Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NÔNG THỊ THOA

NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA VỤ RIÊNG VỀ TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NÔNG THỊ THOA

NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA VỤ RIÊNG VỀ TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ


Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. BÙI MINH HỒNG

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TS. Bùi Minh Hồng

Nông Thị Thoa


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy giáo,
cô giáo trong Khoa sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội, những người
đã dạy dỗ, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học
tập tại trường.

Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Bùi Minh Hồng
người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo về phương pháp làm việc, nghiên cứu
cho tôi và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột đã tạo
điều kiện cho tôi được nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã luôn giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và viết báo cáo này.
Dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót
trong quá trình hoàn thành luận văn. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô và các bạn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2017
HỌC VIÊN

Nông Thị Thoa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS&TM

Bộ luật dân sự và Thương mại

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình



MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ 5
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................... 3
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn .......................................................................... 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn ...................................................................... 4
6. Các phương pháp áp dụng để thực hiện luận văn ................................................... 4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ........................................................... 6
8. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 7
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA
VỤ RIÊNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ........................................................ 8
1.1. Một số khái niệm .................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ ........................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng .................................................... 9
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng ................................................ 13
1.3. Sự cần thiết của việc quy định nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng ...................... 17
1.4. Nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử ............................................................................................................................... 19
1.4.1. Trong pháp luật thời kỳ Phong kiến ................................................................ 19
1.4.2. Trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ............................................................... 22
1.4.3. Trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm1954 đến năm 1975................. 24
1.4.4. Trong pháp luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945 đến
trước khi ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ....................................... 26
1.4.5. Nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng từ khi ban hành Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. .......................................................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 38

Chƣơng 2 QUY ĐỊNH VỀ NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA VỤ RIÊNG VỀ
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNGTRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN HÀNH ........................................................................... 39
2.1. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng............................................................ 39


2.1.1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng
phải chịu trách nhiệm................................................................................................ 39
2.1.2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình ...................................................................................................................... 47
2.1.3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung ...... 50
2.1.4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối
tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình ........................ 53
2.1.5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật
Dân sự thì cha mẹ phải bồi thường ........................................................................... 55
2.1.6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan ................................. 56
2.2. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng ............................................................ 57
2.2.1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn .................................... 57
2.2.2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng........ 59
2.2.3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu
cầu của gia đình ........................................................................................................ 60
2.2.4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.................... 63
2.3. Chứng minh nghĩa vụ tài sản của vợ chồng ....................................................... 70
2.3.1. Chứng minh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng .................................... 71
2.3.2. Chứng minh nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng ...................................... 73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 76
Chƣơng 3 THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA VỤ
RIÊNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ............................................................. 78

3.1. Nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng trong thực tiễn xét xử ............... 78
3.1.1. Những thuận lợi trong việc áp dụng quy định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ
riêng của vợ chồng vào thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân ................................ 78
3.1.2. Một số vấn đề về áp dụng nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ
chồng trong thực tiễn xét xử của Tòa án................................................................... 82
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng ..................................................................... 89
3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ
riêng về tài sản của vợ chồng ................................................................................... 89


3.2.2. Một số kiến nghị về tổ chức thực hiện và áp dụng quy định về nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 ................................................................................................................... 94
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 98
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật
HN&GĐ.Việc thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng góp phần
vào sự ổn định các quan hệ HN&GĐ nói riêng và quan hệ dân sự nói chung.
Chế độ tài sản của vợ chồng có nhiều nội dung, trong đó nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng là một nội dung quan trọng. Tuy nhiên,
trong một thời gian dài pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam không quy định cụ
thể, rõ ràng về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng. Do đó,

vợ chồng gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài
sản của mình, mặt khác Tòa án cũng không có cơ sở pháp lý cụ thể để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ chồng. Chỉ đến khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành,
chúng ta mới thấy những quy định riêng, cụ thể về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ
riêng về tài sản của vợ chồng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để vợ chồng
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình liên quan đến các giao dịch do vợ
chồng tham gia xác lập, thực hiện, là sự hiện thực hóa của chế độ tài sản của
vợ chồng. Bên cạnh đó, quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản
của vợ chồng còn góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người thứ ba trong
giao dịch với vợ chồng. Mặc dù vậy, việc áp dụng quy định về nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp của Tòa án vẫn còn những khó khăn nhất định, xuất phát từ bất cập trong
quy định của pháp luật và những nguyên nhân khác. Do vậy, để nâng cao hiệu
quả áp dụng quy định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng
trên thực tế cần có những giải pháp phù hợp cả về hoàn thiện các quy định
của pháp luật cũng như tổ chức thực hiện các quy định này.


2

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Có thể phân loại các công trình
này thành 03 nhóm lớn:
Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong
nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ, 2005); Xác định tài sản của vợ
chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải, Luận văn Thạc
sĩ, 2002); Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - Thành tựu, vướng mắc và

hướng hoàn thiện (Trần Thị Thùy Liên, Luận văn Thạc sĩ, 2012); Xác định tài
sản riêng của vợ, chồng (Vũ Thị Hiền, Luận văn Thạc sĩ, 2014); Thực tiễn
giải quyết tranh chấp về các khoản nợ của vợ chồng trong các vụ kiện ly hôn
hiện nay (Giáp Thị Mai, Khóa luận tốt nghiệp, 2010); Một số vấn đề về tài
sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam (Trần
Đức Hoài, Luận văn thạc sĩ, 2006); Chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Đào Thị Tuyết, Luận văn thạc sĩ,
2016); Nội dung quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 (Lê Thị
Phương, Khóa luận tốt nghiệp, 2010); Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 - những vấn
đề lý luận và thực tiễn (Trần Quốc Long, Luận văn thạc sĩ luật học, 2016); Cơ
sở lý luận và thực tiễn của những điểm mới trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường - Đại học Luật Hà Nội,
2015)….
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2013);
Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc


3

Điện, Nxb Trẻ, 2004); Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tư pháp, 2008); Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ
- Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002).
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Quyền sở hữu của vợ chồng
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ, tạp chí Luật học,
số 06/2002); Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Điều 25 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 (Trần Thị Huệ, tạp chí Luật học, số 06/2000 ); Nghĩa vụ

tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nguyễn
Hồng Hải, tạp chí Luật học, số 04/2000);
Trong các công trình trên, chủ yếu có nội dung nghiên cứu về chế độ tài
sản của vợ chồng, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về
nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng theo quy định của
pháp luật HN&GĐ, đặc biệt là theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan
đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu quy định của Luật HN&GĐ
năm 2014 về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng cũng
như thực tiễn áp dụng quy định này trong quá trình tòa án giải quyết tranh
chấp liên quan đến nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một
số vấn đề sau:
- Quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ chồng. Trong đó tập trung chủ yếu vào nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng được quy định trong Luật HN&GĐ
năm 2014 và một số văn bản pháp luật có liên quan.


4

- Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ chung, nghĩa
vụ riêng về tài sản của vợ chồng tại Tòa án nhân dân. Trong đó tập trung vào
những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy định nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng vào giải quyết các tranh chấp xảy ra
trên thực tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực
tiễn xét xử của Tòa án nhân dân; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả thực thi quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản
của vợ chồng ở nước ta.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
Quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, đặc biệt là của
Luật HN&GĐ năm 2014 về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ
chồng như thế nào? Cơ sở xây dựng quy định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ chồng? Những điểm tích cực và hạn chế trong quy định về
nghĩa vụ tài sản của vợ chồng? Khi áp dụng quy định trên vào thực tế đời
sống của các cặp vợ chồng và trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan
đến nghĩa vụ tài sản của vợ chồng tại Tòa án có những thuận lợi và khó khăn
như thế nào?
6. Các phƣơng pháp áp dụng để thực hiện luận văn
Phương pháp luận: luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.


5

Xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin: tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được hình thành từ
một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã
hội, còn về phần mình xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Về lý
thuyết và thực tiễn cho thấy các quy định của pháp luật phù hợp với sự phát
triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong

quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, từ đó tạo cơ sở cho xã hội ổn định
và phát triển.
Ngoài ra trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn cũng sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng và
khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận
văn.
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây của Việt Nam cũng như
pháp luật của một số nước khác quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ chồng. Qua đó, phân tích nét tương đồng và đặc thù của
pháp luật Việt Nam quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của
vợ chồng, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán của gia
đình truyền thống Việt Nam.
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các


6

tranh chấp từ quan hệ hôn nhân và gia đình liên quan đến nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp
dụng đã phù hợp hay chưa? Các lý do? Từ đó xem xét nội dung quy định của
pháp luật về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng với thực
tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về
vấn đề này.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa khoa học:
- Luận văn góp phần nêu lên những thành tựu đã đạt được trong quá
trình áp dụng pháp luật quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản
của vợ chồng.
- Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này
về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng.
- Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng; Luận văn
cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học
tập tại các cơ sở đào tạo pháp luật.
Ý nghĩa thực tiễn:
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt
là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ
riêng về tài sản của vợ chồng, từ đó biết được quyền, nghĩa vụ của mình trong
quá trình xác lập, thực hiện các giao dịch. Đồng thời những người tham gia
giao dịch với vợ chồng cũng biết được ai sẽ là người có nghĩa vụ phải thực
hiện các nghĩa vụ tài sản, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người thứ ba.
Từ đó góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận,
hạnh phúc, bền vững.


7

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về
tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của

vợ chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp và một số kiến nghị hoàn
thiện quy định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng.


8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHUNG, NGHĨA VỤ
RIÊNG VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ
Theo từ điển Tiếng Việt, nghĩa vụ là bổn phận phải làm đối với xã hội
hoặc với người khác1.
Nghĩa vụ theo cách hiểu thông thường là những gì mà một người phải
làm hoặc không được làm đối với người khác. Theo cách hiểu này, nghĩa vụ
là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực
hiện những hành vi nhất định.
Trong đời sống hàng ngày, nghĩa vụ là xử sự mà một người phải thực
hiện vì một hoặc nhiều người khác. Tuy nhiên, sự thực hiện này không được
đặt dưới sự bảo đảm của Nhà nước bằng pháp luật. Hay nói cách khác, pháp
luật không buộc người đó phải thực hiện, mà nghĩa vụ ở phương diện này
được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức.
Về mặt khoa học pháp lý, nghĩa vụ được hiểu là việc phải làm theo bổn
phận của mình. Đó là mối quan hệ phát sinh giữa một hay nhiều chủ thể (gọi
là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc, thực hiện một hành vi hoặc
không được làm một công việc, một hành vi vì lợi ích của một hoặc nhiều
người khác2.
Ở phương diện này, nghĩa vụ của một chủ thể không những được điều
chỉnh bởi các quy phạm đạo đức mà còn được bảo đảm thực hiện bằng pháp

luật. Khi chủ thể có quyền yêu cầu, chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện bổn

Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.1196.
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, tr.560.
1
2


9

phận của mình. Nếu vi phạm nghĩa vụ phải chịu chế tài theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của BLDS năm 2015, nghĩa vụ được xác định “là việc
mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ)
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực
hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”3.
Nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật dân sự bao gồm những hành vi mà
chủ thể một bên phải thực hiện vì lợi ích của chủ thể bên kia như chuyển giao
một tài sản, thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công
việc đã được xác định. Trong mối quan hệ với người có quyền, người có
nghĩa vụ phải gánh chịu, thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi
nhất định theo thỏa thuận của các bên hoặc do pháp luật quy định để thỏa mãn
quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền.
1.1.2. Khái niệm nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng
Trong pháp luật HN&GĐ hiện hành, khái niệm hôn nhân được nhà làm
luật quy định “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”4, còn
theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội,
hôn nhân được hiểu là “Sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên

nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hòa thuận”5
Về bản chất pháp lý của hôn nhân, hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Common law, tồn tại quan niệm
phổ biến: hôn nhân là loại hợp đồng dân sự bởi vì hôn nhân chính là sự thỏa
Điều 274, BLDS năm 2015.
Khoản 1, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an Nhân
dân, Hà Nội, tr.148.
3
4


10

thuận giữa người đàn ông và người đàn bà để thiết lập quan hệ pháp lí và làm
pháp sinh và thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với nhau6.
Ở các nước Xã hội chủ nghĩa và Việt Nam, quan niệm chính thống cho
rằng: Hôn nhân không phải là hợp đồng mà là sự liên kết đặc biệt giữa một
người đàn ông và người đàn bà. Sự liên kết này không phụ thuộc vào tính
toán vật chất mà dựa trên cơ sở tình yêu thương, quý trọng, bình đẳng và tự
nguyện giữa vợ và chồng. Ngoài ra mục đích của hôn nhân là xây dựng mối
quan hệ bền vững, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu tinh thần và vật chất của đôi
bên, sinh đẻ và giáo dục con cái7.
Quan hệ hôn nhân là một trong những cơ sở để hình thành gia đình, bên
cạnh quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Hơn thế, gia đình là tế bào
của xã hội, xã hội chỉ thực sự phồn vinh, ổn định khi mỗi gia đình, mỗi thành
viên trong gia đình được thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần, như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì

gia đình càng tốt, hạt nhân của xã hội là gia đình”8.
Sự kiện đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đã
tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn, làm phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp
luật giữa nam và nữ. Kể từ thời điểm này, giữa vợ và chồng có các quyền và
nghĩa vụ về mặt nhân thân và tài sản đối với nhau. Về mặt lý luận cũng như
pháp luật thực định, quan hệ nhân thân trong HN&GĐ là tiền đề quyết định
tính chất và nội dung của quan hệ tài sản. Luật HN&GĐ qua các thời kỳ cũng
như hiện nay đều quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ
HN&GĐ tùy theo tư cách mà họ đảm nhận là vợ, chồng, cha, mẹ hoặc con
cái.
Nguyễn Hồng Hải (2000), “Về khái niệm và bản chất pháp lí của hôn nhân”, Tạp chí Luật học,
(04) tr.9.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, tr. 17 – 18.
8
Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch,tập V, NXB sự thật, Hà Nội, tr.251.
6


11

Trong quan hệ gia đình (dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng), quan hệ vợ chồng có vai trò đặc biệt quan trọng. Quan hệ hôn
nhân thường có tính chất bền vững “trăm năm”, vợ chồng chung sống với
nhau suốt đời, sinh đẻ, giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng các con vì quyền lợi
của gia đình và lợi ích của xã hội. Bên cạnh đời sống tình cảm, yêu thương
gắn bó giữa vợ chồng, không thể không quan tâm đến đời sống vật chất, tiền
bạc, tài sản của vợ chồng. Do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, vợ
chồng cùng nhau góp công sức, tạo lập tài sản để bảo đảm cho các nhu cầu
của thành viên trong gia đình, chăm sóc, giáo dục con cái. Đó vừa là quyền,

vừa là nghĩa vụ của các bên. Vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ nhau
(Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014), trong đó đã bao hàm cả việc phải đảm
bảo đời sống vật chất cho người kia. Khi quan hệ giữa cha, mẹ và con được
xác lập thì cha mẹ có nghĩa vụ và quyền “cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình”9. Tài sản
chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của mỗi bên sẽ được sử dụng để thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Theo Điều 274 BLDS năm 2015, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng có thể
hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng là việc mà theo quy
định của pháp luật thì một bên hoặc cả hai bên vợ chồng (người có nghĩa vụ)
phải làm hoặc không được làm công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (người có quyền).
Theo nghĩa hẹp, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng là việc vợ chồng phải
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện bổn phận của mình (chi trả

9

Khoản 1, Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2014.


12

các khoản nợ) cho người có quyền trong những trường hợp do pháp luật quy
định
Vợ chồng vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình,
vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nên họ có thể xác lập các quyền
về tài sản và chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của mình. Tùy
từng trường hợp mà có thể xác định đó là nghĩa vụ chung mà cả hai vợ chồng

phải cùng thực hiện hay là nghĩa vụ riêng về tài sản mà mỗi bên vợ, chồng
phải gánh chịu.
BLDS năm 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động
sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”10
Mặt khác, đối tượng của nghĩa vụ quy định tại Điều 274 BLDS năm
2015 được phân chia thành: tài sản; công việc phải thực hiện; công việc
không được thực hiện. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng đối tượng mới
đảm bảo lợi ích của bên có quyền.
Trên cơ sở quy định của BLDS năm 2015, có thể thấy nghĩa vụ tài sản
của vợ chồng bao gồm các nội dung: vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá theo yêu cầu
của bên có quyền.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài
sản của vợ chồng như sau:
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng được hiểu là việc vợ chồng
phải cùng nhau chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có

10

Điều 105 BLDS năm 2015.


13

giá cho người có quyền hay nói cách khác, cả hai vợ chồng phải cùng chịu
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với bên có quyền.
Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng là việc một bên vợ, chồng tự
mình thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với người có quyền.

Tùy thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng áp dụng, căn cứ xác định
nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng có sự khác biệt. Đối
với chế độ tài sản pháp định, luật đã quy định các vấn đề liên quan đến chế độ
tài sản này như thành phần tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với từng loại tài sản cũng như nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về
tài sản của vợ chồng. Do đó, để xác định nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng
trong trường hợp này là trên cơ sở quy định của pháp luật. Bên cạnh chế độ
tài sản theo luật định, còn tồn tại chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
Đối với loại chế độ tài sản này, pháp luật dành quyền tự chủ cho các cặp vợ
chồng trong việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung hay riêng và các vấn đề
có liên quan như quyền, nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản, nghĩa vụ tài
sản…Vì vậy, đối với các cặp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản ước định, nghĩa
vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản được xác định dựa vào sự thỏa thuận của
hai bên thể hiện trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Chỉ
trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận về nghĩa vụ tài sản hoặc thỏa
thuận không đầy đủ, rõ ràng dẫn đến không thực hiện được trên thực tế thì khi
đó nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản lại được thực hiện theo các quy
định tương ứng trong chế độ tài sản theo luật định.
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng
- Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng phải là vợ
chồng, nghĩa là giữa các bên phải tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp, là
vợ chồng của nhau trước pháp luật.


14

Pháp luật HN&GĐ nước ta từ trước đến nay đều xác định đăng ký kết
hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ vợ chồng (Điều 11 Luật
HN&GĐ năm 1959; Điều 8 Luật HN&GĐ năm 1986; Điều 9 Luật HN&GĐ
năm 2014). Nam và nữ muốn xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp

luật công nhận tư cách là vợ chồng của nhau thì bên cạnh việc phải đáp ứng
đủ các điều kiện kết hôn luật định, còn phải tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ, hai bên nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn vẫn được thừa nhận quan hệ
hôn nhân. Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng
6 năm 2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình “Trong trường hợp
quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì
được khuyến khích đăng ký kết hôn”11, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn thi hành
Nghị quyết số 35/2000/QH10 cũng chỉ rõ:
“Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ đủ
điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
và thuộc một trong các trường hợp:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai
bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng
kiến;

Điểm a, Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 về việc thi hành
luật hôn nhân và gia đình
11


15

- Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau
xây dựng gia đình.
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là

ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc họ về chung sống với nhau được gia đình (một
hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người
khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với
nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”12. Do vậy, nếu
nam nữ chung sống với nhau trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 thì không bắt
buộc phải đăng ký kết hôn, dù họ không đăng ký kết hôn thì họ vẫn được thừa
nhận là vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, được xác định là người đang
tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp nếu thuộc một trong các trường hợp
sau:
“a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật
về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng)
của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987
mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng)
của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn
nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly
hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ
không bị tuyên bố là đã chết.”13
Diểm d, Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03 tháng
1 năm 2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10
13
Khoản 4, Điều 2, Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06
tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
12


16


Chỉ khi được pháp luật thừa nhận là vợ chồng, giữa hai bên mới phát
sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, bao gồm các quyền và nghĩa vụ về
nhân thân và các quyền, nghĩa vụ về tài sản. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là cơ
sở để xác định chế độ tài sản giữa vợ chồng nói chung, nghĩa vụ về tài sản
giữa vợ và chồng nói riêng.
- Nghĩa vụ tài sản của vợ chồng phát sinh và chấm dứt phụ thuộc vào
thời kỳ hôn nhân.
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được
tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân14. Thời điểm bắt
đầu của thời kỳ hôn nhân được tính từ khi hai bên nam nữ đăng ký kết hôn tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cấp giấy chứng nhận kết hôn hoặc
kể từ ngày hai bên bắt đầu chung sống (trường hợp nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/1/1987 mà chưa đăng ký kết hôn) đến
khi quan hệ hôn nhân chấm dứt (khi một bên vợ, chồng chết; một bên vợ hoặc
chồng bị Tòa án tuyên bố chết hoặc ly hôn).
Thời kỳ hôn nhân là yếu tố quan trọng để xác định nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng. Theo đó, nghĩa vụ về tài sản phát sinh
trước thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân hoặc sau khi hôn nhân chấm dứt
được xác định là nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng. Còn trong thời kỳ
hôn nhân, nếu phát sinh nghĩa vụ về tài sản thì đó có thể là nghĩa vụ chung
hoặc là nghĩa vụ riêng của mỗi bên.
- Nghĩa vụ tài sản của vợ chồng xác định trách nhiệm trong việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể.
Đồng thời với việc dự liệu những nghĩa vụ nào là nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ nào là nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng thì nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng còn xác định phương thức thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể. Đối
14

Khoản 13, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.



17

với nghĩa vụ chung, cả hai vợ chồng cùng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối
với người có quyền, do đó tùy thuộc vào giao dịch vợ chồng tham gia mà sẽ
có cách thức thực hiện nghĩa vụ tương ứng, có thể là nghĩa vụ chuyển giao
vật, chuyển giao quyền hoặc giấy tờ có giá. Đối với nghĩa vụ trả tiền thì khối
tài sản chung của vợ chồng sẽ được sử dụng để thực hiện nghĩa vụ. Trong
trường hợp phát sinh nghĩa vụ liên đới giữa vợ chồng thì người có quyền có
thể yêu cầu cả hai vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ.
Ngược lại, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng về nguyên tắc chỉ do
một bên vợ hoặc chồng thực hiện. Nếu đó là nghĩa vụ phải trả một khoản tiền
thì tài sản riêng được sử dụng để chi trả khoản nợ này, bên cạnh đó người có
quyền chỉ có thể yêu cầu một bên vợ, chồng (người có nghĩa vụ) thực hiện.
1.3. Sự cần thiết của việc quy định nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng
Thứ nhất, pháp luật ghi nhận nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm
đảm bảo lợi ích chung của gia đình cũng như của cá nhân vợ, chồng trong gia
đình. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng lợi ích cá nhân của vợ,
chồng, quyền lợi của gia đình, vợ chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân
sự với những người khác. Nhờ có quy định nghĩa vụ tài sản của vợ chồng, các
giao dịch đó được bảo đảm thực hiện, quyền lợi của vợ chồng, của người
tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ. Nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng định rõ nghĩa vụ của vợ chồng
đối với những giao dịch mà vợ chồng xác lập, thực hiện trước hoặc trong thời
kỳ hôn nhân được thực hiện bằng tài sản chung hay tài sản riêng. Từ đó, khi
vợ chồng tham gia giao dịch vì lợi ích chung của gia đình, của cá nhân vợ,
chồng hay vì lợi ích của người khác được ổn định trong một trật tự pháp lý.
Các kết ước liên quan đến tài sản do vợ chồng thực hiện theo những mục đích

cụ thể đối với từng loại tài sản đều phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định.


×