóa, xã hội.
Nếu xét theo trình độ phát triển của lịch sử nhân loại thì đến nay chúng ta có

các nền dân chủ là: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ được coi như “công cụ biết nói”, là
vật thuộc sở hữu của chủ nô, dân chủ dưới chế độ chiếm hữu nô lệ lúc này mới chỉ
dành cho số ít trong xã hội – giai cấp chủ nô. Ở xã hội phong kiến (quân chủ chuyên
chế), nông nô đã phần nào được giải phóng, được xem như con người và có những
quyền tự do, dân chủ đầu tiên (quyền được hưởng những sản phẩm do họ làm ra sau
khi đã nộp tô cho lãnh chúa); tuy nhiên về mặt thiết chế nhà nước, chế độ phong
kiến không có dân chủ mà chỉ có quân chủ, vua chúa được coi là thiên tử nắm
quyền sinh quyền sát trong tay, có vị trí tối thượng trong nhà nước phong kiến. Đến
chế độ tư bản chủ nghĩa (quân chủ lập hiến), tư tưởng dân chủ tư sản đã có nhiều
bước tiến so với các giai đoạn trước với sự khẳng định bình đẳng, bình quyền, tự do
cá nhân trong xã hội. Song đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, nhân dân lao động bị
áp bức, bóc lột ngày một nặng nề, dân chủ tư sản lúc này đã thể hiện rõ bản chất bóc
lột. Sau khi trải qua khủng hoảng, đồng thời chịu sức ép từ các cuộc đấu tranh của
nhân dân và các lực lượng tiến bộ, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã buộc phải mở rộng
một số quyền làm chủ cho người lao động. Dẫu vậy dân chủ tư sản vẫn mang những
4

Tô Văn Châu (2016), Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.35.


11

hạn chế nhất định, vì đó là nền dân chủ của giai cấp tư sản, cho giai cấp tư sản, vì
giai cấp tư sản chứ không phải nền dân chủ cho đa số nhân dân lao động. Chính vì
vậy, để khắc phục hạn chế của những nền dân chủ trước đó, dân chủ XHCN ra đời
như là một tất yếu để đáp ứng yêu cầu khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sau thắng lợi chính trị của
cách mạng vô sản, giai cấp vô sản và nhân dân lao động trở thành những người chủ

xã hội, nắm lấy chính quyền, quản lý và điều hành xã hội để thực hiện quyền làm
chủ của mình.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, dân chủ có một chất lượng mới do được phát
triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải
phóng và phát triển toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều kiện
phát triển tự do của tất cả mọi người”. Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực
chất là chế độ “do nhân dân tự quy định nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước, nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia
quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của
nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin khái quát
quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của nhân dân thành ba nội dung lớn là quyền
bầu cử, quyền tham gia quản lý các công việc của nhà nước và quyền bãi miễn5.
Bàn về khái niệm dân chủ Hồ Chí Minh lý giải một cách hết sức cô đọng, dễ
hiểu, dễ thực hiện và kiểm soát, Người nói: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân
làm chủ, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Dân là chủ
và dân làm chủ chính là cốt lõi trong khái niệm dân chủ của Hồ Chí Minh. Quan
điểm của Người thể hiện nội dung cơ bản mà nhân loại thừa nhận: dân chủ nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân. Người từng khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
5

Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản (1976), NXB Sự thật, Hà Nội, tr.51 trích trong tài liệu: “Vương Ngọc
Thịnh (2010), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.11.”.


12


Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 6.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của xã
hội. Trong thời kỳ đổi mới dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng về
nội dung; dân chủ cả trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ở các cấp từ trung
ương đến cơ sở; đến từng người dân bằng các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp. Dân chủ đang ngày càng được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội.
Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở cửa hội nhập với thế giới và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là nhằm xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở
Hiện nay, thuật ngữ cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp cụ thể như sau:
Theo nghĩa rộng, cơ sở là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ chức nên.
Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống,
lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Trong tính hiện thực bản
chất, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên có thể coi gia đình là một tế
bào nhỏ nhất của xã hội, đó là cơ sở của xã hội. Các cộng đồng dân cư với số lượng
người, số lượng gia đình nhiều ít khác nhau cùng sống trên một phạm vi lãnh thổ
nhất định có các tên gọi khác nhau như: buôn, làng, xóm, ấp, thôn, bản…là nơi diễn
ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân được coi là tổ chức cơ sở của
xã hội. Các cấp cuối cùng, nhỏ nhất của một hệ thống cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội đều được coi là tổ chức cơ sở.
6

Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.698 trích trong tài liệu: “Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính, Những vấn đề cơ
bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.274”.


13

Theo nghĩa rộng của từ này, có thể hiểu các tổ chức, cơ quan, đơn vị nhất
định nào đó có tư cách pháp nhân đầy đủ thì đều là tổ chức cơ sở.
“Đề cập đến các đơn vị cơ sở, Đảng ta xác định đó là: gia đình, làng, bản, xã,
phường, khu tập thể cơ quan, xí nghiệp, nông trường, trường học, đơn vị bộ đội…”7
Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính
quyền nhà nước – cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn); các pháp nhân công
quyền, các pháp nhân kinh tế, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu…Hệ thống
chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
với phân cấp hành chính thành bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã, trong đó,
cấp xã là cấp cuối cùng. Cấp xã còn được gọi là cấp cơ sở. Xã, phường, thị trấn là
nơi quần chúng nhân dân trực tiếp sinh sống và tổ chức sản xuất, là nơi trực tiếp
thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước, và cũng là
nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối, chính sách của Đảng trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan.
Dưới góc độ lý luận về nhà nước, cấp cơ sở (chính quyền cơ sở) là cấp thấp
nhất trong hệ thống cơ quan nhà nước bốn cấp ở nước ta. Và theo quan điểm trong
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn năm 2007 thì cơ sở được hiểu là
cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn). Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, cơ
sở được tiếp cận là cấp xã gọi chung cho đơn vị xã, phường, thị trấn trong hệ thống
chính trị ở nước ta.
“Cấp cơ sở ở nông thôn hiện nay chính là thôn, làng, ấp, bản – đó là những
đơn vị hành chính tự nhiên được hình thành bằng một cộng đồng dân cư chặt chẽ”8.
Cơ sở và chính quyền cơ sở có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị ở nước ta.


7

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trích trong tài liệu: “Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính, Những vấn
đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
tr.277”.
8
Đào Trí Úc, Nguyễn Công Giao, Trịnh Đức Thảo, Trương Hồ Hải (2014), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
tr.129.


14

Trong quá trình thực thi quyền lực bao gồm quyền lực chính trị của Đảng và
quyền lực nhà nước thì cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng. Bàn về vị trí, vai trò của
cơ sở, Bác Hồ từng chỉ ra rằng: Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng
của hành chính; cấp xã làm được thì mọi việc đều xong xuôi. Cấp cơ sở là nơi trực
tiếp làm việc với nhân dân, trực tiếp đón nhận và trực tiếp thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng, nhà nước và cấp trên tại cơ sở. Có thể
nói, mọi việc thành hay bại phần nhiều là do cấp cơ sở quyết định9.
Thực tiễn cho thấy: chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, của
tỉnh, huyện được thực hiện như thế nào? Hiệu quả thực hiện đến đâu? Phụ thuộc chủ
yếu vào việc nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện ở cơ sở. Do đó có thể khẳng
định cấp xã là cấp cơ sở nhưng có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong
cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước, mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của cộng đồng dân cư và với toàn thể địa bàn.
Dân chủ ở cơ sở không phải là hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện dân
chủ; và cho đến nay, dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức là dân chủ đại

diện và dân chủ trực tiếp. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến vị thế của người dân ở
cơ sở, trước hết và chủ yếu là các tầng lớp nhân dân lao động, những người lao
động chân tay và lao động trí óc đang hàng ngày làm ra của cải vật chất và giá trị
tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển. Dân chủ ở cơ sở phải đảm bảo
nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và được đặt trong một
phạm vi không gian xã hội cụ thể, trực tiếp là địa bàn xã, phường, thị trấn – nơi cư
trú và sinh hoạt mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó cho thấy, dân chủ ở cơ sở luôn gắn
liền với mỗi chủ thể trong phạm vi không gian xác định, gắn liền với các mặt của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở cơ sở. Bởi vậy, nhân
dân có quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của
mình ở cơ sở; quyền được bàn, quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ
quan có thẩm quyền quyết định và quyền kiểm tra, giám sát đối với tất cả những nội
9

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính,
Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội, tr.274.


15

dung dân biết, dân bàn, dân quyết định hoặc tham gia ý kiến. Về thực chất, dân chủ
ở cơ sở là sự cụ thể hóa khía cạnh “nhân dân làm chủ” trong phương châm “Đảng
lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Để nhân dân có thể thực hiện trên thực tế các quyền dân chủ của mình thì dân chủ
ở cấp cơ sở còn phải bao gồm các hình thức thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân,
nghĩa là phải có cơ chế để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và
quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình (dân chủ gián tiếp). Trong đó,
dân chủ trực tiếp giúp Đảng và nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp luật một cách
khoa học và thực tiễn, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật

thiết giữa chính quyền với nhân dân. Còn dân chủ gián tiếp hiện được xem là hình thức
quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong điều kiện xã hội ngày
càng phát triển và các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng.
Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu dài và
thường xuyên của Đảng và nhà nước. Mỗi bước phát triển của dân chủ phải được
ghi nhận bởi các quy định của pháp luật tương ứng với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Dân chủ phải gắn liền với pháp luật. Song phát huy và mở rộng dân chủ phải phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán của
mỗi cộng đồng, dân chủ phải gắn liền với kỷ cương 10.
Cấp cơ sở là nơi kiểm nghiệm rõ nhất phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chính
là quy trình phản ánh quá trình từ nhận thức đến hành động; qua kiểm tra, đánh giá
kết quả hành động, rồi tiếp tục nhận thức và hành động với kết quả cao hơn.
“Dân biết” ở đây được hiểu là quyền được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ
và trung thực. Qua sự nhận biết thông tin, dân biết được quyền và nghĩa vụ của
mình, từ đó mới hiểu, mới có cơ sở để “bàn”, để “làm” và để “kiểm tra”. Do vậy,
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị cơ sở là phải thông báo
thường xuyên, đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước;
những vấn đề kinh tế, xã hội của địa phương một cách sâu rộng trong nhân dân.
10

Vương Ngọc Thịnh (2010), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.13-14.


16

“Dân bàn” - là một khái niệm để chỉ quyền tham gia ý kiến của nhân dân, bàn
để đi đến những quyết định trực tiếp; bàn để thực hiện; bàn để tham gia ý kiến, để
từ đó cơ quan đại diện quyết định.

“Dân làm” – dân là chủ thể trực tiếp của quá trình thực hiện, khi được biết,
được bàn, được tham gia ý kiến, thì việc thực hiện sẽ thuận lợi. Tư tưởng là cái gốc
của hành động; tư tưởng thông, hành động cách mạng của nhân dân sẽ được đẩy lên
mức cao; dân hồ hởi, phấn khởi thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước sẽ trở thành phong trào thi đua sâu rộng và có hiệu quả trong nhân dân.
“Dân kiểm tra” – đây là vấn đề thuộc bản chất của nền dân chủ XHCN, nhân
dân có quyền kiểm tra, thanh tra hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước trong
khuôn khổ pháp luật; từ công tác kiểm tra để có kiến nghị chấn chỉnh, bổ sung…với
mục đích là làm cho hoạt động của các cơ quan này lành mạnh hơn, dân chủ và hiệu
quả hơn. 11
Cả bốn khâu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một quy trình
“kín”, có mối liên hệ chặt chẽ, thúc đẩy, tác động lẫn nhau nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Nhà nước là cơ quan đại diện cho quyền làm chủ của
nhân dân trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; song nhà nước không thể hiểu hết được
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân ở các vùng, miền, địa phương có những đặc
điểm, điều kiện kinh tế - xã hội, địa lý, tập quán khác nhau. Do đó phát huy và mở
rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân vừa là cách thức để nhân dân thực hiện quyền
tham gia quản lý nhà nước vừa là cuộc vận động phát huy tính sáng tạo, trí tuệ của
muôn người trong xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và nhà nước. Đồng thời đó cũng là điều kiện tốt nhất để khắc phục bệnh quan liêu
và chống những hiện tượng, hành vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy nhà nước.
Từ những phân tích trên có thể khái quát dân chủ ở cơ sở là biểu hiện cụ thể
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà
11

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính,
Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội, tr. 273.



17

nước thuộc về nhân dân tại xã, phường, thị trấn trên cơ sở thực hiện quyền được
biết, quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát đối với những nội dung có
liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của người dân ở xã, phường, thị
trấn bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của
pháp luật.
1.1.3. Các hình thức thực hiện của dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và
thông qua các cơ quan khác của nhà nước”. Việc bổ sung dân chủ trực tiếp bên
cạnh việc thực hiện dân chủ đại diện (hay còn gọi là dân chủ gián tiếp) là một nhận
thức mới phù hợp với quy luật phát triển của xã hội gắn với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay.
Như vậy, dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay được thực hiện dưới hai hình thức
là dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, đó chính là những cách nhân dân thể hiện
ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của mình. Dân chủ trực tiếp thể hiện sự tham gia
trực tiếp của người dân vào các chính sách và quản lý của nhà nước, nhất là ở các
cấp địa phương, thông qua các cuộc họp và các hình thức khác để nêu ý kiến với
các cấp có thẩm quyền của nhà nước ở cơ sở. Các hình thức dân chủ trực tiếp phổ
thông nhất hiện nay bao gồm: bầu cử trực tiếp, trưng cầu ý dân, diễn đàn nhân dân
(được mở ra trên báo chí, truyền hình…), đối thoại với các quan chức nhà nước…Ở
nước ta, dân chủ trực tiếp thường đi đôi với quá trình phân cấp, phân công trong quá
trình quản lý nhà nước. Để tạo điều kiện cho việc từng bước mở rộng dân chủ trực
tiếp, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ
sở, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý
xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện
dân chủ hình thức”12.


12

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Hà Nội.


18

Hiện nay tại cơ sở, việc thực hiện dân chủ trực tiếp được thực hiện thông qua
hoạt động bầu cử (bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, bầu cử
Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố); sự tham gia giám sát của nhân dân đối với các
công việc của địa phương; các hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong
những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đã có những
cố gắng nhằm phát triển hình thức dân chủ trực tiếp như thí điểm trực tiếp bầu lãnh
đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo Đảng cơ sở, bầu các chức danh quản lý cấp
cơ sở, xin ý kiến nhân dân về quy hoạch thủ đô…Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng
lại ở những lần chỉ đạo theo từng loại việc cụ thể mà quan trọng hơn là dân chủ trực
tiếp phải được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật trong bộ luật về cơ chế
hoạt động, hình thức biểu đạt và các điều kiện hỗ trợ làm cho người dân muốn và
được thể hiện thường xuyên ý chí, nguyện vọng của mình trong bầu không khí dân
chủ lành mạnh. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân tham gia quản lý nhà nước
thông qua các đại diện được bầu cử, thay mặt cho cử tri trong việc thực hiện chức
năng hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội13.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau
vì đều là hình thức của chế độ dân chủ tập trung, mang tính quần chúng rộng rãi
nhưng lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức của người dân. Dù là phương thức chủ
yếu của nền dân chủ hiện đại, song dân chủ đại diện không triệt tiêu hoàn toàn dân
chủ trực tiếp, bởi mỗi phương thức thực hiện dân chủ lại có những ưu điểm và hạn
chế mà phương thức kia không thể nào thay thế hoàn toàn.
Thực tiễn cách mạng XHCN ở nước ta, Đảng và nhà nước ta luôn đặc biệt coi

trọng việc thực hiện dân chủ XHCN, không ngừng hoàn thiện cơ chế thực hiện dân
chủ đại diện, các tầng lớp nhân dân đã thực sự lựa chọn những người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của mình thông qua lá phiếu bầu chọn; tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, HĐND các cấp ngày càng được đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng
và hiệu quả, các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng được đổi mới về tổ chức và
phương thức hoạt động, gắn bó mật thiết với nhân dân, là một kênh thông tin quan
13

Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Thực hiện dân chủ trực tiếp theo Hiến pháp năm 2013 một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Luật học, (09).


19

trọng để nhân dân bày tỏ ý nguyện của mình vào việc tham gia quản lý, giám sát bộ
máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức. Hình thức dân chủ trực tiếp ngày càng
được quan tâm hoàn thiện hơn nữa để trở thành một hình thức quan trọng và chủ
yếu trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Đặc biệt, dân chủ trực
tiếp ở cơ sở phải được tăng cường mở rộng và phát huy để mọi người dân vừa có
quyền giám sát công việc quản lý của nhà nước, vừa có quyền trực tiếp làm chủ từ
cấp cơ sở.
1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở của Việt Nam
Dân chủ là quá trình vận động liên tục thông qua mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân. Mối quan hệ đó đòi hỏi phải được quy định và điều chỉnh bằng pháp
luật. Qua đó cho thấy dân chủ có mối quan hệ sâu xa với pháp luật. Bản thân dân
chủ là một phạm trù pháp lý có giới hạn được pháp luật quy định. Quá trình mở
rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lại đồng thời là quá trình luật
hóa các quyền tự do dân chủ. Dân chủ và pháp luật ràng buộc và chi phối lẫn nhau.
Pháp luật phản ánh mức độ phát triển của nền dân chủ. Dân chủ là thước đo
giá trị của pháp luật. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước; bởi

vì pháp luật là công cụ quản lý chủ yếu, phổ biến và hiệu lực nhất của quản lý nhà
nước. Do đó, pháp luật có vai trò quy định các hình thức dân chủ để khi thực hiện
dân chủ không bị biến dạng, không bị vi phạm, tạo ra khuôn khổ cần thiết cho quá
trình vận động dân chủ. Đồng thời pháp luật là hành lang pháp lý, là môi trường
pháp lý, cơ sở cho việc phát huy và mở rộng dân chủ14.
Quan điểm của học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích
một cách đúng đắn và khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ
của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh và
tồn tại, phát triển trong một xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa mang tính giai cấp lại
thể hiện tính xã hội. Mức độ đậm, nhạt của hai tính giai cấp và xã hội của pháp luật
rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo
đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị của mỗi nước ở mỗi thời điểm
lịch sử nhất định.
14

Nguyễn Minh Đoan (2007), “Dân chủ với pháp luật”, Nhà nước & pháp luật, (10), tr. 3-11.


20

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của thượng
tầng chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Cả
hai hiện tượng nhà nước và pháp luật đều có chung nguồn gốc phát sinh và phát
triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó
chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp
luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, luôn phản
ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước
và đảm bảo cho quyền đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội.

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo
nhân dân lao động, là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ
rộng rãi cho nhân dân lao động. Nó khác biệt căn bản về chất so với các kiểu pháp
luật trước đó như pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do nhà nước xã
hội chủ nghĩa ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng thực hiện.
Pháp luật giữ vai trò quan trọng, là phương tiện để nhân dân phát huy quyền
làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội
trong đó có các quan hệ giữa cá nhân công dân với nhà nước, giữa công dân với
nhau trong đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền lực của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội. Dân chủ là
thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường hiệu lực và phát huy vai
trò của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội luôn gắn liền với quá
trình thực hiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải được thể chế
hóa thành pháp luật. Những quyền tự do dân chủ của công dân phải được quy định


21

cụ thể trong pháp luật, nhà nước phải đảm bảo cho công dân thực hiện các quyền đó
trong khuôn khổ luật định, đồng thời pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ tương
ứng mà công dân phải thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội.
Pháp luật về dân chủ là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa nhà nước,
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế và công dân nhằm
đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội. Do đó pháp luật về dân chủ có phạm vi và nội dung điều chỉnh rất
rộng lớn. Pháp luật về dân chủ ở cơ sở là một nội dung rất quan trọng của pháp luật
về dân chủ, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa
nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội tổ chức kinh tế và công
dân nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở thực chất là hệ thống các quy định pháp luật cụ
thể về các quyền và cách thức bảo đảm cho quần chúng nhân dân tại địa phương
thực hiện quyền làm chủ trong thực tiễn. Quần chúng nhân dân thực hiện dân chủ ở
cơ sở qua hai hình thức chủ yếu là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta ra đời và hoàn thiện sau Chỉ thị số 30CT/TW ngày 18/02/1998 Của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, đó là một bước tiến mới của quá trình mở rộng và phát huy dân chủ
của nhân dân. Thực hiện Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/7/1998 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ đã
ban hành các Nghị định: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, Nghị định số
71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998, Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13/02/1999,
Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003; theo đó Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan, Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước,
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời. Sau chín năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã,
Quy chế này được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI nâng lên thành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ngày 20/4/2007. Từ thực tiễn lập pháp trên,


×