Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

NGUYỄN XUÂN TÙNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ NHÂN TRONG
LĨNH VỰC BÁO CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

NGUYỄN XUÂN TÙNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ NHÂN TRONG
LĨNH VỰC BÁO CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vƣơng Thanh Thúy

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi.
Các nghiên cứu, đánh giá, kiến nghị nêu trong luận văn chƣa từng đƣợc
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và trích dẫn theo đúng quy định.

Tác giả

Nguyễn Xuân Tùng


LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hƣớng
dẫn khoa học luận văn của tôi, TS. Vƣơng Thanh Thúy đã luôn tạo mọi điều
kiện tốt nhất hƣớng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi về mọi mặt. Trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu, TS. Vƣơng Thanh Thúy đã kiên nhẫn, tận tình
chỉ dẫn bằng tất cả tri thức khoa học uyên thâm cũng nhƣ kinh nghiệm và thái
độ nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học để tôi có thể hoàn thành luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn Trƣờng Đại học Luật Hà Nội nói chung,
Khoa Sau đại học và Khoa Pháp luật Dân sự nói riêng đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và làm việc với tinh thần trách nhiệm cao để tôi hoàn thành luận văn
đúng tiến độ và thủ tục.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, thầy cô, bạn bè đã luôn ủng hộ,

động viên, đồng hành cùng tôi mọi lúc mọi nơi và giúp đỡ tôi vƣợt qua những
khó khăn, rào cản để tôi có thể hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật Dân sự: BLDS
Tòa án nhân dân: TAND


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH VÀ VỀ BẢO
VỆ HÌNH ẢNH CỦA CÁ NHÂN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ ........... 6
1.1 Khái quát chung về quyền của cá nhân đối với hình ảnh và về bảo vệ hình
ảnh của cá nhân trong lĩnh vực báo chí ............................................................. 6
1.1.1 Quyền nhân thân của cá nhân .................................................................. 6
1.1.2 Quyền của cá nhân đối với hình ảnh ........................................................ 9
1.1.2.1 Khái niệm hình ảnh của cá nhân ........................................................... 9
1.1.2.2 Khái niệm, đặc điểm của quyền của cá nhân đối với hình ảnh........... 10
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và các quyền
nhân thân khác của cá nhân............................................................................ 14
1.1.2.4 Giới hạn của quyền cá nhân đối với hình ảnh..................................... 16
1.1.3. Sử dụng hình ảnh trong lĩnh vực báo chí .............................................. 18
1.1.3.1 Khái niệm báo chí ............................................................................... 19
1.1.3.2 Khái niệm và phân loại hình ảnh sử dụng trên báo chí....................... 21
1.2. Quy định của pháp luật về quyền của cá nhân đối với hình ảnh và bảo vệ

hình ảnh của cá nhân trong lĩnh vực báo chí................................................... 23
1.2.1 Quy định của pháp luật dân sự ............................................................... 23
1.2.1.1 Quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh ............................... 23
1.2.1.2 Quy định về bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh ................... 29
1.2.2 Quy định của pháp luật báo chí .............................................................. 31
1.2.2.1 Quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh ............................... 31
1.2.2.2 Quy định của pháp luật báo chí về bảo vệ quyền của cá nhân đối với
hình ảnh ........................................................................................................... 33
1.2.3 Ranh giới giữa quyền tự do báo chí và quyền của cá nhân đối với hình
ảnh ................................................................................................................... 36
1.3 Sơ lƣợc về lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
của cá nhân đối với hình ảnh........................................................................... 39


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 46
Chƣơng 2. THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP VỀ BẢO VỆ
HÌNH ẢNH CỦA CÁ NHÂN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ................ 47
2.1 Thực tiễn về sử dụng hình ảnh của cá nhân trên báo chí .......................... 47
2.1.1 Vấn đề sử dụng hình ảnh của cá nhân trên báo chí khi chƣa đƣợc sự cho
phép của chủ thể mang quyền ......................................................................... 48
2.1.2 Vấn đề báo chí đăng, phát ảnh các cuộc xét xử công khai của Tòa án;
hình ảnh nghi can, nghi phạm; ngƣời bị truy nã ............................................. 52
2.1.3 Vấn đề đăng tải hình ảnh ngƣời nổi tiếng trên báo chí .......................... 57
2.2 Thực tiễn về bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong lĩnh vực
báo chí ............................................................................................................. 63
2.2.1 Tiếp nhận giải quyết khiếu nại, khởi kiện vi phạm quyền của cá nhân
đối với hình ảnh trong lĩnh vực báo chí .......................................................... 63
2.2.2 Vấn đề bồi thƣờng thiệt hại khi báo chí xâm phạm quyền của cá nhân
đối với hình ảnh............................................................................................... 66
2.3 Kiến nghị giải pháp ................................................................................... 67

2.3.1 Bổ sung quy định pháp luật giải thích các thuật ngữ về quyền của cá
nhân đối với hình ảnh ...................................................................................... 67
2.3.2 Thống nhất các quy định trong pháp luật dân sự và pháp luật báo chí về
quyền của cá nhân đối với hình ảnh ................................................................ 68
2.3.3 Bổ sung quy định của pháp luật về quyền đƣa tin, hình ảnh về ngƣời nổi
tiếng trong lĩnh vực báo chí.............................................................................69
2.3.4 Hoàn thiện quy định pháp luật về phƣơng thức khiếu nại, tố cáo xử lý
các hành vi vi phạm quyền cá nhân đối với hình ảnh trên báo chí..................71
2.3.5 Bổ sung căn cứ xác định thiệt hại và bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí..........................................................73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền cá nhân với hình ảnh là giá trị nhân thân mang tính cá biệt hóa
cá nhân, là giá trị nhân thân quan trọng cần đƣợc bảo vệ. Đặc biệt, trong điều
kiện hiện nay, trƣớc sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - kỹ
thuật, các thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng trở nên phổ biến, với sự trợ
giúp của internet, hình ảnh đƣợc phát tán rộng với tốc độ nhanh thì quyền của
cá nhân đối với hình ảnh lại càng cần đƣợc bảo vệ hơn lúc nào hết.
Trong lĩnh vực báo chí, những giá trị nhân thân của cá nhân nhƣ hình
ảnh, thông tin, tƣ liệu đời tƣ, họ, tên hay những thông tin khác đƣợc khai thác
và sử dụng nhƣ một nguồn dữ liệu quan trọng đối với việc đăng bài, đƣa tin
để thực hiện chức năng thông tin của báo chí. Trong bối cảnh nền kinh tế - xã
hội nƣớc ta ngày càng phát triển thì báo chí cũng ngày càng đổi mới, bám sát

đời sống xã hội, thông tin nhanh chóng, nhiều hình ảnh minh họa đa dạng và
phong phú. Mỗi ngày báo chí nƣớc ta sử dụng một số lƣợng rất lớn hình ảnh,
trong đó có hình ảnh của cá nhân. Việc sử dụng hình ảnh cá nhân trên báo chí
là cần thiết, phù hợp với các quyền về tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin,
làm cho tác phẩm báo chí trở nên hấp dẫn, sinh động. Tuy nhiên, trong lĩnh
vực báo chí cũng rất dễ đối mặt với việc xâm phạm tới một quyền vô cùng
quan trọng của con ngƣời, đó chính là quyền nhân thân, đặc biệt là quyền của
cá nhân với hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh cá nhân có liên quan đến con
ngƣời cụ thể trong nhiều trƣờng hợp có thể ảnh hƣởng đến cuộc sống bình
thƣờng của con ngƣời, thậm chí làm cho cuộc đời một con ngƣời rẽ sang ngã
khác không mong muốn.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và
ngày càng trở nên hoàn thiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mới nhất,
Bộ luật Dân sự năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua


2

chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017, trong đó đã quy định chi
tiết hơn về quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Kế thừa quy định của Hiến
pháp và pháp luật quốc tế, pháp luật về báo chí cũng ghi nhận và bảo vệ
quyền nhân thân với tƣ cách là một trong những quyền lợi thiêng liêng của cá
nhân, trong đó có quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay ở nƣớc ta, trong thời đại báo chí truyền
thông ngày càng phát triển, việc vi phạm quyền nhân thân trong đó có quyền
hình ảnh trong lĩnh vực báo chí ngày càng khó kiểm soát, trong khi việc áp
dụng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cá nhân trong quá trình
tác nghiệp của báo chí, cũng nhƣ khi có vi phạm xảy ra còn nhiều hạn chế.
Hiện hầu hết các vụ kiện về quyền đối với hình ảnh là xuất phát từ xung đột
với quyền tự do báo chí.

Do đó, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích đề tài: "Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí". Vƣợt
qua những khó khăn trong quá trình thực hiện khóa luận, hy vọng thành quả
của tác giả có thể đóng góp chút ít cho sự phát triển của pháp luật trong vấn
đề liên quan tới quyền cá nhân đối với hình ảnh trong lĩnh vực báo chí.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các công trình khoa học pháp lý ở Việt Nam từ trƣớc đến nay,
quyền nhân thân, trong đó có quyền của cá nhân đối với hình ảnh đã đƣợc đề
cập tới nhiều. Nhƣng hiện chƣa có một công trình nghiên cứu một cách toàn
diện và làm rõ lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ hình ảnh của cá nhân trong
lĩnh vực báo chí.
Ở những khía cạnh khác nhau, một số công trình nghiên cứu liên quan
tới đề tài này đã đƣợc một số tác giả đề cập nhƣ: Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trƣờng do TS Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài: ―Quyền nhân thân của
cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự, Trƣờng Đại học


3

Luật Hà Nội, năm 2008 và đề tài "Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do xâm
phạm các quyền nhân thân của cá nhân" do PGS. TS. Phùng Trung Tập chủ
nhiệm đề tài năm 2014 có đề cập tới hành vi xâm phạm các quyền nhân thân
trên báo chí và bảo vệ quyền nhân thân nói chung... ―Quyền của cá nhân đối
với hình ảnh trong pháp luật một số nƣớc phƣơng Tây - đối chiếu với pháp
luật Việt Nam‖ (Chu Tuấn Đức, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 4/2008);
Luận văn Thạc sỹ "Quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí", Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội năm 2015, tác giả Lƣu Thúy Hòa; Luận văn Thạc sỹ luật học
"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền nhân thân của cá nhân đối với
hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam" do Phùng Bích Ngọc thực hiện
năm 2011...

Các công trình nghiên cứu, các bài viết kể trên đã trực tiếp hoặc gián
tiếp đi vào nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của cá nhân đối
với hình ảnh ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, những công trình này chƣa
đi sâu vào nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ hình ảnh cá nhân
trong lĩnh vực báo chí một cách toàn diện, bao quát.
Nhận thức đƣợc vấn đề này, đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí" cố gắng đi sâu vào vấn đề
nhằm đƣa ra một tác phẩm toàn diện, đầy đủ và đảm bảo không có sự trùng
lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã đƣợc công bố.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung đi
sâu vào nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ hình ảnh cá nhân
trong lĩnh vực báo chí một cách toàn diện, bao quát. Luận văn nghiên cứu,
đƣa ra khái niệm về quyền nhân thân, về quyền của cá nhân đối với hình ảnh
và chỉ ra những đặc điểm của quyền nhân thân này; đồng thời đƣa ra khái
niệm báo chí và hoạt động báo chí một cách bao quát nhất. Luận văn phân


4

tích, đánh giá thực tế những bất cập trong quy định pháp luật về bảo vệ hình
ảnh cá nhân trong trong lĩnh vực báo chí cũng nhƣ thực trạng áp dụng pháp
luật và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực này. Luận văn tìm hiểu, đƣa ra
những giải pháp cụ thể mang tính hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo
vệ hình ảnh của cá nhân trong lĩnh vực báo chí.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài với mục đích đầu tiên xây dựng đƣợc khái niệm và
các đặc trƣng cơ bản của quyền nhân thân, quyền cá nhân đối với hình ảnh; lý
luận chung về báo chí, hoạt động báo chí. Thứ hai là làm rõ đƣợc quy định

của BLDS 2015, Luật Báo chí và các văn bản pháp luật liên quan về bảo vệ
hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí. Trên cơ sở đó, mục đích thứ ba là
nhận xét, đánh giá đƣợc việc áp dụng pháp luật và bảo vệ quyền nhân thân
này trong lĩnh vực báo chí trên thực tế. Hƣớng tới mục đích tiếp theo là tìm ra
những bất cập trong quy định của pháp luật, chỉ ra những điểm chƣa phù hợp
với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật. Cuối cùng,
mục đích nghiên cứu đề tài này sẽ tạo một nguồn tham khảo cho những đối
tƣợng quan tâm, nghiên cứu luật học và các cơ quan áp dụng pháp luật.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc xác
định nhƣ sau: Trình bày khái quát cơ sở lý luận chung về quyền nhân thân và
bảo vệ quyền hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí. Phân tích, đánh giá nội
dung pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực
báo chí. Đƣa ra phƣơng hƣớng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí.


5

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
đề tài nhƣ: Phƣơng pháp so sánh luật: nghiên cứu các quy định pháp lý của
Việt Nam về bảo vệ quyền của cá nhân với hình ảnh trong lĩnh vực báo chí,
các quy định pháp lý cơ bản của nƣớc ngoài về quyền nhân thân này trong
lĩnh vực báo chí, từ đó rút ra những điểm tƣơng đồng, khác biệt phục vụ cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Đối
với mỗi một quan điểm khoa học đƣa ra, học viên đã phân tích, tổng hợp để
rút ra những điểm ƣu, nhƣợc và dẫn đến cách nhìn nhận của bản thân. Ngoài
ra học viên còn sử dụng một số phƣơng pháp khác nhƣ quy nạp, diễn giải...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp tác giả nắm rõ hơn lý luận và thực tiễn
về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay, góp
phần tích cực cho hoạt động thực tiễn của bản thân. Đồng thời, kết quả nghiên
cứu đề tài cũng sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo có giá trị phục vụ cho
việc học tâp của sinh viên Luật cũng nhƣ của những nhà làm luật thực tế, và ở
một số khía cạnh nào đó sẽ có ý nghĩa nhất định cho các nhà lập pháp trong
quá trình sửa đổi, bổ sung cũng nhƣ ban hành mới các văn bản có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài: "Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí" có kết cấu gồm phần
Mở đầu, phần nội dung chính, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo. Nội
dung chính của luận văn gồm:
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật về quyền của
cá nhân đối với hình ảnh và về bảo vệ hình ảnh cá nhân trong lĩnh vực báo chí
- Chƣơng 2: Thực tiễn và kiến nghị giải pháp bảo vệ hình ảnh cá nhân
trong lĩnh vực báo chí


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH VÀ BẢO VỆ HÌNH
ẢNH CỦA CÁ NHÂN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ
1.1 Khái quát chung về quyền của cá nhân đối với hình ảnh và bảo vệ
hình ảnh của cá nhân trong lĩnh vực báo chí
1.1.1 Quyền nhân thân của cá nhân
Cùng với sự phát triển mọi mặt về kinh tế - xã hội, vấn đề con ngƣời
ngày càng đƣợc coi trọng và đảm bảo về cả yếu tố vật chất và tinh thần.
Trong đó, những giá trị về nhân thân của con ngƣời đã và đang đƣợc xã hội

quan tâm, đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ với tƣ cách là quyền nhân
thân.
―Quyền‖ hiểu dƣới góc độ pháp lý là khả năng đƣợc phép xử sự mà
pháp luật công nhận cho chủ thể thực hiện và bảo vệ lợi ích của mình. Có
nhiều cách để phân loại quyền dựa trên những cơ sở khác nhau, có thể phân
loại quyền theo các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Quyền nhân
thân đƣợc ghi nhận là một trong những quyền dân sự của cá nhân và đƣợc cụ
thể hóa trong các quy định của pháp luật dân sự.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học 1999 thì: ―Giá trị nhân thân
của cá nhân và tổ chức được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Chỉ những giá trị
nhân thân được pháp luật ghi nhận mới được coi là quyền nhân thân. Quyền
nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định...‖.1 Cách giải thích này dƣờng nhƣ đã bó
hẹp quyền nhân thân của con ngƣời khi cho rằng quyền nhân thân chỉ là
những giá trị nhân thân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ còn những giá trị
nhân thân không đƣợc ghi nhận thì sẽ không đƣợc coi là quyền nhân thân.

1

Từ điển giải thích thuật ngữ luật học 1999, tr.105.


7

Theo công trình nghiên cứu cấp bộ ―Vai trò của Tòa án nhân dân trong
việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định BLDS‖ (1997),
quyền nhân thân đƣợc hiểu theo hai cách:
(i) Dƣới giác độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự đƣợc hiểu là quyền
con ngƣời về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân đƣợc hƣởng thụ với tƣ cách là
thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm ngƣời đó đƣợc sinh ra và bằng các

quyền đó, mỗi cá nhân đƣợc khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao
lƣu dân sự, do đó, mỗi cá nhân đều có quyền nhân thân riêng và quyền này
không thể chuyển giao cho ngƣời khác, trừ trƣờng hợp pháp luật quy định
khác.
(ii) Dƣới giác độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân là
chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân để đảm bảo địa vị pháp lý của mỗi cá nhân, là cơ sở
pháp lý để cá nhân thể hiện các quyền con ngƣời về dân sự trong bảo hộ của
nhà nƣớc và pháp luật. Ở đây, quyền nhân thân đã đƣợc quy định thành điều
luật và mỗi cá nhân trong xã hội có quyền đƣợc hƣởng và đƣợc Nhà nƣớc bảo
vệ khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm tới quyền nhân thân của họ.
Bàn về khái niệm quyền nhân thân, TS. Lê Đình Nghị đã xây dựng khái
niệm quyền nhân thân trên hai phƣơng diện khách quan và chủ quan. Cụ thể,
về phƣơng diện khách quan: ―quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù
pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành,
trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn
liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình".
Về phƣơng diện chủ quan thì: ―quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan
gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân
không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác‖.2
Có thể thấy, qua phân tích về khái niệm quyền nhân thân, các tác giả,
nhà nghiên cứu đã tập trung làm rõ bản chất cốt lõi của quyền nhân thân trên
các yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung quyền. Việc xác định khách thể là
2

Lê Đình Nghị, Luận án ―Quyền bí mật đời tƣ theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam‖ (năm 2008).


8


các giá trị nhân thân ở phạm vi rộng hẹp khác nhau cũng đã hình thành các
quan điểm khác nhau, chƣa kể tới nội dung quyền nhân thân đƣợc khái quát
trong khái niệm cũng có nhiều ý kiến trái chiều.
Trên cơ sở tiếp thu và đánh giá các quan điểm khác nhau định nghĩa về
quyền nhân thân, luận văn nhận thấy cần xây dựng một khái niệm quyền nhân
thân chứa đựng đầy đủ các yếu tố về chủ thể, khách thể và nội dung quyền
nhân thân và thể hiện đƣợc dấu hiệu phân biệt quyền nhân thân với các quyền
khác.
Để xây dựng khái niệm về quyền nhân thân của cá nhân, luận văn tiếp
cận dƣới góc độ là một quyền năng dân sự của mỗi cá nhân và nhƣ vậy, cần
làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân của cá nhân là một bộ phận của quyền dân
sự, và nếu nhƣ quyền dân sự thuộc về mọi chủ thể của quan hệ dân sự có
tham gia quan hệ dân sự trong từng lĩnh vực cụ thể thì quyền nhân thân của cá
nhân chỉ thuộc về cá nhân mà thôi.
Thứ hai, quyền nhân thân của cá nhân luôn hƣớng tới những giá trị tinh
thần của cá nhân đó. Tất cả những quyền này liên quan mật thiết đến những
nhu cầu cần có của một cá nhân sống trong xã hội và bất cứ ai cũng không
đƣợc phép xâm phạm.
Thứ ba, quyền nhân thân của cá nhân không thể chuyển giao cho ngƣời
khác, nghĩa là quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó có
quyền thực hiện hoặc do ngƣời đại diện của họ thực hiện trong một số trƣờng
hợp do pháp luật quy định.
Từ những phân tích trên đây có thể đƣa ra định nghĩa về quyền nhân
thân của cá nhân nhƣ sau: ―Quyền nhân thân của cá nhân là những giá trị
nhân thân được pháp luật ghi nhận, bảo vệ nhằm bảo đảm địa vị pháp lý của
mỗi cá nhân trong xã hội và những giá trị tinh thần của cá nhân đó. Mỗi
người có quyền nhân thân riêng, không thể chuyển giao quyền này cho người
khác khác trừ trường hợp do pháp luật quy định và không ai được phép xâm

phạm tới quyền đó‖.


9

Với tƣ cách là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể chuyển
giao cho chủ thể khác, quyền nhân thân của cá nhân có các đặc điểm: quyền
nhân thân là một quyền dân sự đặc biệt; quyền nhân thân đƣợc đảm bảo bình
đẳng giữa các cá nhân; quyền nhân thân có tính chất phi tài sản; quyền nhân
thân luôn gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho ngƣời khác.
1.1.2 Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
1.1.2.1 Khái niệm hình ảnh của cá nhân
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm, định nghĩa đƣợc đƣa ra về hình ảnh
của cá nhân. Tuy nhiên, chƣa có một định nghĩa nào thật sự ngắn gọn dễ hiểu
để nhận diện vấn đề này. Để tái hiện hình ảnh của một ngƣời có một số các
hình thức cơ bản sau đây: Ảnh chụp, ảnh họa chép (tranh vẽ ngƣời có thể là
tranh truyền thần hoặc tranh phác họa dung nhan một ngƣời), tƣợng (khắc đá,
khắc gỗ...), ảnh thêu, hình ảnh lƣu lại do quay phim một hoặc nhiều cá nhân...
Trên thực tế hiện nay thì việc hiểu ―hình ảnh" là gì phụ thuộc vào bản chất
cùa từng lĩnh vực, từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Trong lĩnh vực truyền hình, khái niệm hình ảnh đƣợc hiểu là những gì
mà con ngƣời thấy đƣợc thông qua thị giác rồi sau đó chuyền về não, giúp con
ngƣời cảm nhận hình ảnh đó một cách thực chất. Từ đó đƣa ra những phản xạ,
cảm nhận những hình ảnh mà con ngƣời vừa tiếp nhận đƣợc.
Trong lĩnh vực mỹ thuật, khái niệm hình ảnh đƣợc hiểu là sự diễn tả
hay tái hiện một vật, một ngƣời trong nghệ thuật tạo hình (hội họa, đồ họa,
điêu khắc). Hình ảnh trong nghệ thuật không phải là sự sao chụp thụ động vẻ
bên ngoài cùa mẫu thuật, mà còn nhằm lột tả tinh thần của mẫu.
Trong triết học, thì hình ảnh đƣợc xem kết quả của sự phản ánh khách
thể, đối tƣợng vào ý thức của con ngƣời. Ở trình độ cảm tính thì hình ảnh là

những cảm giác, tri giác và biểu tƣợng. Ở trình độ tƣ duy, đó là những khái
niệm, phán đoán và suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là khách quan; về
cách nhận thức tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể hiện vật chất của


10

hình ảnh là cách hành động thực tiễn, ngôn ngữ, các mô hình ký hiệu khác
nhau.
Qua các khái niệm về hình ảnh của từng ngành nghề, lĩnh vực nhất định
trên đây cho chúng ta thấy tùy thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau
thì lại có những cách nhận định về hình ảnh khác nhau. Nếu trong truyền hình
coi hình ảnh là những gì mà chúng ta thấy đƣợc thông qua thị giác, phản
chiếu lên não bộ chúng ta thì đối với các nhiếp ảnh gia hình ảnh lại bao gồm
hình dáng và màu sắc của vật thể. Nếu theo cách hiểu thông thƣờng thì hình
ảnh là sự sao chép hình ảnh, biểu tƣợng mà tƣ duy chúng ta có thể nhận biết
đƣợc thì trong mỹ thuật lại coi hình ảnh chính là sự diễn tả một vật thể, con
ngƣời trong nghệ thuật tao ra hình ảnh. Do đó yếu tố tinh thần của vật thể tạo
nên hình ảnh trong mỹ thuật luôn đƣợc đề cao. Hay nói cách khác hình ảnh
không chỉ đơn thuần là sự phản chiếu của sự vật, hiện tƣợng mà trong mỗi
bức ảnh còn phải ẩn chứa nét riêng của chủ thể trong từng bức ảnh giúp phân
biệt hình ảnh đó và các hình ảnh khác.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể hiểu: Hình ảnh chính là sự sao chép lại những
hình ảnh, biểu tƣợng, đƣợc nhận thức bằng tƣ duy cùa con ngƣời hoặc bằng
các cách thức sao chụp nguyên mẫu. Tuy nhiên hình ảnh lúc này phải đảm
bảo yếu tố không chỉ đơn thuần là sự sao chép nguyên mẫu mà còn phải để lại
dấu ấn riêng cho từng bức ảnh. Hay nói cách khác hình ảnh không tồn tại độc
lập với đối tƣợng đƣợc phản ánh mà phải bảo đảm nội dung của đối tƣợng
phản ánh.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm nhƣ sau: ―Hình ảnh

của cá nhân là sự tái hiện lại vẻ bề ngoài của một người bằng cách thức nào
đó có thể ghi lại và gây ấn tượng thị giác cho những người khác và người
xem ảnh có thể nhận diện được cá nhân đang được tái hiện là ai‖.
1.1.2.2 Khái niệm, đặc điểm của quyền của cá nhân đối với hình ảnh
Xuất phát từ thực tế nhiều cá nhân chƣa thực sự hiểu và nhận thức rõ về
quyền của cá nhân đối với hình ảnh của chính bản thân mình nên hầu hết họ


11

chƣa thực sự biết phƣơng thức bảo vệ hình ảnh của cá nhân khi có hành vi
xâm phạm của ngƣời khác. BLDS năm 2015 chỉ đƣa ra một khía cạnh của
quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quy định mọi cá nhân có quyền đối với
hình ảnh của mình mà không quy định rõ quyền đối với hình ảnh là nhƣ thế
nào.
Giá trị cốt lõi của quyền của cá nhân đối với hình ảnh là các quyền
thuộc giá trị tinh thần đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó, cá nhân có
hình ảnh có những quyền xử sự để thực hiện và bảo vệ quyền trƣớc các hành
vi xâm phạm. Nó hoàn toàn không phải là quyền bảo vệ hình ảnh theo nghĩa
vật chất nhƣ chống đốt, xé, cất giữ tránh hƣ hỏng.
Quyền đối với hình ảnh có thể là quyền của cá nhân đối với diện mạo
bên ngoài của mình nhƣ hình dáng, khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ... Ngay cả hình
ảnh chụp một ngƣời từ phía sau vẫn có thể vi phạm quyền nhân thân của cá
nhân đối với hình ảnh nếu qua hình ảnh đó có thể nhận ra ngƣời này nhờ vào
hình thể, tƣ thế và kiểu tóc... Hoặc quyền đối với hình ảnh của cá nhân có thể
hiểu là hình ảnh đƣợc tạo nên bởi sự công nhận của công chúng và gắn liền
với hình ảnh của cá nhân nhƣ hình ảnh ngƣời đàn bà đẹp gắn liền với nữ diễn
viên Julia Robert.
Hiện nay pháp luật đã đặt ra những quy định cụ thể về quyền nhân thân
đối với hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh để xâm phạm danh dự, nhân phẩm,

uy tín của ngƣời có ảnh bị nghiêm cấm. Nếu đối chiếu với luật của nƣớc
ngoài thì cơ chế pháp luật của Việt Nam khá hoàn chỉnh. Cá nhân đƣợc bảo
vệ hình ảnh dƣới nhiều hình thức, dù là tranh vẽ, ảnh chụp hoặc quay phim.
Điều quan trọng là hình ảnh phải lấy từ một ngƣời và giống với ngƣời đó.
Giống nhƣ quy định của một số nƣớc, quy định trong pháp luật dân sự Việt
Nam chỉ bảo vệ hình ảnh của cá nhân mà ngƣời trong ảnh có thể bị nhận
dạng, không phụ thuộc vào việc ảnh có khuôn mặt hay có ghi tên của cá nhân
đó. Trừ trƣờng hợp vì lợi ích Nhà nƣớc, lợi ích công cộng thì việc sử dụng
hình ảnh của cá nhân phải đƣợc sự đồng ý của ngƣời đó.
Là một quyền nhân thân, quyền cá nhân đối với hình ảnh đƣợc thể hiện
ở những điểm sau: Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền tuyệt đối của


12

cá nhân; Cá nhân có quyền đƣợc phép sử dụng hình ảnh của mình và có
quyền cho ngƣời khác sử dụng hình ảnh của mình; Quyền đƣợc bảo vệ đối
với hình ảnh của cá nhân trƣớc hành vi sử dụng hình ảnh trái phép.
Thứ nhất, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền tuyệt đối của cá
nhân nên chỉ có cá nhân đó mới có quyền quyết định việc thay đổi hình ảnh
hay vẻ bề ngoài của mình nhƣ cắt một kiểu tóc, trang điểm khuôn mặt, phong
cách thời trang là sự lựa chọn của chính cá nhân đó (trừ những ngƣời chƣa
thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì việc làm này phải có sự đồng
ý của ngƣời đại diện của họ là cha, mẹ, vợ, chồng, con...).
Thứ hai, cá nhân có quyền sử dụng hình ảnh của mình và có quyền cho
ngƣời khác sử dụng hình ảnh của mình. Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực
riêng tƣ của mỗi ngƣời. Tuy nó không có gì bí mật, cần phải hạn chế sử dụng
nhƣng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của cá nhân ai đó, nhất là sử
dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (nhƣ in lịch, in bìa sách, bao bì mẫu
quảng cáo…) thì đều phải hỏi ý kiến ―ngƣời chủ‖ hình ảnh đó (ngƣời thật có

hình đó). Bởi về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của
mình. Mỗi ngƣời đều có quyền cho hay không cho ngƣời khác sử dụng hình
ảnh của mình. Nếu chƣa đƣợc sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của
cá nhân đối với hình ảnh.
Nhƣ vậy, quyền định đoạt cho chủ thể khác sử dụng hình ảnh của cá
nhân đƣợc thể hiện ở việc chủ sở hữu ảnh ―đồng ý‖ cho sử dụng ảnh. Việc sử
dụng hình ảnh của cá nhân thông qua việc tự khai thác giá trị thƣơng mại hình
ảnh của bản thân bằng việc bán hình ảnh của mình cho ngƣời khác sử dụng và
nhận tiền. Ví dụ: Ngƣời mẫu ký hợp đồng với các nhiếp ảnh gia, theo đó các
nhiếp ảnh gia phải trả tiền để đƣợc chụp ảnh họ. Xét về khía cạnh bản quyền
thì bức ảnh tấm hình, pho tƣợng... đều là tác phẩm nghệ thuật và đƣợc bảo hộ
quyền tác giả. Ngƣời sử dụng tác phẩm trƣớc hết phải xin phép chủ sở hữu
quyền tác giả và trả cho họ một khoản lợi ích vật chất. Nhƣng dừng lại về mặt
quan hệ dân sự, ai muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân đều phải đƣợc sự đồng
ý của ngƣời có hình ảnh đó.


13

Thứ ba, quyền đƣợc bảo vệ đối với hình ảnh của cá nhân trƣớc hành vi
sử dụng trái phép. Ta thấy quyền nhân thân nói chung trong đó có quyền của
cá nhân đối với hình ảnh thuộc thẩm quyền tuyệt đối, thể hiện sự ghi nhận của
nhà nƣớc đối với các giá trị tinh thần của cá nhân, bất kỳ hành vi xâm phạm
quyền nhân thân nào cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý: Trách nhiệm
đó có thể là trách nhiệm hình sự, hành chính hay dân sự. Hiện nay, pháp luật
quy định cả biện pháp bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân
đó. Theo đó, ngƣời xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của ngƣời
khác dù có cố ý hay vô ý đều có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi
cải chính công khai, nếu gây thiệt hại phải bồi thƣờng thiệt hại.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể hiểu quyền của cá nhân

đối với hình ảnh là: quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ, liên quan tới việc sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh
theo ý chí cá nhân đó.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh có những đặc điểm sau:
Một là, quyền của cá nhân đối với hình ảnh của cá nhân có từ khi cá
nhân sinh ra. Mỗi chủ thể đƣợc công nhận một cách vô điều kiện với quyền
nhân thân đối với hình ảnh. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đƣợc công
nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc
vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của ngƣời đó.
Hai là, quyền của cá nhân đối với hình ảnh không thể chuyển giao cho
ngƣời khác. Nó có ý nghĩa cá biệt hóa cá nhân này với cá nhân khác, tạo ra
những dấu hiệu phân biệt và nhận dạng của các cá thể trong xã hội với nhau.
Hình ảnh của cá nhân mang tính cá biệt cao cho nên đại đa số các giấy tờ tùy
thân hoặc bằng cấp của cá nhân bao giờ cũng có ảnh bên cạnh họ tên của cá
nhân.
Ba là, quyền của cá nhân đối với hình ảnh đƣợc bảo hộ vô thời hạn. Bởi
lẽ hình ảnh là sự tái hiện lại dáng vẻ của một ngƣời bằng cách thức ghi chép
nào đó và gây ấn tƣợng thị giác cho ngƣời khác để khi ngƣời xem nhìn vào có
thể nhận diện đƣợc dung nhan của đối tƣợng hình ảnh. Cho nên, hình ảnh của
cá nhân không chỉ gắn liền với cá nhân đó khi còn sống mà còn tiếp tục ngay


14

cả sau khi ngƣời đó đã mất. Vì vậy, quyền của cá nhân đối với hình ảnh liên
quan đến những dấu ấn về hình ảnh gắn liền với ngƣời đó và không thể thay
thế đƣợc. Ngay cả sau khi một ngƣời đã chết thì ngƣời thân đều có quyền yêu
cầu chấm dứt hành vi xâm phạm tới hình ảnh của ngƣời ấy.
Bốn là, quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền đƣợc bảo vệ khi
có yêu cầu. Nhà nƣớc và các cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể bảo vệ công

dân khi có yêu cầu thực thi quyền này. Trong thời đại công nghệ thông tin,
việc phát tán hình ảnh diễn ra quá nhiều và nhanh chóng nên các cơ quan hữu
quan khó có khả năng quản lý một cách chặt chẽ. số vụ án tòa giải quyết có
liên quan tới vấn đề này không nhiều và hầu hết là xuất phát từ chủ thể có
quyền (đƣơng sự trực tiếp bị xâm hại quyền hoặc ngƣời đại diện hợp pháp).
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và các quyền
nhân thân khác của cá nhân
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh có một vị trí rất quan trọng và có
mối quan hệ chặt chẽ, qua lại đối với các quyền nhân thân khác trong hệ
thống các quyền nhân thân.
(i) Đối với quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền bảo vệ về danh dự, nhân
phẩm, uy tín là hai quyền có mối quan hệ chặt chẽ nhất, chúng cùng thuộc
nhóm quyền an toàn về tinh thần.
Điểm khác biệt đầu tiên giữa quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
và quyền cá nhân đối với hình ảnh đó là quyền nhân thân đối với hình ảnh
trong trƣờng hợp ngƣời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chƣa đủ 15
tuổi thì phải đƣợc cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc ngƣời đại diện
của ngƣời đó đồng ý, trừ trƣờng hợp vì lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công
cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Còn quyền bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín phải do chính cá nhân đó thực hiện, không ai có thể thực hiện
thay họ.


15

Thứ hai, khác biệt với quyền cá nhân đối với hình ảnh chỉ đƣợc áp
dụng đối với cá nhân, quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thuộc về cả
cá nhân hoặc tổ chức.
Thứ ba, cách thức xâm phạm tới hai quyền này cũng có khác biệt lớn:

nếu việc đăng tải, quay phim,... về hình ảnh của cá nhân trái với hoặc không
có sự đồng thuận của cá nhân là hành vi xâm phạm quyền cá nhân đối với
hình ảnh còn hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm thƣờng thể hiện bằng
cách dùng những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ, khinh bỉ, thiếu
văn hóa để làm nhục ngƣời khác khiến xã hội đánh giá sai hoặc hình dung sai
về cá nhân đó (có thể là việc đăng tải hình ảnh xấu làm ảnh hƣởng tới danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân hoặc tổ chức đó). Tuy nhiên, tính chất
nghiêm trọng của những tin tức đƣa ra có thể khác nhau tùy theo nhân thân
của ngƣời bị hại.
Hai quyền này tồn tại những điểm khác biệt nhƣng luôn có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Pháp luật dân sự nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của
ngƣời khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngƣời có hình ảnh.
Vì vậy, nếu xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân thì phải bồi
thƣờng thiệt hại tinh thần bằng cách viện dẫn đến quy định về bồi thƣờng thiệt
hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín và phải chứng minh đƣợc hành vi xâm
phạm đó gây tổn thất tinh thần cho mình.
(ii) Đối với quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
Theo TS Lê Đình Nghị, “quyền bí mật đời tư là những thông tin, tư
liệu (gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những
thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quả khứ cũng như trong hiện tại,
được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện
pháp mà pháp luật thừa nhận”.3 Một thông tin, tài liệu đƣợc coi là bí mật đời
tƣ nếu thông tin, tài liệu đó phải nói về thuần tuý cuộc sống riêng tƣ thầm kín
của cá nhân; những thông tin, tài liệu này không bắt buộc phải công khai cho
mọi ngƣời biết; việc giấu kín thông tin, tài liệu này không làm ảnh hƣởng đến
Lê Đình Nghị, ―Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân sự‖, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, tháng 12/2008
3



16

lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội và của cá nhân khác. Quyền cá nhân đối với
hình ảnh có đối tƣợng hẹp hơn quyền bí mật đời tƣ, đó là: quyền cá nhân đối
với hình ảnh có đối tƣợng cụ thể - hình ảnh của chính cá nhân đó còn quyền
bí mật đời tƣ có đối tƣợng là mọi thông tin, tài liệu liên quan đến quá khứ và
hiện tại của cá nhân đó. Một điểm khác biệt nữa, tính bí mật đời tƣ khá tƣơng
đối vì đối với những thông tin mang cùng bản chất đứng dƣới góc độ từng cá
nhân khác nhau thì việc giữ kín hay tiết lộ lại có ảnh hƣởng khác nhau. Quan
điểm xác định nhƣ thế nào là bí mật đời tƣ là do từng cá nhân trong xã hội và
tùy thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ thói quen sống, phong tục tập quán, công
việc,...
Kết luận lại, các mối quan hệ nêu trên đã khẳng định quyền của cá nhân
đối với hình ảnh có một vị trí rất quan trọng đối với các quyền nhân thân khác
trong hệ thống các quyền nhân thân. Việc quy định cụ thể, chi tiết và bảo đảm
thực hiện tốt quyền của cá nhân đối với hình ảnh sẽ góp phần hạn chế và ngăn
chặn những hành vi vi phạm các quyền nhân thân khác. Đồng thời là cơ sở, là
tiền đề cho việc định ra một cơ chế pháp lý trong việc bảo vệ cũng nhƣ thực
hiện các quyền nhân thân khác. Quy định chặt chẽ quyền này sẽ đóng góp vào
sự nghiệp giải phóng con ngƣời, đảm bảo cho quyền con ngƣời, những phẩm
giá của con ngƣời đƣợc tôn trọng.
1.1.2.4 Giới hạn của quyền cá nhân đối với hình ảnh
Quyền nhân thân đối với hình ảnh là một trong những quyền nhân thân
tuyệt đối của cá nhân, không thể chuyển giao. Tuy nhiên, quyền này cũng có
một vài ngoại lệ, giới hạn trong một số trƣờng hợp.
Thuật ngữ ―giới hạn‖ theo từ điển tiếng Việt thì đó là mức định phải
dừng lại, không thể vƣợt qua. Quyền cá nhân đối với hình ảnh là một trong
những quyền nhân thân tuyệt đối của cá nhân, không thể chuyển giao. Tuy
nhiên, quyền này chỉ có thể đƣợc bảo vệ hoàn toàn một cách vô điều kiện khi
cá nhân có hình ảnh thấy rằng quyền của mình bị xâm phạm. Thực tế, nhiều

văn bản luật dù chặt chẽ đến mấy cũng không thể giải quyết thỏa đáng đƣợc


17

tất cả những vấn đề rắc rối phát sinh hằng ngày trong cuộc sống. Bởi vậy,
quyền cá nhân đối với hình ảnh cũng không phải là ngoại lệ. Tại Điều 32 của
Bộ luật Dân sự 2015 thì việc sử dụng hình ảnh cá nhân mà không có sự đồng
ý của ngƣời có hình ảnh; cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên của ngƣời có
hình ảnh đã chết, ngƣời có hình ảnh mà bị mất năng lực hành vi dân sự, ngƣời
có hình ảnh trẻ dƣới mƣời lăm tuổi sẽ không bị coi là vi phạm nếu vì lợi ích
của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng hoặc do pháp luật quy định đƣợc sử dụng.
a. Trường hợp xung đột với quyền lợi chung, quyền lợi của bên thứ ba
Cá nhân không thể viện dẫn quyền cá nhân đối với hình ảnh nếu họ chỉ
có mặt trong một bức ảnh chụp phong cảnh hoặc ảnh chụp các buổi tụ tập
đông ngƣời nhƣ mít tinh, biểu tình ... Ở đây, ngƣời chụp ảnh không nhằm ghi
hình đƣơng sự mà ghi hình phong cảnh hoặc các sự kiện đang diễn ra. Đƣơng
sự chi là một bộ phận trong phong cảnh hoặc sự kiện đó. Trƣờng hợp ngƣời
chụp ảnh tập trung mô tả đƣơng sự, trong đó phong cảnh và sự kiện chi đóng
vai trò làm nền thì vấn đề về quyền nhân thân đối với hình ảnh sẽ đƣợc đặt ra
(đƣơng sự bị chụp cận cảnh và tách hẳn với bối cảnh xung quanh). Tại Việt
Nam không có quy định cụ thể nào phân biệt rõ hình ảnh bắt buộc xin phép cá
nhân và hình ảnh đƣợc phép chụp hình. Quy định đăng hình truy nã tội phạm
chỉ cơ quan có thẩm quyền mới đƣợc ra quyết định đối với những tội phạm
gây nguy hiểm cho xã hội. Pháp luật của các nƣớc đều cho phép đăng hình tội
phạm bị truy nã để phục vụ cho việc bắt tội phạm. Vì đây là những đối tƣợng
nguy hiểm cho xà hội, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên việc cơ quan hành
pháp đƣợc quyền đăng hình tội phạm bị truy nã giúp ngƣời dân nhận biết kẻ
nguy hiểm đồng thời giúp trong việc phát hiện tội phạm này.
Tuy nhiên, cũng nên hiểu một cách đúng đắn về vấn đề này, tránh cách

hiểu cứ có hành vi phạm tội là ngƣời nào, cơ quan nào cũng đƣợc phép đăng
hình. Nhƣ vụ dán ảnh 5 ngƣời lấy trộm hàng hóa của Siêu thị Intimex Nghệ
An đóng trên địa bàn phƣờng Trung Đô, thành phố Vinh (Nghệ An) vào một
tấm bảng lớn có nội dung là dòng chữ: "Các đối tƣợng lấy cắp hàng hóa tại
Siêu thị Intimex Nghệ An". Việc làm của Siêu thị Intimex là hoàn toàn không
đúng, dán ảnh nhƣ thế không khác là truy nã. Quy định đăng hình truy nã tội


18

phạm chỉ cơ quan có thẩm quyền mới đƣợc ra quyết định đối với những tội
phạm gây nguy hiểm cho xã hội.
Về vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo quy định tại Điều 24 Luật
Bản quyền Đức năm 1907. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền đƣợc phép
công khai đăng hình ảnh của cá nhân mà không cần sự đồng ý của ngƣời đó vì
lý do bảo vệ pháp luật hoặc an ninh công cộng. Thậm chí, Luật Tố tụng hình
sự Đức còn cho phép đăng hình tìm kiếm nhân chứng. Ở một số nƣớc đã có
luật cho nhà nhiếp ảnh (photographier’s right). Trong luật này phân định rõ
giới hạn mà nhiếp ảnh gia đƣợc phép chụp hình mà không cần sự xin phép
của cá nhân đó. Nhƣ chụp ảnh trên đƣờng, bãi biển, bãi đỗ xe, công viên,.... là
ngƣời chụp ảnh hoàn toàn đƣợc quyền chụp ảnh mà không cần phải xin phép.
Đặc biệt là đối với những ngƣời lãnh đạo có ảnh hƣởng đến cộng đồng chung,
những hành động của họ gần nhƣ trở thành cách xử sự để ngƣời dân nhìn
nhận và đánh giá, do đó họ cần phải xử sự mẫu mực cho cộng đồng và xã
hội.
b. Cá nhân từ bỏ quyền của mình đối với hình ảnh
Tất cả các quyền dân sự của cá nhân đều đƣợc tôn trọng và đƣợc pháp
luật bảo vệ, tuy nhiên trong trƣờng hợp một trong các quyền dân sự bị xâm
phạm thì yếu tố tự thỏa thuận luôn đƣợc pháp luật đề cao và chỉ khi hai bên
không thống nhất ý chí đƣợc với nhau thì tranh chấp mới xảy ra và phát sinh

thủ tục tố tụng.
Quyền cá nhân đối với hình ảnh là một quyền cơ bản của con ngƣời
nên cá nhân có toàn quyền xử sự đối với hành vì xâm phạm hình ảnh của
mình. Nhƣng một khi đƣơng sự từ bỏ quyền này của mình thì mặc nhiên
quyền nhân thân đối với hình ảnh đó của họ cũng bị từ bỏ. Vì chủ thể tự
nguyện từ bỏ thì hình ảnh cũng đƣợc từ bỏ. Nhƣ vậy, các công dân cần nhận
thức rõ ràng về quyền cá nhân đối với hình ảnh cùng những hình thức bảo vệ
tƣơng ứng của pháp luật để có thể tự bảo vệ mình.
1.1.3. Sử dụng hình ảnh trong lĩnh vực báo chí


×