Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Hoạt động giám sát tối cao của quốc hội theo quy định của pháp luật lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.08 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KHOUNXAY PHOMMIXAY

ĐỀ TÀI
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI
GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số

: 60380102

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHẠM QUÝ TỲ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích


dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Khounxay PHOMMIXAY


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ĐBQH

: Đại biểu Quốc hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

Nxb

: Nhà xuất bản

TAND


: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN GIÁM SÁT TỐI
CAO VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI THEO PHÁP
LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH ............................................6

1.1. Một số vấn đề chung về quyền giám sát tối cao của Quốc hội ...................6
1.1.1. Khái niệm giám sát và quyền giám sát tối cao của Quốc hội ...................6
1.1.2. Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động thanh tra,

kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan nhà nước khác ..........................................15
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ...........................19
1.2. Một số vấn đề chung về giám sát tối cao của Quốc hội theo quy định của
pháp luật Lào và Việt Nam hiện hành dƣới góc độ so sánh ...........................20
1.2.1. Mục đích, nội dung giám sát tối cao của Quốc hội ................................20
1.2.2. Đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội ..................................22
1.2.3. Nguyên tắc tiến hành giám sát tối cao của Quốc hội .............................28
1.2.4. Phương thức (hình thức) giám sát tối cao của Quốc hội ........................29
1.2.5. Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ..............34
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...........................................................................................35

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO
CỦA QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM ..................................37

2.1. So sánh các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về chƣơng trình
giám sát của Quốc hội .........................................................................................37
2.1.1. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về chương trình giám sát của
Quốc hội ...........................................................................................................37
2.1.2. Điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp luật của Lào và Việt
Nam về chương trình giám sát của Quốc hội ...................................................38
2.2. So sánh các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về các hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội ............................................................................41
2.2.1. Hoạt động xem xét báo cáo của Quốc hội ..............................................45


2.2.2. Hoạt động xem xét văn bản pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội ..................................................................... 50

2.2.3. Hoạt động chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp của
Quốc hội .................................................................................................. 55

2.2.4. Hoạt động xem xét báo cáo của Ủy ban đặc biệt (Ủy ban lâm thời) của
Quốc hội ...........................................................................................................59
2.2.5. Hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm (bỏ phiếu miễn nhiệm hoặc bỏ phiếu bất tín
nhiệm) của Quốc hội..........................................................................................63
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...........................................................................................67

Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC SO SÁNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI Ở
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI ..........68

3.1. Một số vấn đề rút ra từ việc so sánh quy định pháp luật của Lào và Việt
Nam về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ............................................68
3.1.1. Một số bất cập, hạn chế của pháp luật Lào về hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội .....................................................................................................68
3.1.2. Kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam về hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội ...........................................................................................................75
3.2. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội ở Lào .................................................................79
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội ...........................................................................................................79
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội ...........................................................................................................80
KẾT LUẬN ................................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................91


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cho dù ở bất kì chính thể nhà nước nào thì Quốc hội (hay Nghị viện) đều
được xác định là cơ quan lập pháp. Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND)
Lào và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam là hai trong số nhiều
quốc gia theo chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) với đặc trưng là tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, Quốc hội được Hiến pháp xác định là
cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan đại diện cho quyền, lợi ích của
nhân dân, dân tộc (đại biểu cao nhất của Nhân dân). Cùng với chức năng lập hiến,
lập pháp và chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội
Lào và Quốc hội Việt Nam còn có chức năng giám sát tối cao đối hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, hoạt động giám
sát của Quốc hội Lào và Quốc hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích
cực, góp phần vào việc khẳng định và phát huy vị trí, vai trò của Quốc hội - Cơ
quan đại diện (đại biểu) cho nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước
Lào và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận là hoạt
động giám sát của các cơ quan của của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) nói chung và hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội hai nước
vẫn còn mang tính “hình thức”, chưa thu được những hiệu quả thiết thực, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến những hạn chế này là do hệ thống các quy định pháp luật của hai
nước trong điều chỉnh hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa thực sự hoàn
thiện, còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt hạn chế trong việc quy định pháp
luật về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát tối cao của Quốc
hội, cũng như trách nhiệm của Quốc hội.
Năm 2015, Hiến pháp mới của nước CHDCND Lào được ban hành đã khẳng
định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHDCND Lào (do chế định
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đã lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2015 của Lào, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương). Sự thay đổi
này đã làm cho các quy định về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội theo quy
định của Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2004 trở nên lỗi thời, không
còn phù hợp và đặt ra yêu cầu về hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động

giám sát tối cao của Quốc hội của nước CHDCND Lào. Cũng trong năm 2015,


2

Quốc hội Việt Nam cũng ban hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015, dựa trên những thay đổi trong Hiến pháp năm 2013, Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2014. Với rất nhiều điểm mới về hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH,
ĐBQH, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tin tưởng rằng hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội sẽ thu được nhiều hiệu quả thiết thực hơn trong thời gian tới.
Nhận thức về những nét tương đồng về chế độ chính trị, điều kiện kinh tế xã hội của nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam, đặc biệt là những nét
tương đồng về vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nước của hai quốc gia;
cũng như nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội và thực trạng quy định pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội của nước CHDCND Lào, tôi quyết định chọn đề tài: “Hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội theo quy định của pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so
sánh”, làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hiến
pháp - Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vị trí là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan đại diện cho
quyền, lợi ích của nhân dân, dân tộc (cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân) nên
vấn đề kiện toàn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trong đó có
hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của
Quốc hội, Đoàn (ĐBQH), ĐBQH bằng các quy định pháp luật được Đảng, Nhà
nước Lào và Đảng, Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm. Đồng thời đây cũng là
vấn đề cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được công bố ở hai quốc gia về hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn
ĐBQH, của ĐBQH:

- Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH của
nước CHDCND Lào: Nalan Thammatheva (2003), Bộ máy Nhà nước CHDCND
Lào theo Hiến pháp 1991, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Phonesay Alounsavath (2004),

u c hội tron

i u i n phát tri n mới củ

t

nước”, Tạp chí Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam. Chanpeng Silivan (2006),
Hoàn thi n t ch c và ho t ộn củ

u c hội v

i m tr và

n hành pháp u t


3

và v n

n quy ph m pháp u t tron

i i o n hi n n y”, Tạp chí Nghiên cứu lập


pháp, Văn phòng Quốc hội. Khamphanh Sophabmixay (2006), V i tr củ
hội tron vi c

o

m th c hi n quy n

c ch nh tr củ nh n

n

o ộn

u c
nước

CHDCND Lào hi n n y, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Philaphandeth Vilay (2010), T ch c và ho t ộn củ

u c hội, Khoá luận tốt

nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội. Yeexiong Xaykhuenhiatoua (2015), T n
cườn ch c n n

iám sát củ

u c hội nước Cộn h

n chủ nh n


n Lào,

Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bounlong Daly (2016), T
ch c và ho t ộn củ

u c hội theo pháp u t Lào và Vi t N m ưới óc ộ so

sánh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH của
nước CHXHCN Việt Nam: Hoàng Thị Ngân (2004), V cách tiếp c n quy n iám sát
củ

u c hội -

iám sát và c chế iám sát vi c th c hi n quy n

c nhà nước

nước t hi n n y, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Bùi Ngọc Thanh (2009), Đ i mới
ho t ộn

iám sát t i c o củ

u c hội, K yếu Hội thảo “Thực trạng và giải pháp

nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”. Nguyễn
Hữu Lộc (2010), N n c o hi u qu ho t ộn
qu ho t ộn


iám sát củ các c qu n củ

iám sát t i c o củ

u c hội, hi u

u c hội”, Luận văn Thạc sĩ luật học,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Tuyết Mai (2016), Một s v n
ộn

iám sát củ

v ho t

u c hội, Bản tin Thông tin Khoa học lập pháp, số 01(24). Hay

một số công trình tiêu biểu được nghiên cứu tại Lào như: Souknilanh Sengphachanh
(2014), Ch c n n

iám sát t i c o củ

u c hội Lào tron D Th o Hiến pháp n m

2015, Tạp chí Nghiên cứu Quốc hội, số 10/2014; Soulichan Phetmany (2015), Ho t
ộn

iám sát củ

u c hội Lào tron


i i o n hi n n y, Tạp chí nghiên cứu Quốc

hội, số 02/2015.
Nhìn chung các công trình nói trên đã làm rõ được một số vấn đề lý luận,
cũng như thực trạng pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt
động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH. Tuy nhiên, nếu
nghiên cứu trên phương diện quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về
hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội dưới góc độ so sánh thì các công trình này
chưa đề cập đến. Chính vì vậy, việc nghiên cứu theo góc độ này cần phải được thực


4

hiện, nhất là trong thời điểm Quốc hội Lào đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2004.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn có đối tượng nghiên cứu chính là những
vấn đề lý luận về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, các quy định pháp luật
hiện hành của Lào và Việt Nam về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn có phạm vi nghiên cứu về
mặt nội dung chính là các quy định của Hiến pháp, pháp luật hiện hành về hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội. Luận văn có phạm vi nghiên cứu về mặt không
gian, thời gian là các quy định hiện hành của Hiến pháp, pháp luật của Lào và Việt
Nam về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu từ việc hệ thống hóa một số vấn đề lý luận
về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội để
tìm hiểu, so sánh các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội nhằm mục đích tìm hiểu kinh nghiệm của pháp

luật Việt Nam để xây dựng phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật của
nước CHDCND Lào về hoạt động giám sát tối của Quốc hội trong thời gian tới.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu của luận văn, các câu hỏi nghiên cứu được xác định
như sau:
(i) Giám sát, quyền giám sát tối cao của Quốc hội?
(ii) Điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định chung về hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội theo pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam?
(iii) Điểm tương đồng và khác biệt trong quy định về hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội theo pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam?
(iv) Thành tựu và một số bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành
của nước CHDCND Lào về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội?
(v) Kinh nghiệm của Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện các quy định
pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội?
(vi) Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật của nước CHDCND
Lào về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội?
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn


5

Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng macxit và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, Nhà nước nước CHDCND Lào; quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam về xây dựng xây
dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng bộ máy nhà nước, đặc biệt là xây dựng, hoàn
thiện, nâng cao vị trí, vai trò, chức năng của Quốc hội Lào.
Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phân tích; chứng minh; so sánh, diễn giải, quy nạp; tổng hợp, phương pháp lịch sử;
thống kê v.v..

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, phát triển những vấn
đề lý luận về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, cũng như đóng góp những ý
kiến có cơ sở khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội Lào, cũng như ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
giảng dạy, nghiên cứu khoa học về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ở các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo có liên quan ở nước CHDCND Lào, cũng như ở Việt Nam.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục
của luận văn được chia làm 3 chương sau:
Chư n 1. Một s v n
iám sát t i c o củ

ý u n chun v quy n iám sát t i c o và Ho t ộn

u c hội theo pháp u t Lào và Vi t N m ưới óc ộ so sánh;

Chư n 2. Th c tr n pháp u t v ho t ộn

iám sát t i c o củ

u c hội

theo pháp lu t Lào và Vi t N m;
Chư n 3. Một s v n
u t v ho t ộn

rút r từ vi c so sánh và i i pháp hoàn thi n pháp


iám sát t i c o củ

n ào tron thời i n tới.

u c hội

nước Cộn h

n chủ nh n


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO VÀ
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT
LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
1.1. Một số vấn đề chung về quyền giám sát tối cao của Quốc hội
1.1.1. Khái niệm giám sát và quyền giám sát tối cao của Quốc hội
1.1.1.1. Khái ni m giám sát
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm “giám sát” nhưng nếu tiếp cận khái niệm
này dưới góc độ ngôn ngữ thì có một số quan điểm sau đây: (i) Giám sát được hiểu
là việc theo õi, i m tr vi c th c thi nhi m vụ”1. (ii) Giám sát được hiểu là một
nhóm hoặc một t ch c
là s

o

theo õi n ười, vi c nào


m cho côn vi c hoặc ho t ộn

y” 2. (iii) Giám sát được hiểu

ược th c hi n ún theo quy

nh”3.

Từ những quan điểm trên về khái niệm giám sát, có thể thấy được nội hàm
của khái niệm này bao gồm hai yếu tố: (i) Hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra của
một chủ thể nhất định; (ii) Phương thức bảo đảm cho công việc hoạt hoạt động được
thực hiện theo đúng quy định.
Như vậy, khái niệm giám sát dưới góc độ ngôn ngữ thông thường được hiểu
là: Vi c theo õi, xem xét, i m tr củ chủ th có thẩm quy n
hác,

qu

ó có ược nh n

i với các chủ th

nh, ánh iá, ết u n v một tron nhữn ho t

ộn cụ th củ chủ th ch u s giám sát.
Dưới góc độ pháp lý, ở CHXHCN Việt Nam, Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 tại khoản 1 Điều 2 quy định:

iám sát à


vi c chủ th

iám sát theo õi, xem xét, ánh iá ho t ộn củ c qu n, t ch c, cá

nh n ch u s

iám sát tron vi c tu n theo Hiến pháp và pháp u t v vi c th c hi n

nhi m vụ, quy n h n củ mình, xử ý theo thẩm quy n hoặc yêu cầu, iến n h c
qu n có thẩm quy n xử ý”. Trong khi đó, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
năm 2004 cũng như các văn bản pháp luật khác của nước CHDCND Lào không có
quy định về khái niệm giám sát.
Từ những khái niệm về giám sát dưới những góc độ trên, có thể rút ra một số
đặc điểm sau đây:

1

Đ i từ i n tiến Vi t, Nxb. Văn hóa - Thông tin, tr.108.
Từ i n tiến N , Nxb. Moscow, tr.204.
3
Từ i n tiến Anh, Nxb. Leicester, tr.536.
2


7

Th nh t, giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra đối
tượng chịu sự giám sát, qua đó đưa ra những nhận định, đánh giá, kết luận về một
trong những hoạt động cụ thể đã được thực hiện là đúng hay sai so với quy định
hiện hành.

Th h i, để tiến hành hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra thì giám sát luôn
phải gắn với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Th

, để có thể tiến hành được hoạt động giám sát thì chủ thể hoạt động

giám sát phải có những quyền hạn, nghĩa vụ nhất định đối với đối tượng chịu sự
giám sát.
Th tư, để có thể đưa ra nhận định, đánh giá, kết luận về hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát thì việc giám sát phải được tiến hành dựa trên những quy định
do chủ thể có quyền giám sát đặt ra hoặc pháp luật hiện hành quy định.
Th n m, giám sát luôn là hoạt động có mục đích. Mục đích của hoạt động
giám sát là đưa ra những nhận định của chủ thể có quyền giám sát đối với hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát, qua đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm
trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát, bảo đảm cho những quy định của chủ
thể có quyền giám sát, quy định của pháp luật hiện hành được chấp hành, áp dụng
đúng đắn nhất4.
1.1.1.2. uy n iám sát t i c o củ

u c hội

Để đi đến thế nào là quyền giám sát tối cao của Quốc hội, thì phải xuất phát
từ vị trí, vai trò của Quốc hội hay ở nhiều quốc gia gọi là Nghị viện (sau đây gọi
chung là Quốc hội) với tư cách là một yếu tố cấu thành quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là một dạng quyền lực đặc biệt. Đó là quyền lực chính
trị của mỗi quốc gia gắn liền với ý chí của giai cấp cầm quyền, với ý chí, nguyện
vọng, lợi ích của toàn xã hội, dân tộc, quốc gia. Mỗi cách hiểu, mỗi góc độ tiếp cận
về quyền lực nhà nước, cách thức và quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước, về
tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước đều có tác động và ảnh hưởng lớn tới vị trí,
vai trò của những yếu tố cấu thành quyền lực nhà nước, trong đó hầu hết các quốc

gia đều ghi nhận quyền lực của Quốc hội là một yếu tố quan trọng cấu thành quyền
lực nhà nước.

4

Nguyễn Hữu Lộc (2010), N n c o hi u qu ho t ộn iám sát t i c o củ
u c hội, hi u qu ho t ộn
iám sát củ các c qu n củ
u c hội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.16.


8

Tuy được tổ chức dưới những dạng khác nhau, tên gọi khác nhau nhưng
Quốc hội là một phần không thể tách rời khỏi hệ thống quyền lực nhà nước ở bất kỳ
nhà nước dân chủ nào. Quốc hội luôn thể hiện được vị trí, vai trò là nhờ bản chất,
tính chất, chức năng và thẩm quyền của mình trong mối quan hệ tương hỗ với các
nhánh quyền lực khác, đặc biệt là với các cơ quan có quyền hành pháp.
Chức năng cơ bản của Quốc hội được phân biệt với các chức năng của các cơ
quan nhà nước khác trong tổ chức bộ máy nhà nước đó là chức năng lập pháp.
Nhưng xuất phát từ vai trò đại diện nên cùng với chức năng lập pháp, thì chức năng
giám sát với những quyền hạn và nhiệm vụ đặc thù của mình cũng đang trở thành
một chức năng đặc thù của Quốc hội. Ở Anh và ở Đức và một số nước châu Âu
khác, Quốc hội có quyền giám sát Chính phủ và các cơ quan hành chính bởi các cơ
quan hành chính thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến công dân và có
nhiều khả năng xâm hại các quyền công dân mà Quốc hội có trách nhiệm phải bảo
vệ các quyền đó. Tuy nhiên, Quốc hội không thể điều tra từng hoạt động nên đã
thực hiện hoạt động chất vấn Chính phủ. Theo đó, Chính phủ có trách nhiệm làm
sáng tỏ vấn đề do Quốc hội nêu ra và phải báo cáo Quốc hội về vấn đề đó5. Tại Hàn

Quốc, từ chỗ Quốc hội chỉ có quyền “giám sát lập pháp” và quyền này được thực
hiện thông qua hoạt động quan sát và rà soát của Quốc hội đối với cơ quan hành
pháp, đến khi sửa đổi Hiến pháp năm 1987, quyền lực của Quốc hội đã được phục
hồi đáng kể, đặc biệt là quyền giám sát và theo đó, Quốc hội đã có quyền thực tế
trong việc thẩm tra các hoạt động của cơ quan hành pháp và có thể đề nghị bãi
nhiệm hoặc luận tội các chức danh quan chức cao cấp của Chính phủ, bao gồm cả
Tổng thống6
Dù quyền giám sát của Quốc hội được hình thành và phát triển trên cơ sở
nhu cầu nào, trong điều kiện nào thì thực tế cho thấy, ở hầu hết các mô hình chính
thể trên thế giới, Quốc hội đều có quyền giám sát và điều này thường được ghi nhận
trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp và các đạo luật về Quốc hội
như là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội7.

5

Rainer Wahl (2011), “Giám sát của Nghị viện” trong K yếu hội thảo Ch c n n iám sát củ
u c hội
tron nhà nước pháp quy n”, Nxb. Lao động, tr.37
6
Yeonu Son (2011), “Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: Chức năng và
phương pháp”, K yếu hội thảo Ch c n n iám sát củ u c hội tron nhà nước pháp quy n”, Nxb. Lao
động, tr.300.
7
Trần Tuyết Mai (2016), Một s v n v ho t ộn iám sát củ u c hội, Bản tin Thông tin Khoa học lập
pháp, số 01(24).


9

Về bản chất, quyền giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội được Hiến pháp,

pháp luật quy định có quyền thực hiện các hoạt động thu thập thông tin về hoạt
động của các cơ quan nhà nước hữu quan và tiến hành xem xét, đánh giá về thông
tin đã thu thập được, để từ đó có biện pháp xử lý sau giám sát đối với đối tượng
chịu sự giám sát8.
Để tiến hành các hoạt động này, Quốc hội sử dụng những công cụ khác nhau
để đạt được mục đích chung của hoạt động giám sát, đó thường là các công cụ như
các công cụ hành chính, các công cụ pháp lý, các công cụ kinh tế. Tùy theo mục tiêu,
nội dung, đối tượng cần giám sát mà Quốc hội lựa chọn một hoặc kết hợp các công
cụ giám sát cho phù hợp (có thể là chất vấn, điều trần, luận tội, xem xét báo cáo hoạt
động, lập đoàn giám sát,…). Kết quả của hoạt động giám sát thể hiện quyền lực tập
trung của Quốc hội, thể hiện quyết định tập thể của Quốc hội nhằm thay đổi, sửa đổi,
hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của các cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp
hoặc bãi nhiệm các chức vụ trong Chính phủ, bất tín nhiệm đối với Chính phủ…
- Ở Nước CHDCND Lào thì bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp được ghi nhận trong Điều 2 Hiến pháp năm 2015 của nước
CHDCND Lào: Nhà nước Cộn h
nh n

n. T t c quy n

n chủ nh n

c thuộc v nh n

n Lào à nhà nước

n, o nh n


n chủ

n và vì ợi ch củ nh n

n…”. Từ nguyên tắc này, Quốc hội được tổ chức với vị trí, vai trò như sau: Nếu
như Điều 52 Hiến pháp năm 2003 của Lào xác định:

u c hội à c qu n

cho quy n, ợi ch củ nh n

p pháp, quyết

qu n trọn củ

n.

u c hội có quy n

nh các v n

t nước và iám sát ho t ộn củ c qu n hành pháp, c qu n

tư pháp” thì đến Hiến pháp năm 2015 có sự thay đổi rõ nét khi quy định
à c qu n

i i n cho quy n, ợi ch củ nh n

c o nh t củ Nhà nước, à c qu n
quyết


nh các v n

i i n

qu n trọn củ

n,

u c hội

n tộc, à c qu n quy n

p pháp th c hi n nhi m vụ

p hiến,

c

p pháp,

t nước và iám sát t i c o vi c tu n theo

Hiến pháp và pháp u t củ c qu n nhà nước” (Điều 52). Như vậy, Quốc hội được
xác định là cơ quyền lực cao nhất của Nhà nước Lào và có quyền giám sát tối cao.
Việc Hiến pháp năm 2015 xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của
8

Nguyễn Hữu Lộc (2010), N n c o hi u qu ho t ộn iám sát t i c o củ
u c hội, hi u qu ho t ộn

iám sát củ các c qu n củ
u c hội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.18.


10

Nhà nước Lào là để phù hợp với chế định về Hội đồng nhân dân cấp tỉnh lần đầu
tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2015 của nước CHDCND Lào. Bởi Hội
đồng nhân dân được Hiến pháp năm 2015 xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương. Ngoài ra, để bảo đảm cho Quốc hội luôn là cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước Lào thì Hiến pháp năm 2015 cũng ghi nhận về quyền giám sát tối
cao, thay vì chỉ quy định trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2004
của nước CHDCND Lào.
Để cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp, Luật về hoạt động giám sát của
Quốc hội năm 2004 của Lào quy định:

iám sát củ

u c hội à vi c theo õi,

i m tr các ho t ộn củ các t ch c, cá nh n theo quy
này tron vi c thi hành Hiến pháp, u t, n h quyết củ
tri n inh tế - xã hội và n n sách nhà nước và x y
các v n

hôn phù hợp với quy

nh t i Đi u 7 củ Lu t
u c hội, ế ho ch phát


n các i n pháp i i quyết

nh củ pháp u t” (Điều 2).

Tuy nhiên, Quốc hội là một khái niệm có nội hàm rất rộng, nó bao gồm toàn
bộ cơ quan, tổ chức, cá nhân câu thành nên Quốc hội. Theo Điều 16 Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2006 của nước CHDCND Lào thì cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao
gồm: Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH, các cơ quan giúp việc
của Quốc hội. Vậy làm thế nào để phân biệt giữa Quốc hội và các cơ quan, tổ chức,
cá nhân cấu thành nên Quốc hội? Chiếu theo quy định của Hiến pháp năm 2015 và
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2006 về vị trí của của Quốc hội thì Quốc hội Lào sẽ
bao gồm tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân nói trên.
Theo như quy định tại Điều 2 của Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
năm 2004 thì Quốc hội và cơ quan, tổ chức, cá nhân của Quốc hội đều có quyền giám
sát. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào đề phân biệt quyền giám sát của Quốc hội với quyền
giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân của Quốc hội Lào? Điều 4 Luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội năm 2004 quy định về chức năng giám sát của Quốc hội
như sau:

u c hội th c hi n ch c n n

hội hoặc thôn qu các ho t ộn
n củ

u c hội, Đoàn

i i u


iám sát t i c o t i các ỳ họp củ

iám sát củ Ủy
u c hội,

u c

n thườn vụ u c hội, các Ủy

i i u

u c hội”. Như vậy, quyền

giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao và chỉ duy nhất Quốc hội mới có
quyền giám sát tối cao, còn các cơ quan, tổ chức, cá nhân của Quốc hội chỉ có quyền
giám sát. Vậy nội hàm của quyền giám sát tối cao của Quốc hội bao gồm những vấn


11

đề gì? Dựa trên quy định pháp luật hiện hành của nước CHDCND Lào thì quyền
giám sát tối cao của Quốc hội bao gồm những nội dung sau:
Th nh t, quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao, là quyền
đặc biệt duy nhất thuộc về Quốc hội khi mà Hiến pháp, pháp luật hiện hành của Lào
chỉ giao quyền giám sát tối cao cho duy nhất Quốc hội. Sở dĩ Hiến pháp, pháp luật
hiện hành của Lào quy định như vậy là do, Hiến pháp, pháp luật đã “định vị” Quốc
hội là cơ quan đại diện cho quyền, lợi ích của nhân dân. Tức là Quốc hội thay mặt
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, khi mà Hiến pháp đã khẳng định quyền lực
nhà nước là thuộc về nhân dân, mà giám sát tối cao là một trong những biểu hiện
của việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Th h i, theo như quy định của Điều 4 Luật về hoạt động giám sát của Quốc
hội năm 2004 thì Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao tại các kỳ họp của
Quốc hội hoặc thông qua các hoạt động giám sát của UBTVQH, các Ủy ban của
Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH. Điều đó có nghĩa là Quốc hội còn giám sát tối cao
chính hoạt động của các cơ quan này, bên cạnh các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát của Quốc hội theo khoản 1 Điều 7 Luật này. Do đó, quyền giám sát của
Quốc hội phải là quyền giám sát tối cao, khi mà pháp luật quy định Quốc hội còn
giám sát chính những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giám sát.
Th

, theo quy định của khoản 1 Điều 7 về các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu

sự giám sát thì Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với các cơ quan, tổ
chức, người đứng đầu các cơ quan nhà nước Lào như: Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc
hội; UBTVQH; Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ; các Bộ trưởng, người đứng đầu cơ
quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC); Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTC. Đây đều là các
cơ quan, chức vụ quan trọng của Nhà nước Lào và nếu pháp luật chỉ quy định quyền
giám sát cho Quốc hội thì sẽ không phản ánh được vị trí của Quốc hội đối với các cơ
quan, tổ chức, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức này; cũng như không bảo đảm hiệu
quả giám sát của Quốc hội. Hơn thế nữa, quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám
sát tối cao vì trong trường hợp cần thiết Quốc hội Lào cũng có thể giám sát tối cao đối
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (khoản 6 Điều 7). Chính vì vậy quyền giám sát
của Quốc hội phải là quyền giám sát tối cao.


12

Th tư, việc gọi tên quyền giám sát của Quốc hội là “quyền giám sát tối cao”
còn nhằm mục đích phân biệt với quyền giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

của Quốc hội9.
- Ở nước CHXHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 xác định: Nước Cộn
h

xã hội chủ n hĩ Vi t N m o Nh n

v Nh n

n mà n n t n

n àm chủ; t t c quy n

à iên minh iữ

và ội n ũ tr th c”, “ uy n

c nhà nước thuộc

i i c p côn nh n với i i c p nôn

n

c nhà nước à th n nh t, có s ph n côn , ph i hợp,

i m soát iữ các c qu n nhà nước tron vi c th c hi n quy n p pháp, hành pháp,
tư pháp” (khoản 2 và khoản 3 Điều 2). Từ đó, Hiến pháp năm 2013 xác định:
hội à c qu n

i i u c o nh t củ Nh n


củ nước Cộn h

n, c qu n quy n

xã hội chủ n hĩ Vi t N m”,

quy n p pháp, quyết nh các v n

c nhà nước c o nh t

u c hội th c hi n quy n

qu n trọn củ

u c
p hiến,

t nước và iám sát t i c o

i

với ho t ộn củ Nhà nước” (Điều 69).
Để cụ thể hóa quyền giám sát của Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 được ban hành, đã làm rõ nội hàm khái niệm giám
sát của Quốc hội:
sát củ Ủy

iám sát củ

u c hội


o ồm iám sát t i c o củ

n thườn vụ u c hội, Hội ồn

i i u u c hội và
giám sát tối cao:

n tộc, các Ủy

n củ

u c hội, iám
u c hội, Đoàn

i i u u c hội” (khoản 5 Điều 2), cũng như làm rõ khái niệm

iám sát t i c o à vi c

u c hội theo õi, xem xét, ánh iá ho t

ộn củ c qu n, t ch c, cá nh n ch u s

iám sát tron vi c tu n theo Hiến pháp,

u t, n h quyết củ

u c hội và xử ý theo thẩm quy n hoặc yêu cầu c qu n có thẩm

quy n xử ý. iám sát t i c o ược th c hi n t i ỳ họp củ


u c hội” (khoản 3 Điều 2).

Thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam cũng được quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 4 Luật này:
pháp, u t, n h quyết củ
Ủy

n thườn vụ

án nh n

9

án nh n

n t i c o, Vi n i m sát nh n

n t i c o,

ầu cử qu c i , Ki m toán nhà nước và c qu n hác o u c hội thành

p; iám sát t i c o v n
thườn vụ

u c hội; iám sát t i c o ho t ộn củ Chủ t ch nước,

u c hội, Ch nh phủ, Thủ tướn Ch nh phủ, Bộ trư n , thành

viên hác củ Ch nh phủ, T

Hội ồn

u c hội iám sát t i c o vi c tu n theo Hiến

n quy ph m pháp u t củ Chủ t ch nước, Ủy

n

u c hội, Ch nh phủ, Thủ tướn Ch nh phủ, Hội ồn Thẩm phán T
n t i c o, Chánh án T

án nh n

n t i c o, Vi n trư n Vi n i m sát

Khái ni m và các hình th c iám sát củ
u c hội, đăng trên Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, tại địa
chỉ: />

13

nh n

n t i c o, T n Ki m toán nhà nước; iám sát t i c o n h quyết iên t ch

iữ Ủy

n thườn vụ

u c hội hoặc Ch nh phủ với Đoàn Chủ t ch Ủy


ư n Mặt tr n T qu c Vi t N m, thôn tư iên t ch iữ Chánh án T
n t i c o với Vi n trư n Vi n i m sát nh n
Bộ trư n , Thủ trư n c qu n n
Vi n trư n Vi n i m sát nh n

n

n trun
án nh n

n t i c o, thôn tư iên t ch iữ

ộ với Chánh án T

án nh n

n t i c o,

n t i c o”. Ngoài ra, khi xét thấy cần thiết Quốc

hội cũng tiến hành giám sát tối cao đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác (khoản 2 Điều 4).
Như vậy, trong sự so sánh quy định về mặt bản chất thì quyền giám sát của
của Quốc hội Lào cũng như Quốc hội Việt Nam được Hiến pháp, pháp luật hiện
hành của hai nước đều quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao, được thực hiện
trong các kỳ họp của Quốc hội, với nhiều hình thức (phương thức) giám sát tối cao
được pháp luật hiện hành của hai nước quy định.
Tuy nhiên, cũng theo quy định của pháp luật Lào và Việt Nam hiện hành thì
quyền giám sát tối cao của Quốc hội không phải là một quyền tuyệt đối. Để ràng

buộc trách nhiệm của Quốc hội nhằm bảo đảm hiệu quả giám sát, khẳng định vị trí,
vai trò của chức năng giám sát trong thực hiện quyền lực nhà nước, pháp luật Lào
và Việt Nam có những quy định cụ thể về trách nhiệm của Quốc hội trong việc thực
hiện quyền giám sát tối cao Cụ thể:
- Ở nước CHDCND Lào, tại Điều 6 Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
năm 2004 quy định về trách nhiệm giám sát tối cao của Quốc hội như sau: Ho t
ộn

iám sát t i c o củ

u c hội ph i ược tiến hành côn

phù hợp với tình hình th c tế, theo ún thẩm quy n và trình t

h i, khách quan,
ược pháp u t quy

nh”. Đây vừa là nguyên tắc của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, vừa là
trách nhiệm của Quốc hội trong việc thực hiện hoạt động giám sát tối cao.
- Ở CHXHCN Việt Nam, cách thức quy định về trách nhiệm của Quốc hội
trong việc thực hiện hoạt động giám sát tối cao cũng xuất phát từ các nguyên tắc:
B o

m hách qu n, côn

h i, minh

ch, hi u qu ” (khoản 2 Điều 3 Luật hoạt

động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015) để quy định về trách

nhiệm cụ thể của của Quốc hội như sau:

u c hội áo cáo v ho t ộn

c o củ mình trước cử tri c nước thôn qu phư n ti n thôn tin
ộn tiếp xúc cử tri củ

iám sát t i

i chún và ho t

i i u u c hội” (khoản 1 Điều 6) và Quốc hội chịu trách


14

nhiệm về báo cáo, nghị quyết, kết luận, yêu cầu, kiến nghị giám sát của mình (khoản
11 Điều 6 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015).
Như vậy, trong sự so sánh các quy định của pháp luật Lào và Việt Nam về
trách nhiệm của Quốc hội với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền và thực hiện
quyền giám sát giám sát tối cao, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Th nh t, về mặt bản chất thì trách nhiệm của Quốc hội khi thực hiện hoạt
động giám sát tối cao theo quy định của pháp luật hai nước đều là bảo đảm tính
công khai, khách quan. Sự công khai ở đây là mọi hình thức thực hiện hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội thì người dân, toàn xã hội đều có thể tiếp cận một
cách bình thường, không gặp phải bất cứ sự cản trở nào.
Th h i, tuy nhiên hình thức quy định trách nhiệm của Quốc hội trong thực hiện
hoạt động giám sát tối cao theo pháp luật hai nước có sự khác nhau rõ rệt. Cụ thể:
+ Nếu như, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015 của Việt Nam quy định cụ thể về trách nhiệm của Quốc hội trong việc

thực hiện hoạt động giám sát tối cao bằng trách nhiệm báo cáo với cử cử tri cả nước
thông qua phương tiện thông tin đại chúng hoặc hoạt động tiếp xúc cử tri của
ĐBQH. Trách nhiệm này phản ánh đúng bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam là
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân được biết, nhân dân
được làm và Nhân dân được kiểm tra; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
và Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân thì đương nhiên Quốc hội
phải có trách nhiệm báo cáo các hoạt động nói chung và báo cáo hoạt động giám sát
tối cao nói riêng với Nhân dân - Chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước.
Trong khi đó, nước CHDCND cũng mang bản chất là nhà nước của nhân dân
khi Hiến pháp năm 2015 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân và Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền, lợi ích của nhân dân, dân tộc; Quốc
hội có quyền giám sát tối cao nhưng pháp luật hiện hành lại chưa quy định cụ thể về
trách nhiệm của Quốc hội trong việc báo cáo hoạt động giám sát tối cao trước nhân
dân. Việc Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát tối cao phải theo nguyên tắc công
khai thì nhân dân cũng có khả năng biết được nội dung, kết quả giám sát tối cao của
Quốc hội nhưng nó phụ thuộc vào năng lực của hệ thống thông tín đại chúng ở nước
CHDCND Lào và năng lực làm việc của ĐBQH. Hơn thế nữa, việc nhân dân có thể
tiếp cận các nội dung, kết quả giám sát tối cao của Quốc hội mang tính chủ động,
tức là nhân dân phải tự mình tiếp cận các thông tin này chứ không phải “quyền


15

được biết” các thông tin liên quan đến hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
thông qua trách nhiệm báo cáo trước cử tri cả nước thông qua phương tiện thông tin
đại chúng của Quốc hội Việt Nam.
+ Nếu như, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015 của Việt Nam quy định cơ chế “chịu trách nhiệm” về báo cáo, nghị quyết,
kết luận, yêu cầu, kiến nghị giám sát cho Quốc hội khi thực hiện hoạt động giám sát
tối cao. Trách nhiệm này là thực sự cần thiết nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả giám

sát tối cao của Quốc hội và tránh việc giám sát chỉ mang tính hình thức hoặc Quốc
hội “nể nang” các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
Trong khi đó, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2004 của Lào lại chưa
quy định cụ thể về trách nhiệm này. Do đó, trên thực tế có thể có trường hợp Quốc
hội Lào thực hiện hoạt động giám sát tối cao mang tính hình thức, không bảo đảm
được hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
1.1.2. Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động thanh tra,
kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan nhà nước khác
Nhà nước CHDCND Lào và nhà nước CHXHCN Việt Nam đều là những
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tổ chức quyền lực nhà nước
được quán triệt bởi nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhân
dân là chủ thể quy nhất của quyền lực nhà nước. Quốc hội Lào là cơ quan đại diện
(đại biểu) cho quyền, lợi ích của nhân dân, dân tộc; Quốc hội Việt Nam là cơ quan
đại diện (đại biểu) cao nhất của nhân dân và đều là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Đồng thời ở nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam thì lực nhà
nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Hiến pháp hiện hành của hai nước cũng xác định, Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
không chỉ ban hành Hiến pháp, pháp luật để quản lý xã hội mà còn thường xuyên
tiến hành hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam quy định một số hình
thức giám sát, kiểm tra của các cơ quan nhà nước như: Giám sát tối cao của Quốc
hội; giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân của Quốc hội; thanh tra, kiểm tra của
Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, trong đó đặc biệt là thanh tra, kiểm tra của
Thanh tra Chính phủ; kiểm tra, kiểm sát của VKSND; kiểm tra của TAND thông qua


16


thủ tuc giám đốc hoạt động xét xử. Ngoài ra, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức còn chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể
quần chúng đối với hoạt động của mình. Tuy nhiên, khác với các hoạt động giám sát,
thanh tra, kiểm tra, kiểm sát trên; hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân và các
đoàn thể xã hội không mang tính quyền lực nhà nước mà nhằm thể hiện và bảo đảm
tính chất dân chủ, công khai trong hoạt động của bộ máy nhà nước10.
Trong khi đó, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng và hoạt
động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc (đối với Việt Nam), các Ủy ban của
Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH nói chung được hiểu là việc các chủ thể này theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm
giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan tổ
chức có thẩm quyền xử lý.
Thực tế cho thấy, các hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát dù
được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức nào thì chúng đều mang mục đích chung là
nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích của
công dân, tổ chức xã hội. Đây chính là mối liên hệ giữa các hoạt động này với nhau.
Từ đặc thù của quyền lực nhà nước, trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước
CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam, có thể phân biệt các hình thức, giám
sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát như sau:
- Ph n i t ho t ộn

iám sát củ

u c hội với ho t ộn th nh tr , i m

tr củ c qu n th nh tra. Luật thanh tra nhà nước năm 2007 của nước CHDCND
Lào tại khoản 1 Điều 3 quy định: Th nh tr nhà nước à vi c th c hi n thủ tục
i m tr vi c th c hi n ch nh sách, pháp u t, ch c n n củ các Bộ, n ành, tỉnh,
thành ph , huy n, thành ph tr c thuộc Trun ư n và các c qu n hác củ Ch nh

phủ có iên qu n”, Luật Thanh tra năm 2010 của Việt Nam tại khoản 1 Điều 3 quy
định: Th nh tr nhà nước à ho t ộn xem xét, ánh iá, xử ý theo trình t , thủ
tục o pháp u t quy

nh củ c qu n nhà nước có thẩm quy n

i với vi c th c

hi n ch nh sách, pháp u t, nhi m vụ, quy n h n củ c qu n, t ch c, cá nh n.
Th nh tr nhà nước

10

o ồm th nh tr hành ch nh và th nh tr chuyên n ành”.

Nguyễn Hữu Lộc (2010), N n c o hi u qu ho t ộn iám sát t i c o củ u c hội, hi u qu ho t ộn
iám sát củ các c qu n củ
u c hội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.23.


17

Từ khái niệm về hoạt động giám sát của Quốc hội, cũng như các quy định
trên về hoạt động thanh tra, kiểm tra, có thể rút ra một số kết luận sau:
+ Về chủ thể có quyền, trách nhiệm: Chủ thể có quyền, trách nhiệm thực
hiện hoạt động thanh tra là những cơ quan hành chính (tức Thanh tra Chính phủ)
hoặc trực thuộc cơ quan hành chính (Thanh tra bộ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra sở,
Thanh tra cấp huyện), điều này được khẳng định trong Điều 3 Luật Thanh tra nhà
nước năm 2007 của Lào và Điều 4 Luật Thanh tra năm 2010 của Việt Nam. Trong

khi đó, chủ thể có quyền, trách nhiệm thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội
bao gồm: Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát tối cao, UBTVQH, Hội đồng dân
tộc (đối với Việt Nam), các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH thực hiện
hoạt động giám sát. Đây là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc nhánh mang quyền
lập pháp. Như vậy, chủ thể có quyền, trách nhiệm thanh tra, kiểm tra là cơ quan
hành chính nhà nước hoặc trực thuộc cơ quan hành chính.
+ Về đối tượng: Cả Luật Thanh tra nhà nước năm 2007 của Lào và Luật
Thanh tra năm 2010 của Việt Nam đều không có quy định về đối tượng của thanh
tra, kiểm tra nhưng có thể hiểu đối tượng của thanh tra, kiểm tra là cơ quan, tổ chức,
cá nhân thường là những cơ quan, tổ chức, cá nhân của khu vực hành chính. Trong
khi đó, đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội thường rất
rộng, bao gồm cơ quan tổ, chức, cá nhân có quyền lập pháp; cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền hành pháp; cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tư pháp.
+ Về phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý: Phương thức thực hiện hoạt
động thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra nhà nước năm 2007 của Lào và
Luật Thanh tra của Việt Nam được thực hiện theo hai phương thức là hoạt động của
Đoàn thanh tra và hoạt động của Thanh tra viên hoặc người được giao nhiệm vụ
thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Trong khi đó, phương thức thực hiện hoạt
động giám sát của Quốc hội rất đa dạng từ xem xét báo cao, kiểm tra việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, chất vấn, các đoàn đi giám sát ở địa phương, lấy phiếu
tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm, xem xét báo cáo của UBTVQH,… Về hậu quả
pháp lý, kết quả của công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thanh tra nhằm xử lý
các vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, nếu có dấu hiệu hình sự
thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, hậu
quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội rất đa dạng từ yêu cầu đối tượng
chịu sự giám sát phải thực hiện đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật; Bãi bỏ


18


một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật do đối tượng bị giám sát ban
hành; miễn nhiệm, bãi nhiệm,…
- Ph n i t ho t ộn

iám sát củ

u c hội với ho t ộn

i m tr củ

TANDTC. TANDTC có thẩm quyền giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp, bao
gồm cả Tòa án quân sự. Điều này được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân dân của hai nước quy định. Bản chất của thủ tục giám đốc xét xử
là việc TANDTC kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động xét xử. Do vậy, có
thể phân biệt hoạt động kiểm tra trong thủ tục giám đốc xét xử của TANDTC với
hoạt động giám sát của Quốc hội như sau:
+ Về chủ thể: Hoạt động kiểm tra trong thủ tục giám đốc xét xử do TANDTC
tiến hành; Hoạt động giám sát của Quốc hội do Quốc hội thực hiện giám sát tối cao
và các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH thực hiện việc giám sát.
+ Về đối tượng: Đối tượng kiểm tra của TANDTC trong thủ tục giám đốc xét
xử là hoạt động xét xử của TAND cấp dưới, Tòa án quân sự các cấp; Đối tượng
chịu sự giám sát của của Quốc hội bao gồm các cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp, cơ quan tư pháp.
+ Về phương thức thực hiện: TANDTC thực hiện việc kiểm tra hoạt động
xét xử trong thủ tục giám đốc hoạt động xét xử được quy định trong pháp luật về tố
tụng (thủ tục tố tụng). Trong khi đó, phương thực thực hiện hoạt động giám sát của
Quốc hội được thực hiện theo pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
+ Về hậu quả pháp lý: Khi phát hiện có sai phạm pháp luật trong hoạt động
xét xử, TANDTC có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ bản án của TAND cấp dưới, Tòa án
quân sự các cấp. Trong khi đó hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội

đa dạng hơn nhiều như đã phân tích ở trên.
- Ph n i t ho t ộn

iám sát củ

u c hội với ho t ộn

i m sát củ

VKSND các c p . Hiến pháp và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân của hai nước đều
ghi nhận VKSND các cấp có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp, nhằm bảo
đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Do đó, có thể phân biệt
hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động kiểm sát của VKSND các cấp như sau:
+ Về chủ thể: Quyền kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc về VKSND các cấp;
quyền giám sát của Quốc hội thuộc về Quốc hội với quyền giám sát tối cao và các
cơ quan của Quốc hội có quyền giám sát.


19

+ Về đối tượng: Đối tượng chịu sự giám sát của VKSND các cấp là hoạt động
của cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra, cơ qua truy tố, cơ quan xét xử, cơ quan thi
hành án và các cơ quan thực hiện hoạt động bổ trợ tư pháp khác. Trong khi đó đối
tượng của hoạt động giám của Quốc hội rất rộng bao gồm cơ quan, tổ chức cá nhân
chịu sự giám sát trọng việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
+ Về phương thức thực hiện: VKSND các cấp khi tiến hành hoạt động kiểm
sát các hoạt động tư pháp theo các phương thức được quy định tại các văn bản pháp
luật liên quan. Trong khi đó, phương thức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc
hội rất đa dạng và phong phú như đã phân tích ở trên.
+ Về hậu quả pháp lý: Khi phát hiện các dấu hiệu vi phạm pháp luật trong

các hoạt động của các đối tượng nêu trên, VKSND các cấp có quyền kháng nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm hoặc khởi tố hình sự. Trong khi đó, hậu quả pháp
lý của hoạt động giám sát của Quốc hội rất đa dạng như đã phân tích ở trên.
Như vậy, có thể thấy các hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan thanh tra,
kiểm tra hoạt động xét xử của theo thủ tục giám đốc thẩm; hoạt động kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKSND các cấp có sự khác nhau nhất định về chủ thể, đối
tượng, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
Như đã phân tích ở trên, bên cạnh chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước, Quốc hội Lào và Quốc hội Việt Nam còn có quyền giám giám
sát tối cao. Do đó, giám sát tối cao là một trong ba chức năng cơ bản của Quốc hội hai
nước. Thông qua hoạt động giám sát tối cao mà Quốc hội hai nước thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác phát sinh từ quyền lập pháp, quyền quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước được Hiến pháp, pháp luật hiện hành của hai nước ghi nhận.
Hoạt động giám sát của Quốc hội hai nước được thực hiện dựa trên quyền giám
sát tối cao của Quốc hội hai nước mang những ý nghĩa chính trị - pháp lí và xã hội to
lớn, được thể hiện ở những điểm chính sau:
Th nh t, giám sát tối cao là chức năng cơ bản của Quốc hội hai nước, chức
năng giám sát tối cao của Quốc hội hai nước chi phối đối với toàn bộ đời sống xã hội,
bảo đảm cho các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua việc giám sát các trật tự pháp luật11.

11

Yeexiong Xaykhuenhiatoua (2015), T n cườn ch c n n iám sát củ
u c hội nước Cọn h
chủ nh n n Lào, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.19.

n



20

Th h i, chức năng giám sát tối cao của Quốc hội hai nước bảo đảm cho
nguyên tắc thống nhất quyền lực, cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội hai
nước có thẩm quyền kiểm soát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan
nhà nước, tạo cơ sở cho toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước bảo đảm quyền lực
nhân dân, thực hiện phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
quyền lực mà nhân dân giao phó12.
Th

, chức năng giám sát tối cao của Quốc hội hai nước đảm bảo cho Quốc

hội thực sự là cơ quan đại biểu, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Hiến
pháp hiện hành của Lào và Việt Nam đều xác định nhà nước là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân hai
nước sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại biểu của mình là Quốc hội, cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân hai nước. Do vậy, việc nhân dân
trao chức năng giám sát tối cao cho Quốc hội hai nước chính là để đảm bảo cho Quốc
hội hai nước thực sự là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan thực hiện các quyền,
quyền lực và lợi ích của toàn dân13.
Có thể thấy, giám sát đang trở thành một chức năng quan trọng của Quốc hội.
Quốc hội Lào muốn tăng cường quyền lực thực sự của mình thì phải tăng cường và
phải biết cách thực hiện chức năng này. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Quốc hội Lào trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì
dân hiện nay. Để thực hiện chức năng này một cách tốt hơn và có hiệu quả hơn, Quốc
hội nên tập trung thực hiện chức năng này ở các Hội đồng và các Ủy ban của Quốc hội,
với đối tượng giám sát chính là hành pháp, bao gồm các bộ, ngành, giảm các hoạt động

giám sát các cấp chính quyền địa phương, và nhất là các cơ quan tư pháp, với mục tiêu
là cảnh báo, trì hoãn và thay đổi thành phần của của cơ quan hành pháp.
1.2. Một số vấn đề chung về giám sát tối cao của Quốc hội theo quy định
của pháp luật Lào và Việt Nam hiện hành dƣới góc độ so sánh
1.2.1. Mục đích, nội dung giám sát tối cao của Quốc hội
* Mục

ch iám sát t i c o củ

u c hội: Mục đích chung của hoạt động

giám sát là theo dõi về tính hiệu quả, độ trung thực và tính minh bạch trong các hoạt

12
13

tlđd, tr.20.
tlđd, tr.20.


×