1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng và đề
cao các quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ
XHCN. Giữa thực hiện dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có
mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Dân chủ và thực hiện dân chủ là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa,
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN. “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước” [21, tr. 47]. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN là sự bảo đảm có tính chất nền tảng cho việc thực hiện dân chủ; bởi lẽ,
chức năng của Nhà nước pháp quyền là phục vụ nhân dân, giữ mối liên hệ
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Hơn nữa, chỉ Nhà nước pháp quyền XHCN mới có cơ chế, các biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vô trách
nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể khẳng định
rằng, một nền dân chủ thực sự với việc phát huy đầy đủ các quyền dân chủ
của nhân dân chỉ có thể có được trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN.
Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo thực hiện dân chủ ở nước ta hiện
nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng, mà
còn được thể chế hóa và đảm bảo thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống
pháp luật của Nhà nước. Sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số
03-CT/TW, ngày 18/02/1998 về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở và các văn bản liên quan khác, Nhà nước đã xây dựng, ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật (QPPL) để triển khai quan điểm chỉ đạo của Đảng về
2
vấn đề này, như Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/7/2003
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và hiện nay là Pháp lệnh Thực hiên
dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều
giải pháp nhằm không ngừng phát huy dân chủ; đưa dân chủ ở cấp xã, thực sự
đi vào các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở các xã, phường, thị trấn
trên phạm vi cả nước. Quá trình thực hiện pháp luật (THPL) về dân chủ ở cấp
xã đã và đang làm chuyển biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội về
vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, phát huy, mạnh mẽ quyền
dân chủ của các tầng lớp nhân dân; góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác
xây dựng Đảng, chính quyền các cấp, nhất là cấp xã trong sạch, vững mạnh,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC), xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc THPL về dân chủ
ở cấp xã trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa phương nói riêng còn
bộc lộ những hạn chế, nhược điểm nhất định do những nguyên nhân khác
nhau. “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn
bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội” [21, tr. 171]. Có nơi, có lúc quyền làm chủ của nhân
dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy tối đa. Một bộ phận CBCC các
cấp, trong đó có cấp xã, bị thoái hóa, biến chất trước những cám dỗ vật chất,
quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu người dân. Ở một số địa phương, cấp ủy,
chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và đội ngũ CBCC cấp xã chưa
thực sự làm tròn vai trò, trách nhiệm của mình trong tổ chức THPL về dân
chủ ở cấp xã. Đây là một trong những nguyên nhân phát sinh tình trạng người
dân khiếu kiện, tố cáo vượt cấp kéo dài khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ
chưa được giải quyết thỏa đáng, dứt điểm ngay từ cấp xã.
3
Thực trạng trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục
triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cấp xã; tác động tiêu
cực tới tiến trình cải cách hành chính, xây dựng chính quyền cấp xã trong
sạch, vững mạnh; làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy hành chính nhà nước; từ đó, cản trở việc thực hiện dân chủ,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ những lý do trên cho thấy, việc củng cố, phát triển các vấn đề lý luận
về THPL về dân chủ ở cấp xã, đánh giá thực trạng, nguyên nhân để từ đó, đề ra
các giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một vấn đề có tầm quan trọng và mang
tính cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luận án đề xuất các quan điểm
và giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc THPL về dân chủ
ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bao gồm: khái
niệm, đặc trưng, hình thức, nội dung, các điều kiện bảo đảm THPL theo yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; những yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN đối với THPL về dân chủ ở cấp xã.
Hai là, nghiên cứu, khảo sát, điều tra xã hội học (ĐTXHH) về THPL về
dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong
cả nước; từ đó làm sáng tỏ, đánh giá những kết quả đạt dược, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam trong
những năm qua.
4
Ba là, đề xuất, luận giải quan điểm và giải pháp bảo đảm THPL về dân
chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam dưới góc độ khoa học Lý luận và Lịch sử nhà nước
và pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
+ Về không gian: Luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng THPL về
dân chủ ở cấp xã trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở cả ba
miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên,
Quảng Ninh, Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình,
Quảng Nam, Bình Định, Đắl Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà Mau; các thành phố: Hải Phòng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ.
+ Về thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng
THPL về dân chủ ở cấp xã từ năm 1998 đến nay (2014).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước và pháp luật, về vai trò của quần chúng nhân dân, về dân chủ nói
chung; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về dân chủ và thực hiện dân
chủ ở cấp xã nói riêng. Bên cạnh đó, luận án cũng kế thừa và tiếp thu quan
điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền
XHCN và THPL về dân chủ ở cấp xã của các nhà nghiên cứu đi trước.
- Phương pháp nghiên cứu của luận án: Để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân
tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, thống kê - so sánh và ĐTXHH. Các
phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng cụ thể trong các chương của
luận án như sau:
5
+ Để nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ
thể, phương pháp logic để chỉ ra được những vấn đề lý luận, thực tiễn đã được
nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án; đồng thời xác định được những
vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu của luận án.
+ Chương 2 của luận án đã sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,
lịch sử - cụ thể, phương pháp logic và so sánh để nghiên cứu và làm sáng tỏ
cơ sở lý luận của luận án; nghiên cứu vấn đề THPL về dân chủ ở cấp xã ở một
số địa phương của Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, từ đó
chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
+ Chương 3 của luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học kết
hợp với phương pháp so sánh - thống kê, phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể
để phân tích, đánh giá lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật dân chủ ở
cấp xã ở Việt Nam; đồng thời, đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từ năm 1998 đến nay.
+ Chương 4 của luận án sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp,
lịch sử - cụ thể, logic, để phân tích và làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp
nhằm đảm bảo THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp khoa học mới của luận án
- Luận án đã đưa ra được khái niệm và xác định được đặc điểm của chủ
thể, nội dung, các hình thức THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phân tích và chỉ ra được nội dung của mối quan hệ giữa THPL về dân
chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối với
THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam.
- Trên cơ sở kết quả ĐTXHH về tình hình THPL về dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố trong cả nước, luận án đã chỉ ra và luận giải có
sức thuyết phục những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng THPL
6
về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam từ năm 1998 đến nay.
- Luận án đề xuất được sáu quan điểm và bốn nhóm giải pháp toàn
diện, có tính khả thi nhằm bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về phương diện lý luận, kết quả và đóng góp mới của luận án góp
phần làm sáng tỏ và phong phú thêm những vấn đề lý luận về THPL nói
chung, về THPH trên một lĩnh vực cụ thể nói riêng, về THPL về dân chủ ở
cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về phương diện thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận Nhà nước
và pháp luật trong phạm vi các vấn đề có liên quan. Các kết quả nghiên cứu
của luận án có thể được các cơ quan hữu quan của các tỉnh, thành phố sử
dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây dựng các giải
pháp, biện pháp cụ thể để bảo đảm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả THPL về
dân chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Dân chủ là một chủ đề rất lớn trong đời sống chính trị, đời sống nhà
nước và xã hội tại hầu khắp các nước khác nhau trên thế giới. Trong phần này
tác giả không đề cập, phân tích nội dung của những công trình nghiên cứu về
dân chủ nói chung, mà chỉ tập trung khái quát những nội dung cơ bản của một
số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về thực hiện pháp luật và
về dân chủ ở cơ sở/địa phương.
1.1.1.1. Về thực hiện pháp luật
THPL là một trong những nội dung quan trọng của lý luận về nhà nước
và pháp luật; do đó, trong các công trình có tính chất giáo khoa lưu hành tại
các cơ sở đào tạo luật ở ngoài nước luôn dành sự quan tâm cho chủ đề này.
Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu:
- Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Liên Xô, Lý luận về nhà
nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Sách pháp
lý, Mátxcơva, 1974 (tiếng Nga) [122]. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả
đã dành chương XIII- Áp dụng quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa [122, tr.
558 - tr. 568] để đề cập, phân tích nội dung các hình thức THPL; theo đó, các
hình thức THPL thực chất là những hành vi pháp luật được các chủ thể pháp
luật thực hiện, bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức
THPL đặc biệt, là giai đoạn đặc biệt của THPL. Ngoài ra, cuốn sách còn đưa
ra những yêu cầu đối với văn bản áp dụng pháp luật, trong văn bản phải chỉ
rõ: cơ quan, thời gian ban hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết
vấn đề gì, căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý để ra quyết định, người ký văn
bản; các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật
8
- Lý luận nhà nước và pháp luật (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ
sung), Nxb. Pháp lý, Mátxcơva, 2001 (tiếng Nga) [123]. Cuốn sách đã dành
chuyên đề 20 để bàn về áp dụng pháp luật [123, tr. 453 - tr. 477], trong đó có
nội dung khái quát về THPL. Theo quan niệm của các tác giả, THPL là việc
hiện thực hóa những yêu cầu của pháp luật bằng những hành động thực tế của
các chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). THPL luôn gắn với hành vi
pháp luật của con người, được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau: theo
tính chất tác động của các chủ thể, mức độ tính tích cực và định hướng của
chủ thể; THPL được chia thành bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu nói trên, các tác giả đã tập
trung giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về THPL và các hình thức
THPL. Tuy được trình bày, diễn đạt theo cách khác nhau, nhưng những triết
lý căn bản về THPL và áp dụng pháp luật là khá tương đồng, như đều cho
rằng có bốn hình thức THPL là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật Những nội dung này có giá trị tham
khảo cho tác giả khi viết luận án ở chừng mực vấn đề có liên quan.
1.1.1.2. Về dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở
Vấn đề dân chủ được các học giả nước ngoài nghiên cứu khá nhiều,
song vấn đề dân chủ ở địa phương, dân chủ ở cơ sở ở một số quốc gia mà tác
giả tham khảo lại ít được quan tâm nghiên cứu. Nguyên nhân của tình trạng
này là do trình độ nhận thức về dân chủ, sự phát triển của nền dân chủ, do
truyền thống lịch sử, quy định của pháp luật, do nhu cầu thực tiễn đặt ra đối
với mỗi quốc gia qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong phạm
vi những tài liệu gắn với chủ đề của luận án cần phải kể đến các công trình
nghiên cứu sau đây:
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (thuộc Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô), Xây dựng nhà nước xôviết và pháp luật, Nxb. Tư
tưởng, Mátxcơva, 1984 (tiếng Nga) [118]. Nội dung cuốn sách, bên cạnh việc
luận bàn về nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước, hình thức chính thể, hình
9
thức cấu trúc, chế độ chính trị ; các tác giả đã dành chương IX- Nhà nước và
cá nhân [118, tr. 174 - tr. 200] để trình bày khái quát về các quyền tự do, dân
chủ của công dân được quy định trong Hiến pháp Liên Xô năm 1977, chia các
quyền công dân thành các nhóm: quyền kinh tế - xã hội, các quyền và tự do
chính trị, các quyền và tự do cá nhân. Nhóm những quyền và tự do chính trị
gồm có: quyền tham gia của công dân vào quản lý nhà nước và xã hội, thảo
luận và ban hành luật và các quyết định có ý nghĩa nhà nước và địa phương;
quyền bầu cử và ứng cử; tham gia vào các tổ chức xã hội, quyền gửi các kiến
nghị, phê bình các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội; tự do ngôn luận, tự do
báo chí, hội họp, mít tinh, tuần hành và biểu tình [118, tr. 189]. Đồng thời,
các tác giả coi dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước; dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ có tính quy luật giữa nhân dân và
quyền lực nhà nước. Nguyên tắc dân chủ trước hết thể hiện ở nội dung: tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự tham gia rộng rãi, tích cực
và thực tế của tất cả quần chúng nhân dân lao động vào quản lý các công việc
nhà nước và xã hội. Việc thực hiện này thông qua dân chủ gián tiếp (Xôviết
đại biểu nhân dân) và trực tiếp thông qua việc nhân dân trực tiếp thảo luận các
vấn đề thuộc đời sống nhà nước, thông qua trưng cầu ý dân, hoạt động của
các tổ chức xã hội, tập thể lao động, sử dụng dư luận xã hội [118, tr. 233].
- Luật Hành chính Xôviết, Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1977 [126].
Cuốn sách tuy không trực tiếp bàn về vấn đề dân chủ hay dân chủ ở cơ sở,
nhưng khi viết về pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước, về
các hình thức, phương pháp bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà
nước, các tác giả đã coi việc kiểm tra đảng, giám sát hoạt động của các cơ
quan quyền lực nhà nước từ phía các tổ chức, đoàn thể xã hội là những
phương thức bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nước và bảo đảm
các quyền, tự do dân chủ của công dân; là sự thể hiện của vấn đề thực hiện
dân chủ trong đời sống xã hội; đồng thời, các tác giả cuốn sách cũng phân tích
khá kỹ về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhân dân, đặc biệt là những tổ
chức thanh tra nhân dân được thành lập ở các cấp hành chính, đơn vị sự
10
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại Thanh tra nhân dân là cơ quan của tổ
chức xã hội, do nhân dân trực tiếp bầu nên, thay mặt nhân dân kiểm tra hoạt
động của chính quyền các cấp, hoạt động của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị sự
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, trang trại [126, tr. 272 - tr. 275].
- O. E. Kutaphin, K.Ph. Seremet, Thẩm quyền của Xôviết địa phương,
Nxb. Sách pháp lý, Mátxcơva, 1986 (tiếng Nga) [122]. Công trình này tuy
không có những nội dung chuyên biệt về dân chủ ở địa phương hay dân chủ
cơ sở, nhưng khi nghiên cứu về thẩm quyền của Xôviết đại biểu nhân dân địa
phương trên từng lĩnh vực, các tác giả đều đề cập tới quyền tự quyết của từng
cấp chính quyền Xôviết (tỉnh, vùng, huyện, xã, thôn), trong đó có những nội
dung đề cập tới quyền tham gia, hình thức tham gia của công dân (nông trang
viên) vào việc đưa ra các quyết định của nông trường, của các Xôviết đại biểu
nhân dân địa phương ở cấp xã, thôn. Khi liệt kê thẩm quyền của Xôviết đại
biểu nhân dân có quy định chung rằng mọi quyết định của chính quyền đều
phải được phổ biến tới nhân dân địa phương, báo cáo của chính quyền trước
nhân dân thông qua việc phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Xôviết đại biểu nhân dân [122, tr. 8].
- B. P. Cerebrennikov, Quản lý địa phương và tự quản ở Pháp, Nxb.
Cao đẳng, Minxk, 1981 (tiếng Nga) [127]. Cuốn sách tập trung nghiên cứu
khái niệm, các đặc trưng của quản lý địa phương và tự quản ở Pháp trong sự
so sánh với tự quản ở một số quốc gia khác (Mỹ, Anh, Canada ); sự điều
chỉnh của Hiến pháp về tự quản địa phương; quản lý công xã và tự quản; địa
vị pháp lý của công xã và một số vấn đề khác có liên quan tới tự quản địa
phương. So sánh với chế độ tự quản của các quốc gia khác như Anh, Mỹ,
Italia thì chế độ tự quản của Pháp còn nhiều hạn chế bởi những quy định của
chính quyền trung ương về các quyền tự quyết của cộng đồng lãnh thổ địa
phương. Theo tác giả, ở Pháp, việc thiết lập một nền hành pháp mạnh, tổ chức
quyền lực theo truyền thống tập trung nên quyền tự quản, tự quyết của các
cộng đồng địa phương còn nhiều hạn chế.
11
- Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và
các cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết
in trong cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011 [75]. Trong bài viết
tác giả bàn về sự hình thành của tư tưởng phân quyền theo chiều dọc, nghĩa là
phân quyền cho các đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương. Thực chất phân
quyền là sự thể hiện của mô hình quản lý phi tập trung, là sự biểu hiện của
dân chủ, nếu không có dân chủ thì không có phân quyền theo chiều dọc. Theo
tác giả, việc thừa nhận sự tự quản của cộng đồng lãnh thổ địa phương ở nước
Pháp trải qua một qua trình rất lâu dài, phức tạp, là kết quả của sự đấu tranh
giữa phái ủng hộ chế độ tập quyền và phái ủng hộ chế độ phân quyền; đồng
thời, tác giả đề cập tới hình thức thực hiện hoạt động tự quản địa phương
thông qua hình thức trưng cầu ý dân hay “dân chủ ở cơ sở” - đỉnh cao của chế
độ phân quyền [75, tr. 292].
- Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực
tiếp: Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch tiếng Việt: GS.TSKH. Đào Trí
Úc - TS. Vũ Công Giao), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014 [116].
Cuốn sách này được biên dịch và xuất bản bằng tiếng Việt bởi Viện Chính
sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại sử quán Na
Uy tại Hà Nội và sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành chính thuộc
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung cuốn sách cung cấp các
khuyến nghị và bài học thực tiễn về việc vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả
các vùng trên thế giới; đánh giá điển hình ở 06 quốc gia, gồm Hungary, Thụy
Sĩ, Hoa Kỳ (bang Oregan), Uruguay và Venezuela với các hoạt động trưng
cầu dân ý, sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi
miễn [116].
- Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê
phán), New Haven: Yale University Press. USA, 1991 [128]. Trong cuốn
sách này, từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định quyền lực mà nhà
12
nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; bởi vậy, để thực thi
một nền dân chủ đòi hỏi phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong
xã hội, phải được cụ thể hóa và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy nhiên,
mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, thực thi như thế nào còn phụ thuộc vào
các điều kiện về kinh tế, truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia khác
nhau. Khi làm rõ khái niệm dân chủ, tác giả khẳng định rằng, cho đến nay,
chưa có quốc gia nào đáp ứng đầy đủ các lý tưởng dân chủ. Để đạt tới một
nền dân chủ lý tưởng, theo tác giả cuốn sách, phải đáp ứng năm tiêu chí sau:
1) Sự tham gia hiệu quả: mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để
thể hiện nguyện vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công
cộng, thể hiện các lý do cho một kết quả tốt đẹp hơn; 2) Các công dân phải
được bình đẳng, công bằng trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; 3) Sự hiểu
biết sâu sắc: các công dân phải được hưởng những cơ hội phong phú và bình
đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ; 4)
Kiểm soát các chương trình nghị sự: các công dân phải có cơ hội quyết định
những vấn đề chính trị thực sự toàn diện; 5) Tính toàn diện: tính bình đẳng
phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Mọi người đều phải có cổ phần
hợp pháp trong quá trình chính trị.
- Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and
Fernando Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các
nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55 [129].
Trong bài viết, thông qua việc khảo sát thực chứng về dân chủ tại 135 nước
trên thế giới, các tác giả đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình quân đầu
người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững. Các
tác giả cho rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế là một trong những mối đe
dọa phổ biến nhất đối với sự ổn định, phát triển nền dân chủ. Ngược lại, tăng
trưởng kinh tế sẽ luôn có lợi cho sự sống còn của nền dân chủ. Trên thực tế,
nhiều nền kinh tế phát triển đã góp phần giúp cho nền dân chủ có thể tồn tại,
phát triển bền vững hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển kém.
13
- Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community
of democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of
Democracy, May, 2000, p. 9 [130]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
đã đề cập tới nhiều tiêu chuẩn của dân chủ, cho thấy dân chủ bao trùm lên tất
cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu của việc
xây dựng dân chủ không chỉ dừng lại ở cách hành xử về chính trị, mà còn làm
cho dân chủ trở thành yếu tố định hướng hành vi của con người.
- Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and
prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển vọng
trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 2007 [131]. Từ cách tiếp cận
lịch sử về dân chủ, tác giả xem xét, đánh giá triển vọng dân chủ trong thế giới
ngày nay, làm rõ khái niệm dân chủ và cho thấy tiềm năng tích cực trong xu
hướng dân chủ hóa, sự phát triển dân chủ trong những điều kiện khác nhau ở
các nước có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số tài liệu, công trình nghiên cứu của các
tác giả khác, như: A. B. Agapốp, Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb.
Iurait, 2009 (tiếng Nga) [117]; Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac,
Luật Hành chính Nga (tái bản lần thứ năm), Nxb. Exkimô, Mátxcơva, 2010
(tiếng Nga) [120]; G.V. Atamanchuc, Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb.
Omega, Mátxcơva, 2004 (tiếng Nga) [119]; Matinne Lombard và Gille
Dumont, Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2007 [57] Các công trình trên chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề lý
luận về quản lý nhà nước, dân chủ được xem xét như là một trong những nhân
tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước và phương thức
quản lý nhà nước, đề cập tới các hình thức dân chủ: dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp, đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa phương ở
Liên bang Nga và ở Cộng hòa Pháp.
Tóm lại, trong các cuốn sách, công trình nghiên cứu nói trên, các tác
giả nước ngoài đã luận bàn, đề cập tương đối đa dạng vấn đề dân chủ, dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở, dân chủ ở địa phương , trong đó
14
nổi lên sự khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của nhân dân, một
nền dân chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội và phải
được bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Một số công trình bàn sâu về các tiêu
chí của một nền dân chủ, về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với việc
thực thi dân chủ, đánh giá về triển vọng của một nền dân chủ trong thế giới
ngày nay. Những công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả nước ngoài là
nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả luận án có thể tham khảo, so
sánh về mặt lý luận vấn đề thực hiện pháp luật khi triển khai viết luận án.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chủ đề THPL, dân chủ và dân chủ ở cấp xã, vấn đề THPL về dân chủ ở
cấp xã, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là những chủ
đề/vấn đề được bàn luận sôi nổi trong nhiều công trình khoa học, cuốn sách,
bài báo khoa học từ những phương diện, góc độ khác nhau. Căn cứ vào tên đề
tài luận án, có thể khái quát tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
1.1.2.1. Vấn đề thực hiện pháp luật nói chung
Chủ đề THPL là một trong những nội dung quan trọng của khoa học Lý
luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, được đề cập, bàn luận chủ yếu trong
các cuốn sách, giáo trình của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta, tiêu biểu như:
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật (tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013
[105]. Các tác giả cuốn giáo trình này đã dành chương X- Thực hiện pháp
luật, áp dụng pháp luật và giải thích pháp luật [105, tr. 181 - tr. 204] để luận
bàn về THPL và áp dụng pháp luật. Theo các tác giả, THPL là hoạt động có
mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật. THPL là hành vi thực tế
hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy
định pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống [105, tr. 183]. Các tác giả
khẳng định có 04 hình thức THPL, gồm tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp
hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Do áp dụng pháp
luật là hình thức THPL đặc biệt nên các tác giả dành nhiều trang sách để viết
về vấn đề này [105, tr. 184 - 200].
15
- Cùng chung tính chất giáo trình luận bàn về vấn đề THPL còn có thể
kể ra một số cuốn sách, tài liệu khác, như: Trần Ngọc Đường (chủ biên), Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
[26]; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập, nghiên cứu
môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội, 2004 [40]
Trong các cuốn giáo trình kể trên, tuy cách trình bày, diễn đạt có thể khác
nhau, song các tác giả cũng đều tập trung chủ yếu vào việc trình bày khái
niệm THPL, các hình thức THPL (tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật, áp dụng pháp luật); phân tích sâu hơn về áp dụng pháp luật,
các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật Đây là những cơ sở lý luận
quan trọng, mang tính giáo khoa cho việc triển khai nghiên cứu vấn đề THPL
trong quá trình viết luận án của tác giả.
- Nguyễn Minh Đoan, Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [25]. Đây là cuốn sách tham khảo
chuyên bàn về THPL và áp dụng pháp luật, gồm 05 chương. Chương 1- Thực
hiện pháp luật được tác giả dành để luận bàn về khái niệm, mục đích, ý nghĩa
của việc THPL, về các hình thức THPL. THPL có thể được tiến hành thông
qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và
áp dụng pháp luật. Chương 2- Áp dụng pháp luật luận bàn về những trường
hợp cần áp dụng pháp luật, đặc điểm của áp dụng pháp luật, các nguyên tắc cơ
bản của áp dụng pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật. Chương 3- Quy
trình thực hiện và áp dụng pháp luật; theo đó, quy trình THPL gồm hai giai
đoạn là chuẩn bị đưa văn bản pháp luật hay quy định pháp luật vào thực hiện
và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trên thực tế. Chương 4- Những
bảo đảm thực hiện pháp luật được dành để phân tích một số yếu tố và điều
kiện cơ bản bảo đảm THPL. Chương 7- Hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt
Nam luận bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL, thực trạng và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả THPL ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham
khảo hữu ích cho tác giả luận án khi viết phần cơ sở lý luận về THPL và
THPL về dân chủ ở cấp xã.
16
- Vấn đề THPL cũng được đề cập và phân tích tương đối sâu dưới góc
độ xã hội học pháp luật, như: TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2010 (352 trang) [70]; TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp
luật (Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội,
2012 (408 trang) [71]. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành 02 chương để
bàn về vấn đề THPL và áp dụng pháp luật dưới góc độ xã hội học pháp luật
(Chương VII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện pháp luật và
Chương VIII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động áp dụng pháp luật). Trong
hai chương này, tác giả trình bày khái quát về hoạt động THPL và áp dụng
pháp luật; phân tích nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động
THPL và áp dụng pháp luật. Tác giả cũng dành nhiều trang viết để phân tích,
luận giải những biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động THPL và áp dụng
pháp luật ở nước ta hiện nay. Nhìn trên phương diện cách tiếp cận liên ngành
khoa học, những nội dung của cuốn sách có giá trị tham khảo đối với việc
khảo sát thực tiễn phục vụ việc viết luận án ở những vấn đề có liên quan.
1.1.2.2. Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã đặt trong mối
quan hệ với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Vấn đề dân chủ là vấn đề từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận cũng như thực tiễn và
được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể đề cập đến một
số công trình, bài viết tiêu biểu sau đây:
- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật
(Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Trịnh Đức Thảo - TS. Vũ
Công Giao - TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về
dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam (Kỷ yếu Hội
thảo), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội [115]. Cuốn sách gồm tập hợp những
bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế
giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về
một loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ
trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những
17
quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm
thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
- Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991 [73]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các
vấn đề lý luận về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản
là thành quả của cuộc cách mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử
dụng phương pháp tự do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra
những đặc trưng cơ bản của dân chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ
gắn với bản chất của chế độ Nhà nước XHCN; là hình thức chính quyền mà
đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và
thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong tương quan với quyền
lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức chủ yếu thực hiện
quyền lực nhân dân
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình khác, như: Nguyễn Tiến Phồn,
Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2001 [77]; Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện
dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin
lý luận, số 9/1992, Hà Nội [3]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2007 [24] Các công trình, bài viết nói
trên tập trung làm rõ khái niệm dân chủ, các đặc trưng của dân chủ xã hội chủ
nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật; đưa ra các đánh giá khách quan
về những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra
những hạn chế trong quan niệm về dân chủ do bản chất giai cấp của nền dân
chủ tư sản quy định; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; chỉ ra các cơ chế
thực hiện dân chủ Đó là những tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả
khi đề cập và luận bàn về nội hàm, bản chất của vấn đề dân chủ.
Vấn đề dân chủ đặt trong mối liên hệ với xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN được một số tác giả đề cập, phân tích, như:
- Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 [56].
18
Đây là cuốn sách chuyên khảo gồm hai phần: Phần thứ nhất- Cơ sở lý luận về
Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó tác giả tập trung phân tích và làm rõ
cơ sở hình thành quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN,
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phần
thứ hai- Thành tựu, hạn chế và các giải pháp đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; trong đó tập trung đánh giá những
thành tựu cũng như những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong những năm qua cũng như nguyên nhân
của chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay; trong đó, phát
huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước
và quản lý xã hội [56, tr. 162-165] là một trong những giải pháp căn bản.
- Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng
thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 2/2003 [34]. Trên cơ sở bàn luận về bản chất của dân chủ như
một giá trị xã hội phổ quát, điểm qua những đặc trưng cơ bản của mô hình
Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng, tác giả khẳng định
rằng: thực hiện và phát huy dân chủ là nhân tố không thể thiếu trong mô hình
tổng thể Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
- Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã hội, số
9/2005 [102]. Tác giả cho rằng, một trong những nội dung cốt lõi của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, cũng có nghĩa là phải thực hành nền dân chủ; giữa xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và thực thi quyền làm chủ của nhân dân
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
- Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6(169)/2005 [98]. Trong bài viết, tác giả
nhấn mạnh rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN là
19
các biện pháp chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; trong đó, sự
lãnh đạo của Đảng là yếu tố đặc biệt quan trọng.
- Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ
hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1(176)/2006 [32]. Trong
bài viết, tác giả khẳng định rằng, thực hiện dân chủ là một nội dung cơ bản
của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân. Không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền dân
chủ xã hội rộng rãi và bền vững. Đối với nước ta, dân chủ hóa xã hội vừa là
điều kiện tiên quyết để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,
vừa là biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
- Ngọ Văn Nhân, Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Triết
học, số 3 (237)/2011, Hà Nội [72]. Khẳng định bước phát triển mới trong
quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
qua văn kiện Đại hội XI, tác giả đã phân tích những điểm mới đó trên các
phương diện: các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN; thực
tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHXN ở nước ta trong những năm đổi
mới; những giải pháp cụ thể cần triển khai nhằm đẩy mạnh công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một trong những điểm mới, theo tác giả,
là Đảng ta đã nhấn mạnh chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân;
khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân, thực
hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với
việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2012 [27]. Nói về vị trí, vai trò của quyền lực nhân dân, tác giả cho rằng,
quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao trong các xã hội có tính dân chủ,
đồng nghĩa với việc dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhân dân là quyền lực gốc để từ đó hình thành nên các quyền lực khác
trong xã hội như quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị. Vai trò của quyền
20
lực nhân dân được thể hiện ở các khía cạnh sau: 1) Tự quản, tự chủ những vấn
đề thuộc về đời sống cá nhân và đời sống xã hội không có sự can thiệp của
Nhà nước; 2) Quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia theo quy định
của pháp luật, như trưng cầu ý dân, các hình thức dân chủ trực tiếp khác; 3)
Xây dựng Nhà nước, các thiết chế xã hội thông qua các cơ chế như bầu cử,
khiếu nại, tố cáo hoặc gây ảnh hưởng, phản biện đối với các chính sách pháp
luật; 4) Tuân thủ, ủng hộ và bảo vệ quyền lực nhà nước thông qua việc chấp
hành đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước, đấu tranh chống lại những thế
lực đi ngược lại các chuẩn mực xã hội, luật pháp; 5) Kiểm soát, giám sát nhà
nước và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội [27, tr. 41 - 42].
Những công trình nghiên cứu trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị
đối với tác giả luận án khi bàn về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ với xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập,
phân tích trong các công trình, bài báo khoa học, nhất là sau khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã. Có thể kể ra đây một số công trình nghiên cứu, bài viết trong
những năm gần đây về lĩnh vực này:
- Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 5 (204)/2008
[69]. Tác giả bài viết khẳng định rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển
đất nước hiện nay. Phát huy dân chủ là điều kiện tiên quyết để xây dựng bộ
máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cơ chế
vận hành của Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Tác giả nhấn mạnh rằng, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình
thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau [69, tr. 63 - 69].
21
- Nguyễn Thọ Khang, Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối
với báo chí ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số
tháng 6/2013 [47]. Trong bài viết này, từ sự nhấn mạnh vai trò của việc thực
hiện dân chủ ở cấp xã trong phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân
dân ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn
của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ,
chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; tác giả cho rằng các
loại hình báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên
truyền Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tác giả bài viết
đưa ra các giải pháp: báo chí nên có các chuyên trang, chuyên mục về thực
hiện dân chủ ở cấp xã; nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí
về thực hiện dân chủ ở cấp xã; bám sát, phản ánh kịp thời những hoạt động
thực hiện dân chủ ở cấp xã [47, tr. 39 - tr. 41].
- Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị
cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn
các tỉnh Tây Nguyên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng
7/2013 [28]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành
của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then
chốt của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở,
giúp giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó
quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực
tế. Nhìn trên phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị
cơ sở đối với việc lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn
các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần
phải có những giải pháp toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo,
quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ cấp xã ở Tây Nguyên [28, tr. 39-41].
22
- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính
trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8(273)/2013
[31]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai phương diện của hoạt động thực
hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện
nay là những kết quả bước đầu và một số hạn chế và nguyên nhân. Về kết
quả, tác giả cho rằng, thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ
sở nông thôn đã tác động tích cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trực tiếp
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố chính quyền cơ
sở Về hạn chế, theo tác giả, hạn chế điển hình là bệnh dân chủ hình thức
trong thực hiện quy chế dân chủ. Việc phát huy dân chủ còn yếu kém là
nguyên nhân căn bản làm nảy sinh các tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, tham nhũng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, làm cho không ít
các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước bị biến dạng trong vận hành ở
nhiều cấp, nhiều ngành, đặc biệt là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu khác về thực
hiện dân chủ ở cơ sở, như: Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000 [74]; Lương Gia Ban, Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [4]; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ
sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số
35, tháng 12/2003, Hà Nội [23]; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (chủ
biên), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 [87] Trong các công trình
khoa học kể trên, các tác giả tập trung phân tích nội hàm khái niệm dân chủ ở
cơ sở; các khía cạnh lý luận và thực tiễn của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở; coi dân chủ ở cơ sở như một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam,
có cội nguồn từ trong truyền thống dân chủ làng xã và rất cần phát huy sức
mạnh của nó phục vụ tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, vấn đề đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn
cơ sở ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa vấn đề dân chủ và cải cách bộ máy
23
chính quyền địa phương. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng, Quy chế dân chủ ở
cơ sở càng được thực hiện nghiêm túc bao nhiêu thì càng có tác dụng củng cố,
xây dựng chính quyền cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh bấy nhiêu; góp phần
quan trọng thúc đẩy sự phát triển nông thôn Việt Nam. Những công trình, bài
viết về thực hiện dân chủ ở cấp xã là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho tác
giả khi bàn luận về vấn đề này.
1.1.2.3. Vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và phân tích trong các
bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học khác nhau, như:
- Đặng Đình Tân - Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002 [91]. Trong bài viết
này, các tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá bước đầu về các kết quả
đạt được trong công tác thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như sự phấn khởi
đón nhận Quy chế dân chủ ở cơ sở từ phía nhân dân ở xã, phường, thị trấn; sự
hăng hái vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân nhằm
động viên các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trên các
mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở Các tác giả cũng chỉ ra một
số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như công tác tuyên
truyền và việc tổ chức thực hiện Quy chế còn mang tính hình thức, chưa chú
trọng chất lượng và hiệu quả. Để có thể tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ
ở cơ sở, theo các tác giả, cần triển khai nhiều giải pháp, trong đó, tăng cường
vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và huy động sự vào cuộc của các đoàn
thể nhân dân là những biện pháp quan trọng hàng đầu [91, tr. 39 - 43].
- Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi
mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004
[79]. Theo tác giả bài viết, sự ra đời của Quy chế dân chủ ở cơ sở là một dấu
mốc quan trọng của quá trình đổi mới ở nước ta, thể hiện quyết tâm chính trị
của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình dân chủ hóa xã hội. Sau khi điểm
qua những thành tựu nổi bật của hoạt động thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác giả
xác định những vấn đề đang đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
24
nước ta, như nhận thức của người dân về việc thực hiện các quyền dân chủ
vẫn còn hạn chế; các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả dân chủ ở
cơ sở chưa được đáp ứng đầy đủ, kịp thời Từ thực tế đó, tác giả nêu lên và
phân tích những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình đổi mới đất nước [79, tr. 3 - 7].
Ngoài các bài viết kể trên, có thể nêu thêm một số bài viết khác, như:
Lê Quang Minh, Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 11,
tháng 4/2003, Hà Nội [58]; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy nghĩ về kết quả
10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số
7/2009, Hà Nội [94]; Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả hoạt động quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 358/2006, Hà Nội
[11]; Quách Sĩ Hùng, Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở
ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2009 [41]; Các công
trình khoa học, bài viết nêu trên ở những mức độ khác nhau đã góp phần làm
rõ thêm các đặc điểm của quá trình THPL về dân chủ cơ sở ở nước ta trong
những năm qua; bước đầu tổng kết, nêu rõ thành công, hạn chế và những vấn
đề đặt ra trong xây dựng và THPL về dân chủ ở cơ sở, các nguyên nhân dẫn
tới những hạn chế và các giải pháp khắc phục.
Chủ đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã gắn với từng địa bàn,
địa phương cụ thể đã trở thành đề tài của nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ Có thể kể ra đây một số công trình luận văn, luận án, như:
- Lê Xuân Huy, Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở
nông thôn nước ta hiện nay (qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn
Thạc sĩ Triết học, 2005, Hà Nội [43]. Trong luận văn này, từ phương diện tiếp
cận triết học, tác giả đã tập trung phân tích khái niệm, đặc trưng của ý thức
pháp luật, khái niệm, đặc điểm của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn; khẳng
định vai trò đặc biệt quan trọng của ý thức pháp luật đối với quá trình thực
hiện dân chủ ở nông thôn. Thông qua việc khảo sát thực tế tình hình thực hiện
dân chủ ở nông thôn tại một số tỉnh phía Bắc nước ta, tác giả đã nêu lên
những kết quả bước đầu của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện
25
nay, những hạn chế và nguyên nhân; từ đó, tác giả đã đề xuất và luận chứng
tính khả thi của một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
nông thôn phục vụ việc triển khai có hiệu quả công tác thực hiện dân chủ trên
địa bàn nông thôn nước ta hiện nay.
- Ngô Thị Hòa, Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp
xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2005, Hà Nội
[39]. Mục đích nghiên cứu của luận văn này được tác giả xác định là: trên cơ
sở tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện
nay. Thành công đáng kể, làm nên giá trị tham khảo về mặt khoa học của luận
văn này là tác giả đã đưa ra được khái niệm chất lượng thực hiện Quy chế dân
chủ ở cấp xã, xác định được những tiêu chí đánh giá chất lượng và những yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã.
- Vương Ngọc Thịnh, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2010 [96].
Theo tác giả, tìm hiểu việc THPL về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng
trong việc đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao ý thức
của người dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ ý nghĩa đó, luận văn đi sâu
vào phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở và
các hình thức THPL về dân chủ ở cơ sở; vai trò của việc THPL về dân chủ ở
xã, phường, thị trấn, đánh giá thực trạng THPL về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức và đề xuất phương hướng, luận giải một số giải pháp bảo
đảm THPL về dân chủ ở cơ sở tại huyện Hoài Đức, Hà Nội.
Những công trình kể trên đã tập trung phân tích cơ sở lý luận về THPL
về dân chủ ở cấp xã; chỉ ra những thành tựu đã đạt được và các hạn chế, bất
cập của quá trình THPL về dân chủ ở cấp xã, phân tích nguyên nhân; nêu lên
những quan điểm chỉ đạo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THPL
về dân chủ ở cấp xã đặt trong đặc thù của từng địa phương.