Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ HOÀNG MỸ LINH

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TỪ HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ HOÀNG MỸ LINH

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TỪ HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số:



60380108

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Ngọc

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Đỗ Hoàng Mỹ Linh


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại học, Khoa Pháp
luật Quốc tế và các thầy cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện
học tập và nghiên cứu cho học viên cao học.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Trần Minh
Ngọc, khoa Pháp luật Quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội là người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện luận văn thạc sỹ. TS. Trần Minh Ngọc đã
tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi về chuyên môn và phương pháp
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn với kết quả tốt.

Tôi xin cảm ơn bố mẹ và những người thân trong gia đình đã luôn tin
tưởng, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Sự quan tâm
từ phía gia đình luôn luôn là nền tảng vững chắc để tôi chuyên tâm vào công
việc nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ, động viên từ bạn bè cũng
góp phần tạo động lực cho tôi cố gắng để hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô trong Hội đồng đánh
giá luận văn thạc sĩ đã nhận xét, góp ý để tôi hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Đỗ Hoàng Mỹ Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CISG

Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

ICC
INCOTERMS

Phòng Thương mại quốc tế
Các điều khoản thương mại quốc tế


PECL

Bộ nguyên tắc về Luật Hợp đồng Châu Âu

PICC

Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế

TPQT

Tư pháp quốc tế

UNIDROIT
VIAC

Viện thống nhất Tư pháp quốc tế
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 6
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT XUNG
ĐỘT PHÁP LUẬT TỪ HỢP ĐỒNG............................................................................ 6
1.1.

Khái quát về giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế ....................... 6

1.1.1. Khái niệm xung đột pháp luật ............................................................................... 6
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế.......................... 7

1.1.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế ...................... 9
1.1.3.1.

Sử dụng quy phạm pháp luật thực chất ........................................................... 9

1.1.3.2.

Sử dụng quy phạm pháp luật xung đột.......................................................... 11

1.1.3.3.

Áp dụng tương tự pháp luật .......................................................................... 12

1.2.

Giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng ......................................................... 12

1.2.1. Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế ......................................................... 12
1.2.2. Khái niệm giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng ........................................ 17
1.3.

Nguồn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng ........................................................... 23

1.4.

Ý nghĩa của việc giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng trong tư pháp quốc

tế

............................................................................................................................. 25


Chƣơng 2. QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TỪ HỢP
ĐỒNG TẠI VIỆT NAM .............................................................................................. 29
2.1.

Giải quyết xung đột pháp luật từ nội dung hợp đồng.......................................... 30

2.1.1. Giải quyết xung đột pháp luật từ nội dung hợp đồng theo quy định của pháp luật
quốc tế và pháp luật nước ngoài..................................................................................... 30
2.1.1.1.

Điều ước quốc tế và các Bộ nguyên tắc về hợp đồng ................................... 30

2.1.1.2.

Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới .................................................. 35


2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật từ nội dung hợp đồng theo quy định của điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên ................................................................................ 41
2.1.3. Giải quyết xung đột pháp luật từ nội dung hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việt Nam ........................................................................................................................ 43
2.1.4. Nhận xét chung.................................................................................................... 49
2.2.

Giải quyết xung đột pháp luật từ hình thức hợp đồng ........................................ 53

2.2.1. Mối liên hệ giữa hình thức hợp đồng và hiệu lực hợp đồng ............................... 53
2.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật từ hình thức hợp đồng theo quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật nước ngoài.............................................................................. 56

2.2.2.1.

Điều ước quốc tế và các Bộ nguyên tắc về hợp đồng ................................... 56

2.2.2.2.

Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới .................................................. 57

2.2.3. Giải quyết xung đột pháp luật từ hình thức hợp đồng theo quy định của điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên ......................................................................... 59
2.2.4. Giải quyết xung đột pháp luật từ hình thức hợp đồng theo quy định của pháp
luật Việt Nam ................................................................................................................. 61
2.2.5. Nhận xét chung.................................................................................................... 64
2.3.

Giải quyết xung đột pháp luật từ tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng 65

2.3.1. Giải quyết xung đột pháp luật từ tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng
theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài ....................................... 65
2.3.1.1.

Điều ước quốc tế ........................................................................................... 65

2.3.1.2.

Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới .................................................. 65

2.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật từ tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng
theo quy định của các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết ................. 67
2.3.3. Giải quyết xung đột pháp luật từ tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng

theo quy định của pháp luật Việt Nam ........................................................................... 68
2.3.4. Nhận xét chung.................................................................................................... 70


Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TỪ HỢP
ĐỒNG ............................................................................................................................ 73
3.1.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam về giải quyết

xung đột pháp luật từ hợp đồng ..................................................................................... 73
3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam về giải

quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng............................................................................ 77
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ........................................................................................... 77
3.2.2. Kiến nghị đối với cơ quan áp dụng pháp luật ..................................................... 83
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực .................................................................. 84
3.2.4. Hoàn thiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ........................................ 85
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 89


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài


Việt Nam bắt đầu tiến hành Đổi Mới vào năm 1986, chính thức bắt đầu
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ đặc biệt hội nhập
sâu và toàn diện vào “sân chơi” của thế giới kể từ năm 2007 khi Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Trong bối cảnh hội nhập, sự giao lưu giữa các quốc gia sẽ dẫn đến phát
sinh các mối quan hệ dân sự giữa các cá nhân, pháp nhân của các quốc gia với
nhau mà đòi hỏi phải có một hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ này. Bên cạnh đó, pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau, do xuất
phát từ điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và điều kiện lịch sử hình thành của
mỗi quốc gia đó. Chính sự khác nhau về hệ thống pháp luật giữa các quốc gia
và sự phát sinh của các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài dẫn đến hiện
tượng xung đột pháp luật khi điều chỉnh một quan hệ pháp luật có yếu tố nước
ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực hợp đồng.
Pháp luật Việt Nam cũng không đứng ngoài hiện tượng đó, khi mà từ Bộ
luật dân sự 1995 đã tồn tại quy định liên quan đến giải quyết xung đột pháp
luật. Đến Bộ luật dân sự 2005 đã dành riêng Phần thứ bảy quy định về Quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Song những quy định về giải quyết xung đột
pháp luật tại Phần thứ bảy này còn tồn tại điểm bất cập, chưa phù hợp hoặc
gây khó khăn trong việc áp dụng trên thực tế.
Năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật dân sự 2015, một
trong các bộ luật quan trọng bậc nhất của quốc gia với những quan điểm pháp
luật, quy phạm pháp luật tiên tiến, hiện đại và phù hợp với tình hình thực tiễn
tại Việt Nam hiện nay.
Ngày 01/01/2017 là ngày đầu tiên Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực tại
Việt Nam. Đứng trước sự đổi mới quan trọng đó, đặc biệt là các quy định của
Bộ luật dân sự 2015 về giải quyết xung đột pháp luật cũng được sửa đổi, bổ


2


sung theo hướng có lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, đồng thời
tiệm cận với xu thế pháp luật chung của thế giới.
Quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài
nói riêng là đặc biệt phổ biến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
khi nhu cầu hợp tác trao đổi của các chủ thể được mở rộng ra khỏi biên giới
quốc gia. Việc xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng điều chỉnh
hợp đồng luôn là mối quan tâm cân nhắc của các bên khi hợp đồng có yếu tố
nước ngoài không đương nhiên được điều chỉnh bởi pháp luật của một quốc
gia nhất định hay một điều ước quốc tế, tập quán quốc tế nếu các bên không
thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Như vậy, xung đột pháp luật
là hiện tượng không thể tránh khỏi mà tư pháp quốc tế, điều ước quốc tế và
pháp luật quốc gia đều có những nguyên tắc và quy định để giải quyết. Việc
nghiên cứu riêng một đề tài về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng theo
quy định của pháp luật Việt Nam là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nhất là khi
Bộ luật dân sự 2015 mới có hiệu lực, và không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu trước đó.
Do đó, bằng việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết xung đột pháp luật từ
hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” để đưa ra cái nhìn tổng quát
về các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến vấn đề xung đột
pháp luật hợp đồng và hướng giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.
Đồng thời, luận văn đưa ra quan điểm về mặt tiến bộ và hạn chế của quy định
tại Bộ luật dân sự 2015 liên quan đến giải quyết xung đột pháp luật từ hợp
đồng, từ đó đề xuất để hoàn thiện hơn vấn đề áp dụng pháp luật Việt Nam về
giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu trong lĩnh vực xung đột pháp luật từ hợp đồng tại Việt Nam

đã có một số đề tài như:
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Bá Chiến về “Cơ sở lý luận và thực tiễn về
hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam”, liên quan đến
hợp đồng thương mại quốc tế có Luận án tiến sĩ của Bùi Thị Thu về “Luật áp


3

dụng điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ
của Đặng Thái Hưng về “Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng”, Luận
văn thạc sĩ của Hà Thị Diễm về “Một số quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài
trong Bộ luật dân sự 2005 – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”.
Trong các cuốn sách chuyên môn về tư pháp quốc tế như Giáo trình Tư
pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội (2009); Nguyễn Bá Diến (chủ
biên, 2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (phần riêng); ... đã có những
phần nội dung viết về hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Các bài báo nghiên cứu khoa học đã được đăng trên các tạp chí chuyên
ngành có đề cập đến hợp đồng trong tư pháp quốc tế như Nguyễn Tiến Vinh,
“Bàn về việc hoàn thiện các quy định trong Phần VII “Quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2003); Đỗ Văn Đại, “Tư
pháp Quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng” (Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10/2003); Trần Minh Ngọc, “Những điểm mới
quan trọng trong Phần thứ 5 của Bộ luật dân sự năm 2015” (Tạp chí Luật
học, số 06/2016).
Trong giới nghiên cứu đã có những đề tài, công trình nghiên cứu chung
về xung đột pháp luật, cũng như vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong
lĩnh vực nhất định như hôn nhân gia đình, thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Riêng lĩnh vực hợp đồng, đã có Luận văn của tác giả Đặng Thái Hưng, song
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và phân tích đánh giá đối với

xung đột pháp luật từ hợp đồng kể từ khi Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự
2015 tại Việt Nam.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy phạm pháp luật thực chất và
quy phạm pháp luật xung đột về hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong các
Điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài, các hiệp định tương trợ tư pháp mà
Việt Nam đã ký kết và pháp luật Việt Nam.


4

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào phân tích các quy định về
giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định
của pháp luật Việt Nam, mà chủ yếu là Bộ luật dân sự năm 2015 và đưa ra
nhận xét, từ đó kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam
về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.
4.

Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích, đánh giá về mặt pháp luật và đề xuất
những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam
về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
− Phân tích những vấn đề lý luận về giải quyết xung đột pháp luật từ
hợp đồng, đưa ra được khái niệm giải quyết xung đột pháp luật từ
hợp đồng.

− Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015.
− Đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.
5.

Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả áp dụng những phương pháp nghiên
cứu: thu thập thông tin, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, đánh giá,
nghiên cứu lí luận và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu. Các phương pháp
này được sử dụng linh hoạt trong các phần khác nhau của luận văn.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa khoa học của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn, đặc
biệt là các luận điểm về khái niệm, nội dung pháp luật về giải quyết xung đột
pháp luật từ hợp đồng góp phần bổ sung, hoàn thiện khoa học luật Tư pháp
quốc tế Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng.


5

Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn, đặc
biệt là các luận điểm về phân tích pháp luật, yêu cầu và giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp
đồng đã đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn, giải quyết những vấn đề đang
đặt ra trong việc áp dụng pháp luật Tư pháp quốc tế Việt Nam. Luận văn góp

phần là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và áp dụng pháp luật về Tư pháp
quốc tế tại Việt Nam.
7.

Bố cục của luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết xung đột pháp luật
từ hợp đồng
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp
đồng
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng


6

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT TỪ HỢP ĐỒNG
1.1.

Khái quát về giải quyết xung đột pháp luật trong tƣ pháp quốc tế

1.1.1. Khái niệm xung đột pháp luật
Thuật ngữ “xung đột” bắt nguồn từ chữ Latinh Collisio, đó là hiện tượng
khi mà cùng một vấn đề nhưng các quy phạm pháp luật khác nhau lại quy
định một cách khác nhau, hoặc giữa các hệ thống pháp luật khác nhau quy

định một cách khác nhau.1
Theo Từ điển Luật học, xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay
nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể,
do có sự khác nhau giữa pháp luật của các quốc gia hoặc do tính chất đặc thù
của chính đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.2
Đối tượng điều chỉnh của TPQT là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, các quan hệ TPQT thường liên quan đến nhiều
hệ thống pháp luật. Nếu các quốc gia hữu quan chưa ký kết với nhau điều ước
quốc tế về nguyên tắc áp dụng pháp luật thì có thể phát sinh hiện tượng là
cùng một quan hệ TPQT sẽ có nhiều hệ thống pháp luật tham gia điều chỉnh.
Hiện tượng này, trong khoa học TPQT được gọi là xung đột pháp luật.
Tóm lại, khi xảy ra một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài, thì sẽ có ít nhất là hai hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể tham
gia điều chỉnh quan hệ đó, mà pháp luật của các nước khác nhau thì luôn có
sự khác nhau. Như vậy, xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ
thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự
theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
1

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), Nxb.
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 101.
2

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa & Nxb. Tư pháp, tr. 873.


7

Để điều chỉnh một quan hệ dân sự không có yếu tố nước ngoài tham gia,
pháp luật của chính quốc gia đó được áp dụng. Trong trường hợp này không

có xung đột pháp luật xảy ra. Để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài tham gia, về nguyên tắc pháp luật của các quốc gia khác nhau có
liên quan có thể được áp dụng để điều chỉnh, mà pháp luật của các quốc gia
khác nhau là khác nhau. Vậy thì vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu nguyên nhân và
cách giải quyết xung đột pháp luật trong TPQT.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế
Thứ nhất, do đặc điểm về quan hệ xã hội thuộc TPQT điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của TPQT là các quan hệ mang tính chất dân sự
theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Quan hệ do TPQT điều chỉnh luôn có
yếu tố nước ngoài tham gia và luôn liên quan đến ít nhất là hai hệ thống pháp
luật. Cũng chính vì tính chất quốc tế nên mới xuất hiện xung đột pháp luật.
Trong sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, xuất hiện ngày càng nhiều sự lưu chuyển các dòng lao động,
dòng vốn giữa các quốc gia, các cuộc hôn nhân quốc tế, sở hữu tài sản ở nước
ngoài, hay việc ký kết các hợp đồng với đối tác nước ngoài... Các quan hệ này
luôn tiềm ẩn vấn đề xung đột pháp luật vì luôn liên quan đến hệ thống pháp
luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Xung đột pháp luật phát sinh từ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài. Tuy nhiên, không phải quan hệ nào trong lĩnh vực dân sự cũng
phát sinh xung đột pháp luật. Ví dụ như quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ, là
quan hệ pháp luật mang tính chất lãnh thổ triệt để. Quyền sở hữu trí tuệ xuất
hiện ở nước nào thì chỉ có hiệu lực pháp luật tại nước đó, không thể áp dụng
pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của nước này tại nước khác. Ngoài ra, trong
lĩnh vực tố tụng dân sự, chỉ đặt ra vấn đề xung đột về thẩm quyền.
Trong lĩnh vực luật công (luật hình sự, luật hành chính) không có hiện
tượng xung đột pháp luật, dù là quan hệ đó có yếu tố nước ngoài. Xung đột
pháp luật không xuất hiện trong quan hệ thuộc lĩnh vực hình sự, hành chính
bởi đây là những lĩnh vực có mục đích bảo vệ trật tự công của mỗi quốc gia,



8

luôn mang tính chất lãnh thổ tuyệt đối, có tính chất mệnh lệnh bắt buộc với
mọi đối tượng, và sẽ không đặt ra vấn đề lựa chọn giữa các hệ thống pháp luật
để giải quyết một quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này. Mọi hành vi vi phạm
luật công của một quốc gia luôn áp dụng quy phạm pháp luật của chính quốc
gia đó để điều chỉnh.
Thứ hai, do sự khác nhau giữa pháp luật của các quốc gia.
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai
cấp được xây dựng trên cơ sở hạ tầng, nó phản ánh và chịu sự chi phối của cơ
sở hạ tầng. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng nhất định sẽ sản sinh ra một kiến
trúc thượng tầng phù hợp.3 Pháp luật vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã
hội. Vì vậy, pháp luật có mối quan hệ biện chứng với kinh tế, chính trị, đạo
đức và nhà nước. Mà chế độ kinh tế của mỗi nước, đường lối chính sách của
mỗi giai cấp thống trị, quan điểm của mỗi cộng đồng về những phạm trù
thuộc đời sống xã hội đều khác nhau.
Pháp luật với tư cách là công cụ cơ bản điều chỉnh các quan hệ xã hội,
pháp luật ở mỗi quốc gia là khác nhau và được quyết định bởi các quan hệ
kinh tế - xã hội, bởi đường lối chính sách của giai cấp cầm quyền, bởi truyền
thống lịch sử, đạo đức, tôn giáo, v.v. Đồng thời, cũng chính vì đặc điểm kinh
tế - xã hội, chính trị, lịch sử, đạo đức, tôn giáo không giống nhau đã tạo nên
sự khác nhau về pháp luật giữa các quốc gia. Ví dụ, quy định về điều kiện kết
hôn ở mỗi quốc gia là khác nhau, hay quy định về hình thức hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế có quốc gia chỉ quy định được bằng văn bản song có
quốc gia chấp nhận cả hai hình thức văn bản và bằng miệng.
Sự khác nhau về pháp luật này có thể ở các nước có chế độ kinh tế, chính
trị, xã hội khác nhau hoặc ở các nước có cùng chế độ kinh tế, chính trị, nhưng
do khác nhau về phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa, sự phát triển không
đồng đều.


3

Xem Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 136 – 141.


9

Vì vậy, dựa trên nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau thì pháp
luật của các quốc gia khác nhau sẽ có sự khác nhau, dẫn đến việc quy định nội
dung điều chỉnh các quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình, lao động
cũng sẽ khác nhau. Đây chính là một nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh
xung đột pháp luật.
Như vậy, xung đột pháp luật xuất phát từ chính hai nguyên nhân nêu
trên. Cần lưu ý rằng, xung đột pháp luật chỉ xuất hiện khi thực tế nảy sinh
quan hệ TPQT, khi đó giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia liên quan
mới có khả năng tham gia điều chỉnh quan hệ TPQT đó chứ không phải cứ
khi hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề là đã phát sinh xung đột pháp luật.
1.1.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là việc các quốc gia lựa chọn
một hệ thống pháp luật nào đó để áp dụng giải quyết một quan hệ pháp luật
phát sinh. Xung đột pháp luật thường được giải quyết bằng hai phương pháp
chủ yếu đó là sử dụng các quy phạm pháp luật thực chất (phương pháp thực
chất) và sử dụng các quy phạm pháp luật xung đột (phương pháp xung đột).
1.1.3.1. Sử dụng quy phạm pháp luật thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng dựa trên cơ sở hệ thống các quy
phạm pháp luật thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Cùng với quy phạm pháp luật xung đột, quy phạm pháp luật thực
chất là một trong hai thành tố cơ bản của hệ thống quy phạm TPQT.

Quy phạm thực chất là quy phạm pháp luật trực tiếp quy định quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ TPQT. Quy phạm thực chất
bao gồm quy phạm thực chất thống nhất và quy phạm thực chất thông thường.
Trước tiên, quy phạm thực chất thống nhất là quy phạm được các bên
thống nhất quy định trong các ĐƯQT. Một số ĐƯQT chứa đựng quy phạm
thực chất thống nhất như Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước Berne 1886 về bảo hộ các tác


10

phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công
nghiệp. Ngoài các ĐƯQT đa phương, các quốc gia còn ký kết các ĐƯQT
song phương trong lĩnh vực TPQT. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã
ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự với 18 quốc gia.4
Các quy phạm thực chất thống nhất còn được ghi nhận trong các tập
quán quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Phổ
biến nhất hiện nay trong quan hệ thương mại quốc tế, các thương nhân thường
sử dụng INCOTERMS 2010 với sự đa dạng các điều kiện giao nhận hàng hóa
như FOB (giao hàng lên tàu), CIF (tiền hàng và cước phí), EXW (giao tại
xưởng), DAP (giao hàng tại nơi đến).5
Khi đã có các ĐƯQT hoặc tập quán quốc tế chứa đựng các quy phạm
thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền cũng như các bên tham gia vào
quan hệ TPQT sẽ căn cứ vào đó để xem xét giải quyết vấn đề trên cơ sở áp
dụng ngay các quy phạm đó. Việc này cũng loại trừ việc phải chọn luật và áp
dụng luật nước ngoài.
Quy phạm pháp luật thực chất thông thường (hay còn gọi là quy phạm
pháp luật thực chất nội địa) là quy phạm được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật quốc gia như Bộ luật dân sự 2015, Luật thương mại 2005,
Luật đầu tư 2014, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật hàng hải 2015...

Nhóm quy phạm này thường nằm rải rác trong các văn bản pháp luật chuyên
ngành về thương mại, đầu tư, cư trú của người nước ngoài.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật Việt Nam chủ
yếu sử dụng quy phạm thực chất thông thường, bởi nó phụ thuộc vào quan
điểm và chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ
chịu sự điều chỉnh chủ yếu của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư là Việt Nam
4

Thống kê từ Danh mục các hiệp định về tương trợ tư pháp và pháp lý giữa Việt Nam và các nước, tại địa
chỉ:
/>75-6a32-4215-afeb-47d4bee70eee&ID=414, ngày truy cập 08/08/2017.
5

INCOTERMS là tập hợp các điều kiện giao dịch thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ICC tập
hợp và xuất bản từ năm 1936, trải qua các lần sửa đổi và gần đây nhất là phiên bản INCOTERMS năm 2010.


11

liên quan đến các vấn đề cấp phép, hoạt động, quyền và nghĩa vụ. Khi phát
sinh tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp thường áp dụng pháp luật Việt
Nam về đầu tư để giải quyết.
Như vậy, bằng việc áp dụng quy phạm pháp luật thực chất thống nhất và
quy phạm pháp luật thực chất thông thường, có thể giải quyết được hiện
tượng xung đột pháp luật phát sinh trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Phương pháp thực chất này thường được sử dụng trong một số lĩnh vực
cần chú trọng đến lợi ích quốc gia, hoặc khi lợi ích quốc gia đã được dung
hòa với lợi ích quốc tế.
1.1.3.2. Sử dụng quy phạm pháp luật xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp mà cơ quan có thẩm quyền áp

dụng các quy phạm pháp luật xung đột nhằm xác định hệ thống pháp luật cụ
thể sẽ được áp dụng điều chỉnh các quan hệ của TPQT.
Quy phạm pháp luật xung đột bao gồm quy phạm pháp luật xung đột
thống nhất và quy phạm pháp luật xung đột thông thường (quy phạm pháp
luật xung đột nội địa).
Quy phạm pháp luật xung đột thống nhất là những quy phạm được quy
định trong các ĐƯQT. Ví dụ: Điều 23 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam
– Ba Lan quy định về kết hôn như sau: “Hình thức kết hôn được xác định theo
pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hôn. Về điều kiện kết hôn, mỗi bên
đương sự phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà người đó là công dân.”
Quy phạm pháp luật xung đột nội địa là các quy phạm pháp luật xung
đột được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Ví dụ
Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Năng lực lập di chúc, thay
đổi hoặc huỷ bỏ di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập
di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc.”
Việc áp dụng các quy phạm xung đột nhằm giải quyết xung đột pháp luật
là phương pháp chính thống từ xưa đến nay của TPQT và là phương pháp chủ
yếu điều chỉnh hầu hết các quan hệ TPQT hiện nay.


12

1.1.3.3. Áp dụng tương tự pháp luật
Trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ
thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế nói riêng không tránh khỏi có
những trường hợp không có quy phạm trong điều ước quốc tế hoặc quy phạm
pháp luật trong nước để điều chỉnh. Điều này xuất phát từ quá trình phát triển
mạnh mẽ của giao lưu dân sự quốc tế, pháp luật quốc gia cũng như pháp luật
quốc tế dù phát triển nhưng đôi khi cũng không thể dự liệu hết được mọi tình
huống có thể xảy ra. Trong các trường hợp đó, pháp luật của các nước đều có

quy định có thể vận dụng “tương tự pháp luật” để điều chỉnh.6
Tại Việt Nam, áp dụng tương tự pháp luật được pháp luật ghi nhận tại
Điều 6 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, việc áp dụng tương tự pháp luật khi áp
dụng cần đáp ứng các điều kiện:
− Quan hệ phát sinh phải thuộc lĩnh vực mà TPQT điều chỉnh;
− Pháp luật Việt Nam, ĐƯQT và tập quán đều không có quy định
điều chỉnh;
− Có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tương tự.
Đối với những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh nhưng
chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh mà phải áp dụng quy phạm điều chỉnh
một quan hệ tương tự (gần giống quan hệ cần điều chỉnh) cho thấy sự linh
hoạt của pháp luật song có thể dẫn đến kết quả giải quyết thiếu khách quan,
chính xác.
1.2.

Giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng

1.2.1. Khái niệm hợp đồng trong tư pháp quốc tế
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng lan rộng đã
thúc đẩy sự phát sinh mạnh mẽ của quan hệ hợp đồng. Hợp đồng với tư cách
là công cụ pháp lý cơ bản trong việc điều chỉnh các quan hệ và giao dịch về
6

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), Nxb.
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 116.


13

dân sự, thương mại, đầu tư, lao động đã và đang trở thành một vấn đề trọng

tâm mà các quốc gia, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân quan tâm.
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.7 Chế định hợp đồng luôn chiếm vị trí trung
tâm và được nhà làm luật thiết kế với dung lượng lớn trong hệ thống pháp luật
của mỗi quốc gia. Bởi khi xã hội phát triển, hợp đồng ngày càng được sử
dụng như là thước đo, chuẩn mực ứng xử giữa các chủ thể trong các lĩnh vực
dân sự, kinh doanh, thương mại và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Khác với quan hệ hợp đồng trong nước, hợp đồng trong TPQT có những
đặc trưng riêng. Nội dung nghiên cứu về hợp đồng trong TPQT chính là các
quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (hay còn gọi là quan hệ hợp đồng có
yếu tố nước ngoài).
Cùng với sự bùng nổ và phát triển của thương mại quốc tế, các loại hợp
đồng ngày càng phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực thể hiện ở
nhiều loại hợp đồng quốc tế phổ biến như: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng đầu tư, hợp đồng vận tải, hợp đồng nhượng
quyền thương mại, hợp đồng chuyển giao công nghệ...
Hợp đồng trong TPQT được hiểu là hợp đồng có yếu tố nước ngoài, hay
nói cách khác, “yếu tố nước ngoài” cũng chính là tính chất “quốc tế”. Để phân
biệt các hợp đồng trong nước và hợp đồng trong TPQT, cần xác định tính chất
“quốc tế” của hợp đồng. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận
và thực tiễn bởi nó gắn liền với việc xác định pháp luật áp dụng đối với hợp
đồng đó. Nếu hợp đồng trong nước chỉ thuần túy chịu sự điều chỉnh của pháp
luật trong nước thì các hợp đồng có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
Hiện nay, pháp luật quốc tế hay pháp luật quốc gia và tập quán quốc tế
đều xác định tính chất “quốc tế” của hợp đồng theo những tiêu chuẩn khác
nhau. Dưới góc độ pháp lý, một hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hợp đồng
7

Xem Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015.



14

bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý khác nhau. Thông thường, có một số
dấu hiệu để xác định tính “quốc tế” của hợp đồng như các bên giao kết hợp
đồng có quốc tịch khác nhau, các bên giao kết có nơi cư trú hoặc có trụ sở ở
các quốc gia khác nhau, nơi giao kết hoặc nơi thực hiện hợp đồng ở nước
ngoài khác với quốc gia mà một trong các bên có quốc tịch...
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật quốc tế.
Điều 1 Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế quy định:
1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các
bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc:
b. Khi theo các quy tắc Tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật
của nước thành viên Công ước này.
Như vậy, Công ước Viên xác định tiêu chí các bên có trụ sở thương mại
ở các quốc gia khác nhau là dấu hiệu xác định tính chất “quốc tế” hay “yếu tố
nước ngoài” của hợp đồng.
Điều 10 của Công ước còn quy định:
a. Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương
mại của họ sẽ được coi là trụ sở nào đó có mối liên hệ chặt chẽ nhất
đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới
những tình huống mà các bên đều biết hoặc đều dự đoán được vào
bất kỳ lúc nào trước hoặc vào thời điểm hợp đồng.
b. Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường
xuyên của họ.
Điều 1 Phụ lục của Công ước La Hay năm 1964 về luật thống nhất về
mua bán hàng hóa quốc tế quy định: Công ước này được áp dụng đối với hợp

đồng mua bán các động sản hữu hình giữa các bên có trụ sở thương mại trên
lãnh thổ các quốc gia khác nhau trong các trường hợp sau:


15

Thứ nhất, hợp đồng liên quan đến động sản hữu hình mà trong thời gian
ký kết hợp đồng động sản đó được chuyên chở hoặc sẽ được chuyên chở từ
lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh thổ của quốc gia khác.
Thứ hai, hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào hàng được thực
hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
Thứ ba, việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia
khác với quốc gia nơi tiến hành hành vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận
chào hàng.
Như vậy, theo Công ước La Hay năm 1964, hợp đồng mua bán hàng hóa
có tính “quốc tế” khi hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở tại các quốc
gia khác nhau và phải thỏa mãn một trong ba điều kiện quy định nêu trên.
Theo Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế (viết tắt là PICC)
của Viện thống nhất Tư pháp quốc tế (UNIDROIT), phần bình luận tại Lời
mở đầu của PICC nêu rằng:
Tính quốc tế của hợp đồng có thể xác định bằng nhiều cách. Những cách
này được công nhận cả trên phạm vi luật pháp quốc tế và phạm vi luật pháp
quốc gia, từ việc căn cứ vào trụ sở hay nơi cư trú thường xuyên của các bên
tại các quốc gia khác nhau cho đến việc áp dụng những tiêu chí tổng quát hơn
như việc đánh giá hợp đồng “có mối liên hệ mật thiết với hơn một quốc gia”,
hay hợp đồng “đòi hỏi sự lựa chọn giữa pháp luật của các quốc gia khác
nhau”, hay hợp đồng “có ảnh hưởng đến các lợi ích trong thương mại quốc
tế”.
Theo PICC, quan niệm về hợp đồng có tính “quốc tế” nên được giải
thích theo nghĩa rộng nhất, chỉ không coi là hợp đồng không có tính chất quốc

tế khi nó không có bất kỳ một yếu tố quốc tế nào, nghĩa là tất cả các yếu tố cơ
bản của hợp đồng chỉ liên quan đến một quốc gia duy nhất.8

8

Xem Nhà Pháp luật Việt – Pháp (2010), Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế
2004, Nxb. Từ điển bách khoa, tr. 32 – 33.


16

Như vậy, theo pháp luật quốc tế, tính chất “quốc tế” của hợp đồng chủ
yếu dựa trên tiêu chí “lãnh thổ”, chủ yếu là giữa các bên có trụ sở thương mại
ở các quốc gia khác nhau.
Thứ hai, theo pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, Bộ luật dân sự 2015 đã có hiệu lực thay thế cho Bộ luật dân sự
2005. Theo đó, một hợp đồng được xác định là hợp đồng có yếu tố nước
ngoài và thuộc sự điều chỉnh của TPQT Việt Nam nếu thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
− Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài;
− Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy
ra tại nước ngoài;
− Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.9
Nét khác biệt của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005 và văn
bản hướng dẫn thi hành về “yếu tố nước ngoài” hay tính chất “quốc tế” gồm
chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng của quan hệ.
Về chủ thể, khoản 2 Điều 663 Bộ luật dân sự 2015 đã không còn coi cơ

quan, tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một trong
các chủ thể của quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài nữa. Ở đây, chỉ cần
xét đến yếu tố có quốc tịch Việt Nam hay không để xác định yếu tố nước
ngoài đối với chủ thể là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Về cơ bản, có
thể nói địa vị pháp lý của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được coi như
người Việt Nam ở trong nước. Tuy nhiên, việc loại bỏ đối tượng chủ thể là tổ
chức nước ngoài có thể dẫn đến tình huống thực tế là khi có một tổ chức nước
ngoài không có tư cách pháp nhân tham gia vào quan hệ hợp đồng tại Việt
9

Khoản 2 Điều 663 Bộ luật dân sự 2015.


17

Nam với một pháp nhân Việt Nam. Vậy trường hợp này nếu chiếu theo quy
định tại Bộ luật dân sự 2015, thì dường như không thuộc phạm vi điều chỉnh
của TPQT Việt Nam.
Về sự kiện pháp lý, bên cạnh các sự kiện pháp lý là căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài kế thừa Điều 758 Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật
dân sự 2015 bổ sung thêm sự kiện pháp lý là “thực hiện” và quy định ngắn
gọn nơi xảy ra các sự kiện pháp lý là “xảy ra tại nước ngoài”.
Về đối tượng của hợp đồng, Bộ luật dân sự 2015 đã thay thuật ngữ “tài
sản” bằng thuật ngữ “đối tượng” của quan hệ đó ở nước ngoài. Việc thay đổi
này đã mở rộng phạm vi đối tượng đáp ứng nhu cầu đa dạng của các bên, theo
đó đối tượng của quan hệ hợp đồng có thể là vật chất hoặc phi vật chất, là cái
mà các bên hướng đến khi tham gia vào quan hệ hợp đồng.
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên đồng thời cũng là luật của các
bên. Để xác định được hợp đồng có được thừa nhận và có hiệu lực pháp lý

hay không cần phải căn cứ vào một hệ thống pháp luật nhất định. Do đó, hợp
đồng luôn luôn phải có mối liên hệ với một hệ thống pháp luật nhất định,
không thể có hợp đồng nằm ngoài các quy định của pháp luật.
Như đã đề cập, quan hệ do TPQT điều chỉnh luôn có yếu tố nước ngoài
tham gia và luôn liên quan đến ít nhất là hai hệ thống pháp luật. Cũng chính vì
tính chất quốc tế nên mới xuất hiện xung đột pháp luật. Quan hệ hợp đồng là
một trong những quan hệ do TPQT điều chỉnh nên cũng không thể nằm ngoài
hiện tượng xung đột pháp luật.
1.2.2. Khái niệm giải quyết xung đột pháp luật từ hợp đồng
Khi nghiên cứu xung đột pháp luật từ hợp đồng, cần hiểu rằng xung đột
pháp luật từ hợp đồng là hiện tượng trong TPQT chứ không phải trong hệ
thống pháp luật quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, xung đột pháp luật có thể được hiểu
là sự mâu thuẫn, không thống nhất giữa các quy định của các văn bản luật


×