Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.94 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THU HÀ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA NGƯỜI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hà


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CEDAW:
CRC:


DTTS:
ICCPR:
ICESCR:
ICRPD:
NKT:
NYT:

Công ước về xóa bỏ tất cả các hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ
Công ước về quyền trẻ em
Dân tộc thiểu số
Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị
Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa
Công ước về quyền của những người
khuyết tật
Người khuyết tật
Người yếu thế


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM 6
1.1.Người yếu thế và bảo đảm quyền của người yếu thế .................................. 6
1.1.1.Người yếu thế ........................................................................................... 6
1.1.2.Bảo đảm quyền của người yếu thế ......................................................... 10
1.2.Pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ........................................ 15
1.2.1.Khái niệm pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ................... 15

1.2.2.Đặc điểm pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế .................... 16
1.2.3.Nội dung pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ..................... 18
1.2.4.Hình thức của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế............. 20
1.3.Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ..................... 21
1.3.1.Khái niệm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
.............………………………………………………………………………21
1.3.2.Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
.............………………………………………………………………………22
1.3.3.Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở
Việt Nam. ......................................................................................................... 27
1.3.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của
người yếu thế. .................................................................................................. 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 33
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM .............................................................. 34
2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở Việt Nam
......................................................................................................................... 34
2.1.1. Quy định pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế trong lĩnh vực
dân sự, chính trị. ............................................................................................. 34
2.1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội. .................................................................................. 39
2.2. Các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền và bảo
vệ quyền của người yếu thế……………………………………....................48
2.3. Ưu điểm, hạn chế của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở
Việt Nam ......................................................................................................... 53
2.3.1. Ưu điểm của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế .............. 53


2.3.2. Hạn chế của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế .............. 56
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong pháp luật về bảo đảm quyền của

người yếu thế ................................................................................................... 64
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 67
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM
......................................................................................................................... 68
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
ở Việt Nam ...................................................................................................... 68
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
......................................................................................................................... 73
3.2.1 Nhóm giải pháp chung ........................................................................... 73
3.2.2. Nhóm giải pháp riêng............................................................................ 77
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai năm 1945, cùng với sự ra đời của
Liên Hợp Quốc thì quyền con người đã trở thành một vấn đề được cả thế giới
quan tâm. Nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông
qua, trong đó có nhiều văn kiện đề cập đến quyền của nhóm người yếu thế. Số
lượng văn kiện pháp luật quốc tế về quyền của các nhóm người khuyết tật,
người dân tộc thiểu số, người sống chung với HIV, trẻ em, người già, phụ nữ,
nạn nhân chiến tranh,… được thông qua dưới dạng công ước, nghị định thư
hay các tuyên bố, nguyên tắc, khuyến nghị… đã lên tới hàng trăm văn kiện.
Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy, quyền của các nhóm yếu thế này đã cấu
thành một bộ phận quan trọng của luật nhân quyền quốc tế.

Mặc dù hiện nay tại một số quốc gia, vấn đề chung về nhân quyền vẫn
còn gây nhiều tranh cãi nhưng khi đề cập đến quyền của các nhóm người yếu
thế, các quốc gia đều có sự đồng thuận và ủng hộ ở mức độ cao. Điều này
được thể hiện ở việc hầu hết các văn kiện quốc tế về quyền của các nhóm yếu
thế này như: Công ước về quyền của người khuyết tật, Công ước về quyền trẻ
em,… đều có số lượng các quốc gia thành viên đứng hàng đầu trong các điều
ước quốc tế về quyền con người. Có thể thấy, vấn đề quyền của người yếu thế
là mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế chứ không riêng quốc gia nào.
Việc ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền của người yếu thế là vấn đề mang
ý nghĩa nhân đạo đồng thời cũng là vấn đề mang ý nghĩa kinh tế, xã hội và
pháp lý.
Ở Việt Nam, mọi chính sách phát triển luôn lấy con người làm trung tâm
bao gồm: phát triển kinh tế vì con người; tăng trưởng kinh tế găn liền với bảo
đảm phát triển đồng bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển
và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, và cải thiện môi trường. Việc quan tâm đến
đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm xã hội yếu thế là một trong những
ưu tiên hàng đầu nhằm phát triển mạng lưới an sinh xã hội của Việt Nam.


2

Trên thực tế, vấn đề quyền của các nhóm xã hội yếu thế đã được thể hiện
trong pháp luật và chính sách của nước ta từ rất sớm, thậm chí trước cả khi
Liên Hợp Quốc thông qua các điều ước quốc tế có liên quan. Tuyên ngôn Độc
lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 02/9/1945 được coi là một
văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Mới
đây Hiến pháp 2013 được ban hành có nhiều nội dung mới, tiến bộ liên quan
đến quyền con người, quyền công dân trong đó có người yếu thế.
Tuy vậy, do nhận thức các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này ở nước ta

còn hạn chế, dẫn tới việc bảo đảm và thúc đẩy quyền của một số nhóm người
yếu thế chưa thực sự hiệu quả, vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: đời sống của
người yếu thế Việt Nam còn nhiều khó khăn, điều kiện giáo dục, đào tạo nghề
cho người yếu thế chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn tình trạng kỳ thị,
phân biệt đối xử trong giáo dục, ở nơi làm việc, trong các hoạt động cộng
đồng.
Để khắc phục những hạn chế trên thì việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở Việt Nam là hết sức cần thiết. Bởi
lẽ, việc làm này sẽ giúp chúng ta đánh giá được những thành tựu, ưu điểm đã
đạt được và làm rõ để khắc phục những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại
trong việc bảo đảm quyền của người yếu thế ở nước ta. Từ đó, xác định được
những phương hướng, nội dung, phương pháp để hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm thực hiện quyền của người yếu thế trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của người yếu thế ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo đảm quyền của người yếu thế và hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của người yếu thế liên quan đến mọi quốc gia trên thế giới. Nên
việc nghiên cứu về quyền của người yếu thế và làm thế nào để đảm bảo quyền
của họ đã được nhiều chuyên gia đề cập dưới các góc độ và phạm vi khác
nhau. Nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách hoặc đăng


3

trên các tạp chí chuyên ngành, trở thành tài liệu tham khảo cho những người
quan tâm đến vấn đề này. Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công
trình liên quan nghiên cứu về quyền của người yếu thế, cụ thể:

Các ấn phẩm xuất bản như: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con
người (2011), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Luật quốc tế về quyền của các
nhóm người dễ bị tổn thương (2011), NXB Lao động – Xã hội; Bảo vệ các
nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự (2011), NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội; Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam (2005), NXB
Thế giới; Thích ứng xã hội của các nhóm yếu thế ở nước ta hiện nay (2012),
NXB Từ điển Bách Khoa… đã làm rõ một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản cần quan tâm khi tìm hiểu về người yếu thế hoặc một nhóm người
yếu thế nhất định.
Các báo cáo, công trình nghiên cứu khoa học như: “Tăng trưởng vì mọi
người”, Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm
do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc phối hợp thực hiện; “Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng
tạo, công bằng và dân chủ” (2014), Báo cáo do nhóm chuyên gia của Chính
phủ Việt Nam và Ngân hàng thế giới soạn thảo; “Hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương” (2010), Đề tài nghiên cứu
khoa học do GS. TS Hoàng Thị Kim Quế làm chủ nhiệm; … đều thể hiện
phần nào thực trạng của các nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay. Những công
trình này đã điểm danh được một số nhóm người yếu thế bao gồm: người dân
tộc thiểu số, lao động di cư, người khuyết tật, người nghèo… là những đối
tượng thiệt thòi nhất trong quá trình phát triển, hội nhập hiện nay, chỉ ra được
một số thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện bảo đảm quyền của
người yếu thế ở nước ta.
Các luận văn, luận án như: “Vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc thúc
đẩy tiếp cận và bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội” (2014)
của Lê Thị Minh; “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài về bảo vệ quyền
trẻ em” (2012) của Nguyễn Thị Huyền; “Quyền của người khuyết tật nhìn từ
góc độ lịch sử, văn hóa, pháp lý và thực tiễn” (2011) của Phan Thanh



4

Minh…đã góp phần làm sáng tỏ những thuận lợi và khó khăn trong việc thực
hiện pháp luật về quyền của một số nhóm người yếu thế, từ đó đưa ra các biện
pháp hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền của họ.
Tuy nhiên, các công trình nói trên còn để lại nhiều khoảng trống, chưa đề
cập một cách toàn diện nội dung, tính khả thi của pháp luật về quyền của
người yếu thế, chưa sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của
người yếu thế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là những vấn đề lý
luận về quyền, bảo đảm quyền, pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu
thế, thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở Việt Nam
hiện nay.
Tác giả đi sâu tìm hiểu pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở
Việt Nam qua khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nước ta trong thời gian 10 năm
trở lại đây.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích của việc nghiên cứu là từ cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế, để đề xuất
những giải pháp để cải thiện, giúp cho người yếu thế được thụ hưởng các
quyền con người, quyền công dân thực sự như Hiến pháp và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia quy định.
Nhiệm vụ của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản như
quyền, bảo đảm quyền và pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở
Việt Nam; đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành trong 10 năm gần đây quy
định về quyền và bảo đảm quyền của người yếu thế; đề xuất các giải pháp,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
việc bảo đảm quyền của người yếu thế.


5

Bên cạnh đó, luận văn còn vận dụng một số phương pháp phương pháp
nghiên cứu khác như: tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, hệ
thống,… để có một cách nhìn toàn diện, khoa học và khách quan về vấn đề
này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn được hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo giúp người đọc phân
tích, đánh giá về quyền của người yếu thế và pháp luật về bảo đảm quyền của
người yếu thế ở Việt Nam.
Luận văn cũng nêu lên thực trạng, xác định được những ưu điểm và
những bất cập trong pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở Việt
Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm
quyền của người yếu thế ở Việt Nam để hiện thực hóa các quyền này, thông
qua đó giúp đỡ, bảo vệ quyền của người yếu thế.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo khi xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của
người yếu thế và các phúc lợi xã hội, đồng thời là tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, nghiên cứu và học tập luật học.
7. Kết cấu của luận án
Luận văn gồm Lời nói đầu, Nội dung và Kết luận. Phần Nội dung được
chia làm 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền của người yếu thế ở Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế ở

Việt Nam.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của người yếu thế ở Việt Nam.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI YẾU THẾ Ở VIỆT NAM
1.1.
Người yếu thế và bảo đảm quyền của người yếu thế
1.1.1. Người yếu thế
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người yếu thế
“Người yếu thế” là một thuật ngữ pháp lý, tuy nhiên cho đến nay vẫn
còn nhiều quan điểm không thống nhất về người yếu thế, tùy theo từng góc
độ, lĩnh vực mà thuật ngữ này được định nghĩa khác nhau.
Trong các văn kiện pháp lý, tài liệu nghiên cứu, thảo luận về luật nhân
quyền quốc tế, người ta hay sử dụng một thuật ngữ tiếng Anh là “vulnerable
groups”. Theo từ điển Anh ngữ, “vulnerable được dịch là có thể bị tổn
thương, dễ bị nguy hiểm, yếu thế…”1 Thuật ngữ “vulnerable groups” khi
dịch ra tiếng Việt có thể hiểu bằng nhiều cụm từ khác nhau như: nhóm thiệt
thòi, nhóm dễ bị tổn thương, nhóm người yếu thế.
Khái niệm “nhóm dễ bị tổn thương” có thể gần gũi hơn song ở luận văn
này, tác giả thống nhất sử dụng khái niệm “nhóm người yếu thế” nhằm nhấn
mạnh vị thế yếu, thiệt thòi hơn của nhóm này so với các nhóm khác trong xã
hội.
Ngày 19/10/2005, các quốc gia thành viên của LHQ đã thông qua
Tuyên ngôn Thế giới về Đạo đức Sinh học và Nhân quyền (Universal
Declaration on Bioethics and Human Rights). Điều 8 của bản tuyên ngôn đề

cập đến “tính dễ bị tổn thương” và “nhóm dễ bị tổn thương” 2. Tuyên ngôn
không định nghĩa các thuật ngữ “tính dễ bị tổn thương” hay “nhóm dễ bị tổn
thương” nhưng khẳng định rằng không chỉ cá nhân mà cả các gia đình, các
nhóm và cộng đồng đều có thể bị tổn thương, đồng thời chỉ ra một số trường
hợp có thể làm cho các cá nhân và nhóm dễ bị tổn thương như: dịch bệnh,

1

Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Anh – Việt (English – Vietnamese Dictionary), NXB Khoa học Xã
hội, tr.2276
2

UNESCO (2005), Universal Declaration on Bioethics and Human Rights, adopted on 19 October 2005,
Article 8.


7

khuyết tật, các điều kiện khác của cá nhân, điều kiện môi trường, giới hạn tài
nguyên,…
WHO cũng không đưa ra định nghĩa về “nhóm dễ bị tổn thương” mà
chỉ xác định các đối tượng “dễ bị tổn thương” bao gồm: “Trẻ em, phụ nữ có
thai, người cao tuổi, người suy dinh dưỡng, và những người bị ốm hoặc suy
giảm miễn dịch, đặc biệt dễ bị tổn thương khi xảy ra thiên tai…”3
Vụ Hòa nhập, Xã hội và Việc làm của Ủy ban Châu Âu đưa ra định
nghĩa “nhóm dễ bị tổn thương” là “nhóm có nguy cơ cao về nghèo đói và bị
loại trừ xã hội so với đại bộ phận dân số” 4.
Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người do GS.TS Nguyễn
Đăng Dung,TS. Vũ Công Giao và ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên đã
đưa ra khái niệm nhóm người yếu thế là: “Những nhóm, cộng đồng có vị thế

về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn
bị bỏ quên hay vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý
bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”. 5
PGS. TS Phạm Văn Quyết và ông Phạm Anh Tuấn khẳng định nhóm
yếu thế là: “những nhóm xã hội đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn hơn, có vị
thế xã hội thấp kém hơn so với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc
điểm tương tự”. 6
Từ các quan điểm trên và thực tế nghiên cứu, tác giả khẳng định trong
luận văn này, NYT được hiểu là người bị hạn chế một phần năng lực do tự
nhiên hoặc do hoàn cảnh xã hội quy định khiến họ bị đánh giá thấp về địa vị
kinh tế, chính trị, xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện và năng lực có sẵn như

3

WHO, Environmental health in emergencies, Vulnerable groups, địa chỉ:

truy cập ngày 18/7/2017
DG Employment, Social Affairs and Inclusion, Social protection and Social inclusion Glossary,
ngày truy cập 23/4/2017
4

địa chỉ:

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền
con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.229
6
Phạm Văn Quyết, Phạm Tuấn Anh (2012), “Công tác hỗ trợ nhóm yếu thế ở Việt Nam”, tr.3, địa chỉ:
ngày
truy cập 23/4/2017
5



8

nhau. Tuy nhiên, tính yếu thế của họ không phải là bất biến, một người có
thể trong thời điểm này là NYT nhưng sang thời điểm khác thì không còn là
NYT nữa.
Các nhóm xã hội yếu thế có những đặc điểm nhất định khiến họ thường
bị bỏ quên hoặc bị vi phạm các quyền con người. Vì vậy, họ cần có sự quan
tâm đặc biệt của Nhà nước và xã hội nhằm không chỉ giúp họ vượt qua rào
cản mà còn đảm bảo sự phát triển của xã hội. Những đặc điểm của NYT bao
gồm:
Đặc điểm tâm lý xã hội: Đặc điểm tâm lý xã hội dễ nhận thấy nhất ở tất
cả các nhóm NYT thường dễ tự ti, mặc cảm trước những người xung quanh,
xã hội về sự yếu thế của mình nên họ có xu hướng co cụm, sống khu trú,
tránh giao tiếp với mọi người. NYT cho rằng mình bị người khác coi
thường, thiếu tôn trọng, không thừa nhận họ. Họ bị ám ảnh tâm lý, thấy
mình là nạn nhân của việc không thể tiếp cận các dịch vụ xã hội, bị phân biệt
đối xử và ít khi quyết định được vận mệnh của mình.
Đặc điểm về địa vị chính trị, xã hội: Địa vị chính trị, xã hội của NYT
không cao, NYT không có tiếng nói trong xã hội hoặc nếu có thì tiếng nói
của họ cũng rất yếu ớt. Do chỉ chiếm thiểu số và do sự yếu thế của mình nên
họ thường bị bỏ qua hoặc coi là không chính yếu cần xin ý kiến. Khó khăn
trong tiếp cận thông tin, trong giao tiếp, thiếu kỹ năng sống và kỹ năng ứng
phó với những vấn đề trong cuộc sống cũng là lý do khiến NYT bị hạn chế
trong việc lên tiếng phát biểu ý kiến trong các nhóm và các mối quan hệ xã
hội.
Đặc điểm về khả năng kinh tế: Nhìn chung những NYT đều có khả
năng kinh tế thấp. Nguyên nhân là do họ có trình độ văn hóa thấp, không có
khả năng lao động hoặc khả năng lao động hạn chế dẫn đến việc họ mất cơ

hội việc làm và không có thu nhập để tự trang trải và nuôi sống chính mình,
không có cơ hội được tiếp cận với những dịch vụ xã hội cơ bản nhất như:
nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, thông tin,… Chính vì vậy, NYT luôn phải
sống trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói, không thể thoát ra tình trạng của
người thuộc nhóm yếu thế.


9

Đặc điểm về nhận thức pháp luật và năng lực tự vệ pháp lý: Nhận thức
pháp luật của NYT chưa cao đã dẫn đến năng lực tự vệ pháp lý của họ tỉ lệ
thuận với khả năng nhận thức. Họ không biết hoặc không biết đầy đủ những
quyền mà mình được hưởng nên khi quyền lợi bị xâm phạm họ không biết
phải tự bảo vệ mình bằng những phương thức như thế nào, không có khả
năng tự bảo vệ mình. Họ cần được Nhà nước và xã hội quan tâm tạo điều
kiện để họ tự trang bị kiến thức pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật của
mình và tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi bị xâm phạm.
1.1.1.2. Các nhóm người yếu thế cơ bản
Đối với việc phân loại NYT, pháp luật quốc tế ghi nhận quyền con
người của một số nhóm người yếu thế bao gồm: Trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật, người sống chung với HIV, người lao động di trú, người dân tộc
thiểu số, nạn nhân chiến tranh, người cao tuổi, người không có quốc tịch,
người tị nạn, người đồng tính lưỡng tính và chuyển giới,…
Vụ Hòa nhập, Xã hội và Việc làm của Ủy ban Châu Âu đưa ra danh
sách nhóm này bao gồm: “Các dân tộc thiểu số, người di cư, người tàn tật,
người vô gia cư, những người đấu tranh chống lại việc lạm dụng chất kích
thích, người già neo đơn và trẻ em đều phải đối mặt với khó khăn dẫn tới
việc gặp phải nhiều loại trừ xã hội hơn như trình độ học vấn thấp, thất
nghiệp hoặc thiếu việc làm”7.
Theo xác định của UNESCO, nhóm yếu thế bao gồm: “những người ăn

xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu niên có hoàn
cảnh khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo, tù
nhân, người lao động tình dục, người thất nghiệp, người lang thang cơ nhỡ.
Ngoài ra còn kể đến người tị nạn, người xin tị nạn, người bị xã hội loại trừ”8.
Đối với Việt Nam, nước ta là nước vừa thoát nghèo và là cộng đồng lớn
gồm nhiều dân tộc ở các vùng miền khác nhau nên đời sống của người dân

7

Social protection and Social inclusion Glossary. DG Employment, Social Affairs and Inclusion
ngày truy cập 23/4/2017
8

Phạm Văn Quyết, Phạm Tuấn Anh (2012), tlđd chú thích 6, tr.2

, địa chỉ:


10

còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, số người khuyết tật, người nghèo cao, sự
chênh lệch bất bình đẳng giới tính vẫn còn, do công nghiệp hóa và phát triển
chưa bền vững khiến cho môi trường xã hội biến đổi tạo ra một loạt các
nhóm yếu thế khác càng làm đông đảo thêm số lượng các nhóm yếu thế cần
trợ giúp. Tương tự như ghi nhận của luật pháp quốc tế, Việt Nam cũng có
những nhóm yếu thế cơ bản như trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ, người dân
tộc thiểu số… Đồng thời, do đặc thù kinh tế - xã hội nước ta còn có thêm
một số nhóm người khác gọi chung là nhóm những người sống trong hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn do nghèo đói, bệnh tật và các tác động của môi
trường.

Ngoài những nhóm này còn có một số nhóm yếu thế khác theo ghi nhận
của luật pháp quốc tế như nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới,
người lao động di cư, người sống chung với HIV… tác giả sẽ không đề cập
sâu trong luận văn này. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả chỉ đi sâu
phân tích năm nhóm người yếu thế sau: Trẻ em; Phụ nữ; Người khuyết tật;
Người dân tộc thiểu số; Người sống trong hoàn cảnh khó khăn do nghèo đói,
bệnh tật và tác động của môi trường.
1.1.2. Bảo đảm quyền của người yếu thế
1.1.2.1 Quyền của người yếu thế
“Quyền” là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp
luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để cá nhân, tổ
chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không bị ngăn cản, hạn chế.
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì “quyền”: “1. Điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được, được làm, được đòi hỏi. 2. Những điều do địa
vị hay chức vụ mà được làm”. 9
Người yếu thế trước hết là con người, là công dân bởi vậy, quyền của
NYT cũng mang những tính chất của quyền con người, quyền công dân sau
đó mới mang những tính chất riêng tương ứng với đặc điểm của từng nhóm
yếu thế cụ thể.

9

Từ điển tiếng Việt (2007), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 815.


11

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc thì: “Quyền
con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees)
có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động

(actions) hoặc sự bỏ mặc (ommissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundanmental freedoms) của
con người”. 10
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa khá ngắn gọn, đầy đủ về quyền
con người: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có của tự nhiên mà chỉ
con người mới được hưởng trong những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội nhất định” 11.
Theo TS. Vũ Công Giao, “quyền công dân là tập hợp những quyền tự
nhiên được pháp luật của một nước quy định mà tất cả những người có
chung quốc tịch đó được hưởng một cách bình đẳng”12.
Như vậy có thể hiểu khái quát về quyền của NYT theo pháp luật như sau:
Quyền của người yếu thế là các quyền tự nhiên vốn có của người yếu thế,
được thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà
không ai được phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do yếu
thế của họ. Quyền của người yếu thế là những đặc lợi mà chỉ người yếu thế
mới có, do Nhà nước và pháp luật trao cho họ.
1.1.2.2. Bảo đảm quyền của người yếu thế
Theo Từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” được hiểu là “làm cho chắc chắn
thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết…” 13 Bảo
đảm quyền của NYT đó là: tạo mọi điều kiện thuận lợi để NYT được hưởng
các quyền vốn có của mình một cách phù hợp, đầy đủ và trọn vẹn nhất.
Bảo đảm quyền của NYT cần được xem xét trên nhiều phương diện,
khía cạnh xuất phát từ những nhu cầu cơ bản của con người, đó là những

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (2011), tlđd chú thích 5, tr.37.
Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, NXB Tư pháp,
tr.14
12
Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về Nhân quyền, Luận văn Thạc sĩ, Viện Nhà nước và
pháp luật, tr.21

13
Hoàng Phê (Chủ biên, 2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 38
10
11


12

nhu cầu để con người có thể tồn tại và phát triển. Bảo đảm các quyền của
NYT phải dựa trên các cơ sở sau:
Bảo đảm về mặt chính trị: Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Việt Nam đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Trong
đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các nhóm yếu thế và đã có
nhiều nỗ lực trong hoàn thiện khung chính sách cho từng nhóm yếu thế cụ
thể. Nhà nước có những quy định để NYT tham gia các hoạt động chính trị
của cộng đồng, các cơ quan, tổ chức. Họ được lập hội hoặc các tổ chức dựa
trên năng lực và sở trường của mình như: Hội Người khuyết tật; Hội Người
mù; Hội Bảo trợ trẻ em tàn tật và mồ côi Việt Nam… NYT được tôn trọng
tiếng nói, thành tích trong đóng góp vào chính trị. Các diễn đàn dành cho
NYT được thành lập để họ được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình trong
việc đóng góp, tham gia vào các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước.
Bảo đảm về mặt kinh tế: Bảo đảm phát triển kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân trong đó có NYT. Có thể nói bảo đảm về kinh tế là cơ sở
cho tất cả các bảo đảm khác để thực hiện quyền của NYT. NYT được bảo
đảm quyền kinh tế như một chủ thể đặc thù, Nhà nước đã ghi nhận và quy
định cho họ những chính sách bảo đảm quyền kinh tế phù hợp với đặc điểm
của từng nhóm yếu thế.
Bảo đảm về mặt văn hóa – xã hội: NYT được tạo điều kiện để thụ

hưởng các giá trị văn hóa, nghệ thuật như các chủ thể khác. Đồng thời, họ
cũng được tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, nghệ thuật phù hợp
với năng lực và năng khiếu của mình. NYT được tạo điều kiện sống hòa
nhập với cộng đồng. Tại các công trình và phương tiện công cộng hiện nay
đã có những quy định đặc biệt ưu tiên cho NYT nhằm giúp họ dễ dàng tham
gia hoạt động tại các địa điểm công cộng. Họ được bảo đảm để tồn tại và
phát triển trong môi trường đa dạng, khác biệt về văn hóa, tâm lý, xã hội.
Bên cạnh đó, họ cũng được ưu tiên bảo đảm văn hóa, xã hội trong xu hướng
hội nhập với khu vực và quốc tế.


13

Bảo đảm về mặt pháp lý: Bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm
chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà
Nhà nước, các cơ quan Nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong
phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, đến việc
tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ
máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Nhà nước
phải thể chế hóa các quyền này thành những quy định cụ thể.
Về chủ thể bảo đảm: Các chủ thể bảo đảm quyền của NYT bao gồm
Nhà nước và xã hội. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò trước tiên và chủ đạo.
Nhà nước có mình trách nhiệm, nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền con
người, quyền công dân; bảo đảm các quyền con người, quyền công dân;
đồng thời chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Nhà nước
là chủ thể chính có nghĩa vụ bảo đảm quyền. Chính Nhà nước thực hiện các
biện pháp về thể chế lập pháp, hành pháp và tư pháp và quản lý chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa để thực hiện hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về

quyền con người trong hoạt động của Nhà nước và các hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề nghiệp, đặc biệt trong các chương trình
phát triển kinh tế xã hội, nhằm thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện và
thúc đẩy các quyền con người nói chung và quyền của người yếu thế nói
riêng.
Bên cạnh Nhà nước còn cả xã hội cùng chung tay bảo vệ quyền lợi cho
NYT, gôm có các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, cộng đồng và cá nhân. Các
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng tham gia quá trình bảo đảm
quyền của NYT bằng cách tạo việc làm cho NYT, tạo môi trường cho NYT
hòa nhập xã hội, tham gia tuyên truyền trang bị kiến thức về pháp luật và
cuộc sống cho NYT…
Về đối tượng bảo đảm: Đối tượng bảo đảm bao gồm những quyền đặc
thù, dành riêng cho NYT dựa trên cơ sở quyền con người, quyền công dân.
Đây là các quyền được xác lập và thực hiện theo hướng ưu tiên đối với


14

NYT, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của từng nhóm yếu thế cụ thể.
Những quyền này nhằm bảo đảm NYT được đáp ứng những nhu cầu cơ bản
của con người, để sống, phát triển và cống hiến cho xã hội.
Về phương thức bảo đảm: Khi nghiên cứu về việc bảo đảm quyền của
NYT nói chung và quyền của NYT trên các phương diện cụ thể, chúng ta
thường thấy nhiều tài liệu, công trình nêu ra những bảo đảm bằng các
phương thức truyền thống. Đó là việc ghi nhận quyền của NYT bằng pháp
luật để bảo vệ họ và hỗ trợ họ về mặt vật chất giúp họ bù đắp những đặc
điểm yếu thế của mình. Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật
liên quan đến vấn đề trợ cấp xã hội để giúp đỡ họ như xây nhà tình thương,
miễn giảm các loại chi phí khi tham gia hoạt động xã hội, y tế, bảo hiểm, hỗ
trợ tiền mặt… Hiện nay, một số tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đã

tham gia vào quá trình bảo đảm quyền của NYT nhưng nguồn lực xã hội này
vẫn đang bị xem nhẹ. Như vậy, việc bảo đảm quyền của NYT theo phương
thức truyền thống là cách làm từ thiện, nhân đạo.
Ngày nay, bên cạnh phương thức bảo đảm truyền thống đã xuất hiện
một phương thức bảo đảm mới. Phương thức bảo đảm này đề cao năng lực
bên trong của NYT bằng cách tạo điều kiện tiền đề cho NYT có cơ hội tự
vươn lên hòa nhập xã hội. Đây là phương thức phi truyền thống. Phương
thức này đề cao tính chủ động, nội lực của bản thân chủ thể thụ hưởng quyền
là NYT. Qua đó, chúng ta không còn coi NYT là chủ thể thụ hưởng quyền bị
động nữa mà nhìn nhận họ cũng có năng lực và giá trị nhất định, họ có thể
đóng góp cho xã hội nếu được tạo những điều kiện phù hợp với khả năng và
sở trường của họ. Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền của NYT
cần nâng cao trách nhiệm. Trong cách nhìn nhận về NYT, Nhà nước cần
phải thay đổi cách nhìn, phải coi NYT như một đối tượng bình thường để
suy xét, tính toán đến quyền và lợi ích của họ, phải bỏ lối suy nghĩ “bố thí”
khi đề cập đến quyền của NYT. Nhà nước mở các trung tâm, cơ sở đào tạo
nghề và quan tâm đến việc làm cho NYT để họ tìm được công việc phù hợp
sức khỏe và khả năng của mình. Họ có cơ hội được chủ động, được tự mình


15

vươn lên, tự khẳng định mình trước cộng đồng rằng họ là những người có
ích, họ có thể tự nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội.
1.2.
Pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
Pháp luật ghi nhận và thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và
bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện đồng thời pháp
luật cũng là phương tiện để các thành viên trong xã hội có điều kiện bảo vệ

lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền con người, quyền công dân và quyền của NYT được pháp luật
xác lập, ghi nhận và bảo vệ bằng các biện pháp khác nhau. Bảo đảm quyền
của NYT đã được pháp luật ghi nhận, tức là đã mang tính quyền lực, nó thể
hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Nó trở thành
khuôn mẫu, được xác định cụ thể, không chung chung, không trừu tượng, có
giá trị bắt buộc mọi người tôn trọng, phục tùng. Trong hệ thống công cụ bảo
đảm quyền của NYT thì pháp luật là công cụ không thể thiếu, nó là cơ sở, là
điều kiện bắt buộc để thực hiện các hoạt động bảo đảm quyền của NYT trên
mọi lĩnh vực của đời sống.
Việc chăm lo, tạo điều kiện phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng
cuộc sống của NYT là mô ̣t vấn đề không chỉ ở Viê ̣t Nam mà tấ t cả các quốc
gia trên thế giới đều đă ̣c biệt quan tâm, nghiên cứu và thực hiê ̣n. Chính vì
vậy, ngoài những quy định chung về quyền con người, quyền công dân,
pháp luật còn có những quy định riêng dành cho NYT, bảo đảm quyền cho
NYT. Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật nói chung, cũng như pháp luật, chính sách liên quan đến
việc bảo đảm quyền cho NYT. Pháp luật Việt Nam đã cụ thể hoá pháp luật
quốc tế và vận dụng phù hợp vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Đây là cơ sở pháp lý để đảm bảo thực hiện tốt các quyền của NYT.
Tuy vậy, với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các quan hệ xã hội
trong xã hội, các quy định pháp luật về bảo đảm quyền của NYT cần liên tục
được rà soát, đánh giá và sửa đổi, thay thế cho phù hợp với hoàn cảnh Việt
Nam cũng như pháp luật quốc tế. Và, vấn đề quan trọng không phải là liệt kê


16

bao nhiều quyền mà cần có cơ chế thực thi như thế nào để bảo đảm quyền
của NYT được thực hiện trên thực tế…

Từ những phân tích trên đây ta có thể hiểu: Pháp luật về bảo đảm quyền
của người yếu thế là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận để xác định các quyền, lợi ích hợp pháp mà chủ thể này được hưởng và
hệ thống các phương thức bảo vệ, hiện thực hóa nội dung, giá trị của các
quyền trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo đảm quyền của NYT
Thứ nhất, pháp luật về bảo đảm quyền của NYT bao gồm các quy định
của pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền của công dân và các quy
định về bảo đảm quyền của NYT.
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Pháp luật ghi nhận, xác lập,
củng cố, hoàn thiện quyền con người. Hiến pháp 2013 đã có một chương
riêng (Chương II) quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, trong đó Điều 14 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật”.
Bảo đảm quyền của NYT cũng được pháp luật ghi nhận và đảm bảo
thực thi. Vấn đề này cũng đã được năm bản Hiến pháp qua từng giai đoạn
ghi nhận và được cụ thể hóa ở nhiều văn bản luật của hệ thống pháp luật
Việt Nam. Đặc biệt, nhiều văn bản luật và dưới luật khác cũng quy định cụ
thể về việc bảo đảm quyền của NYT; quy định về hoạt động bảo đảm quyền
của NYT; cơ chế phối hợp liên ngành, giám sát nhằm tạo ra một hệ thống
quản lý và điều phối hiệu quả. Những quy phạm như vậy, đã hình thành nên
một hệ thống các quy phạm quy định trực tiếp đến quyền của NYT và bảo
đảm quyền của NYT.
Thứ hai, pháp luật về bảo đảm quyền của NYT là tổng hợp các quy
phạm pháp luật trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn
hóa.



17

Pháp luật về bảo đảm quyền của NYT ở Việt Nam có 2 nguồn chính đó
là: do Nhà nước ban hành và các điều ước quốc tế mà Việt Nam thừa nhận.
Pháp luật về bảo đảm quyền của NYT có thể nằm trong văn bản luật riêng
hoặc nằm trong nhiều văn bản luật với mức độ, nội dung điều chỉnh khác
nhau.
Pháp luật về bảo đảm quyền của NYT có phạm vi rất rộng, liên quan
đến nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Pháp
luật về bảo đảm quyền của NYT phủ khắp các lĩnh vực quan hệ xã hội như:
quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ lao động, quan hệ hình sự, quan hệ hành
chính... Còn nếu xét ở góc độ ngành luật thì hầu hết các ngành luật của hệ
thống pháp luật Việt Nam đều điều chỉnh các quan hệ xã hội về NYT.
Pháp luật về bảo đảm quyền của NYT ngày càng mang tính toàn diện,
cụ thể phù hợp với các nhóm đối tượng NYT. Nhà nước có nhiều chính sách
để giúp đỡ, tạo điều kiện cho NYT hòa nhập hơn với cộng đồng. Như vậy,
ngoài những quy định về quyền con người, quyền công dân nói chung còn
có các quy định riêng về các quyền đặc thù của từng nhóm đối tượng yếu
thế. Chính vì vậy, việc bảo đảm quyền của NYT không chỉ căn cứ vào
những quy phạm pháp luật riêng quy định về NYT, mà còn liên quan đến
nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Thứ ba, pháp luật về bảo đảm quyền của NYT có sự ảnh hưởng to lớn
của các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa.
Ngay từ thời Hậu Lê, Việt Nam đã có Bộ luật Hồng Đức với nhiều quy
định nhằm bảo vệ quyền lợi, ưu tiên cho các nhóm yếu thế như trẻ em, phụ
nữ, người tàn tật, người thiểu số… Ví dụ, Điều 294 Bộ luật Hồng Đức đã
quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn,
xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm,
chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm

sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất,
không được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã
bị biếm hay bị bãi chức...”


18

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức thể hiện ở tất các lĩnh vực điều
chỉnh của pháp luật.
1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
Để bảo đảm quyền của NYT, nội dung pháp luật về lĩnh vực này phải
bao hàm các nội dung chính sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật xác định nội dung quyền và lợi ích
hợp pháp mà NYT được hưởng.
NYT là một thực thể sống trong xã hội, bởi vậy cũng như những con
người, những công dân bình thường khác họ đương nhiên được hưởng các
quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế cũng như pháp luật ở mỗi quốc
gia.
Nội dung các quyền của người yếu thế cũng chính là nội dung quyền
con người đã được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận có thể chia thành
5 nhóm, bao gồm: nhóm quyền dân sự, nhóm quyền chính trị, nhóm quyền
kinh tế, nhóm quyền xã hội và nhóm quyền văn hóa.
Quyền dân sự chỉ những quyền liên quan đến mối quan hệ giữa công
dân và Nhà nước, ít liên quan đến những quan hệ giữa người dân với nhau.
Quyền dân sự bao gồm việc bảo đảm toàn vẹn cả thể chất và tinh thần, cuộc
sống và an toàn cho cá nhân; bảo vệ họ khỏi mọi sự phân biệt đối xử trên cơ
sở giới tính, chủng tộc, nguồn gốc, tôn giáo… và các quyền tự do cá nhân
như quyền riêng tư, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự

do đi lại. Cụ thể, nhóm quyền dân sự bao gồm: Quyền không bị phân biệt
đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, tự do và
an ninh cá nhân; quyền về xét xử công bằng; quyền về tự do đi lại, cư trú;
quyền được bảo vệ đời tư; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; quyền
kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân.
Quyền chính trị là quyền được tham gia vào các hoạt động xã hội, tham
gia quản lý đất nước của cá nhân bao gồm: Quyền tự do biểu đạt; quyền tự
do lập hội; quyền tự do hội họp một cách hòa bình; quyền tham gia vào đời
sống chính trị.


19

Quyền kinh tế là quyền liên quan đến tài chính cá nhân và việc làm để
bảo đảm cá nhân có đủ khả năng kinh tế để tiếp cận những dịch vụ xã hội cơ
bản như nhà ở, y tế, giáo dục… Các quyền này bao gồm: Quyền được
hưởng, duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng; quyền lao động.
Quyền xã hội là quyền được Nhà nước và xã hội bảo trợ, giúp đỡ để bảo
đảm và nâng cao đời sống của người dân, bao gồm: Quyền được hưởng an
sinh xã hội; quyền được hỗ trợ về gia đình; quyền được hưởng sức khỏe về
thể chất và tinh thần.
Quyền văn hóa là quyền được thụ hưởng, khai thác nền văn hóa và
thành phần của nó trong điều kiện bình đẳng về phẩm giá con người và
không phân biệt đối xử, bao gồm: Quyền giáo dục; quyền được tham gia vào
đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học.
Dựa trên ICCPR và ICESCR, trong luận văn này tác giả sẽ phân loại
các quyền của người yếu thế thành 02 nhóm lớn là: Nhóm các quyền dân sự,
chính trị và nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Ngoài những nhóm quyền này, trên thực tế về mặt nhận thức và pháp
lý, NYT còn có những quyền đặc biệt. Các quyền đặc biệt này là những ưu

tiên đã được pháp lý hóa và mặc định dành cho NYT. Nội dung cụ thể của
các quyền đặc biệt này dựa trên đặc điểm của từng nhóm yếu thế khác nhau.
Việc ghi nhận quyền của NYT nhằm bảo đảm cho họ không chỉ là đối
tượng tiếp thu thụ động mà trở thành chủ thể có quyền, có khả năng tạo
dựng cuộc sống phù hợp bảo đảm lợi ích được phát triển một cách toàn diện
và là cơ sở để các nhà làm luật xây dựng các biện pháp bảo đảm việc NYT
được hưởng đúng các quyền đó.
Thứ hai, các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền và bảo vệ quyền của NYT.
Với mục tiêu thiết lập một môi trường pháp lý tốt nhất cho công tác
bảm đảm thực hiện quyền và bảo vệ quyền của NYT cần xác định trách
nhiệm của các chủ thể bảo đảm cũng như xác định các phương thức bảo
đảm. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên
quan đến NYT thì lợi ích của NYT phải được quan tâm hàng đầu. Nhà nước


20

cũng khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở
trong nước và nước ngoài góp phần bảo đảm quyền của NYT. Nhà nước có
chính sách đầu tư, thực hiện xã hội hóa, mở rộng hợp tác quốc tế để phát
triển sự nghiệp bảo vệ quyền lợi của NYT; tiếp tục xây dựng mạng lưới công
tác xã hội, cộng tác viên, tình nguyện viên chuyên trách công tác bảo vệ lợi
ích của NYT khi gặp những vấn đề khó khăn trong cuộc sống; tăng cường
huy động và sử dụng nguồn lực để chăm sóc sức khỏe, bảo vệ, xây dựng môi
trường sống an toàn và lành mạnh cho NYT ngày càng được đảm bảo.
Cơ chế tổ chức thực thi các quy định pháp luật về quyền của NYT, đó
là cơ chế phối hợp đồng bộ giữa tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội, nhà trường, gia đình. Nhà nước cần có một cơ chế giám sát quyền của
NYT, đó là sự kết nối giữa hoạch định chính sách, lập pháp và thực thi; đánh

giá tình hình quyền của NYT, phân tích những yếu tố ảnh hưởng lên quyền
của NYT và đưa ra những khuyến nghị để cải thiện tình hình. Ngoài ra, cần
xây dựng cơ chế phát hiện, xử lý các vi phạm quyền của NYT hoạt động
kiểm tra, phát hiện và xử lý đúng, nghiêm minh, kịp thời các vi phạm pháp
luật về quyền của NYT là những biện pháp quan trọng, góp phần phòng,
chống, hạn chế các vi phạm pháp luật đồng thời làm củng cố và tăng cường
lòng tin của cá nhân, công dân, gia đình và xã hội vào nhà nước và pháp
luật, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương của đất nước. Bên cạnh đó, cần quy
định về sự cam kết, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, điều này có ảnh
hưởng tích cực đến việc bảo đảm thực hiện quyền của NYT một cách đầy đủ
hơn.
1.2.4. Hình thức của pháp luật về bảo đảm quyền của người yếu thế
Hình thức của pháp luật là sự thể hiện ra bên ngoài của pháp luật, là
những cái chứa đựng nội dung các quy tắc hành vi theo ý chí của Nhà nước.
Hình thức của pháp luật là các cách thức và các văn bản để thông qua đó mà
các quy phạm pháp luật có thể tồn tại và có giá trị pháp lý.
Hình thức của pháp luật chủ yếu ở nước ta hiện nay là các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng


×