Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Áp dụng căn cứ ly hôn tại tòa án nhân dân quận thanh xuân – thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.78 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN NGUYỄN THỊ TÂM ĐAN

ĐỀ TÀI
ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN THANH XUÂN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN NGUYỄN THỊ TÂM ĐAN

ĐỀ TÀI
ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN THANH XUÂN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khóa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này
Tác giả luận văn

Trần Nguyễn Thị Tâm Đan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014.................................................................. 5
1.1. Khái niệm chung về ly hôn và căn cứ ly hôn .............................................. 5
1.1.1. Định nghĩa ly hôn ..................................................................................... 5
1.1.2. Định nghĩa căn cứ ly hôn ......................................................................... 6
1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ......................... 7
1.2.1. Khái quát quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam.............. 7
1.2.2. Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ..... 19
1.3. Các trường hợp áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 .... 21

1.3.1. Áp dụng căn cứ ly hôn khi hai vợ chồng thuận tình ly hôn ................... 21
1.3.2. Áp dụng căn cứ ly hôn khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn ............... 30
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN THANH XUÂN .................................................................................. 43
2.1. Kết quả đạt được trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân
quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội ............................................................. 43
2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân ................................................... 45
2.2.1. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn khi hai vợ chồng thuận tình ly hôn .... 46
2.2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn...... 47
CHƢƠNG 3: NHỮNG VƢỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
KHI ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 ............................................................................................ 52
3.1. Những vướng mắc khi áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 .................................................................................................. 52


3.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn còn chung chung,
trừu tượng, xem xét đánh giá mức độ trầm trọng của mâu thuẫn chưa đầy đủ
và toàn diện, khó áp dụng trong thực tiễn xét xử ............................................. 52
3.1.2. Hiện tượng ly thân đang có xu hướng phát triển ở Việt Nam, có thể
được coi là một căn cứ để giải quyết ly hôn .................................................... 54
3.1.3. Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn chưa quy định căn cứ ly hôn
trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù ......................... 56
3.2. Kiến nghị hoàn thiên việc áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 ............................................................................................ 56
3.2.1. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
cần lượng hóa các tiêu chí về nội dung căn cứ ly hôn theo quy định tại Khoản
1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để Tòa án áp dụng thuận lợi, tránh lạm

dụng, tùy tiện khi giải quyết ly hôn. ................................................................. 56
3.2.2. Ly thân như một căn cứ khi xem xét giải quyết ly hôn. .......................... 60
3.2.3. Quy định rõ hơn trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ
đang chấp hành án phạt tù ............................................................................... 64
3.2.4. Tăng cường phát triển án lệ, trong đó có án lệ về quan hệ hôn nhân. .. 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Theo học thuyết Mác - Lênin, hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là những
hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ hôn nhân và gia đình cũng thể hiện tính
giai cấp sâu sắc. Quan hệ HN&GĐ là mối quan hệ tất yếu trongxã hội. Hôn
nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất
và kết cấu của xã hội. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước luôn bằng pháp luật điều
chỉnh các quan hệ HN&GĐ.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình còn là nơi những thành
viên cùng chia sẻ tình thương, kinh nghiệm, những giá trị truyền thống đạo
đức, trách nhiệm, sự gắn bó và niềm tự hào về gia đình.
Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc, sự
bình yên trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên trong xã hội. Sự an bình
của mỗi gia đình là tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn tới hoàn thiện, góp sức mình vào việc
xây dựng xã hội phồn vinh, tiến bộ.
Quan hệ gia đình là tổng hòa các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài

sản, các quan hệ này có sự ràng buộc lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại
một cách hài hòa. Trong một gia đình thực sự bền vững và hạnh phúc thì mỗi
thành viên trong gia đình đều tìm thấy sự thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tình
cảm của mình. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại bắt nguồn từ quan hệ nhân
thân giữa hai con người với đặc trưng là sự phát sinh quyền, nghĩa vụ khi họ
kết hôn trở thành vợ chồng của nhau.


2
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,
quan hệ giữa con người với con người, trong đó có quan hệ HN&GĐ cũng bị
tác động mạnh mẽ. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau, các
trường hợp có yêu cầu ly hôn ở nước ta gia tăng theo thời gian. Theo số liệu
thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước, hàng năm số lượng các vụ việc
về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết khoảng trên 100.000 vụ việc, chủ
yếu là các vụ việc ly hôn và tranh chấp về tài sản, về con chung. Cơ quan có
thẩm quyền giải quyết các vụ việc ly hôn là Tòa án nhân dân, cần phải đưa ra
những phán quyết chính xác hợp lý trong việc xét xử bác đơn xin ly hôn hay
chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ chồng. Để làm được điều đó, một trong
những yêu cầu là phải có các văn bản pháp luật hướng dẫn chặt chẽ cụ thể,
hợp lý đối với việc thực hiện và áp dụng căn cứ ly hôn trong xét xử ly hôn.
Các văn bản hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn phải cụ thể, thống nhất; thể
hiện, phản ánh được tính đa dạng, phức tạp trong quan hệ hôn nhân khi giải
quyết ly hôn. Đồng thời phải có tính khả thi để đảm bảo thực tế một cách
đúng đắng về yêu cầu ly hôn và bản chất hôn nhân của các đương sự.
Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã góp
phần quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong
xã hội. Tuy nhiên, qua giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành
Tòa án cho thấy, quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về căn cứ ly hôn với

nội dung chưa có sự thống nhất khi áp dụng, chưa phù hợp với thực tiễn, có
những quy định mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác hoặc chưa phù
hợp, thiếu rõ ràng dẫn tới những cách hiểu khác nhau; có những quy định
chưa bảo đảm được quyền,lợi ích của các đương sự. Một số vấn đề mới phát
sinh trong xã hội chưa được pháp luật về hôn nhân và gia đình điều chỉnh.
Việcnghiên cứu đề tài: “Áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân quận
Thanh Xuân - Thành phố Hà Nội ” sẽ góp phần làm rõ thêm về lý luận và


3
thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nói chung, ở TAND quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội nói riêng. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định, việc
nghiên cứu đề tài cũng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn
cứ ly hôn và việc áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ, việc ly hôn hiện
nay ở nước ta.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
 Mục đích nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích về mặt lý luận căn cứ ly hôn,
phân tích nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014
cũng như việc áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa
án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để quy định về căn cứ ly
hôn; phân tích nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm
2014, có sự so sánh với các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về căn
cứ ly hôn trước đây.
- Phân tích việc áp dụng căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ
năm 2014 qua thực tiễn xét xử tại các Tòa án trên địa bàn quận Thanh Xuân.
- Đưa ra một số kiến nghị và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về căn
cứ ly hôn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
 Đối tƣợng nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về căn cứ ly hôn;
- Nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014
- Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn qua một số bản án, quyết định giải
quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.


4
 Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đề tài nghiên cứu quy định về căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm
2014, có sự so sánh với các quy định trong hệ thống pháp luật HN&GĐvề căn
cứ ly hôn ở Việt Nam.
- Đánh giá và phân tích thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014 để giải quyết ly hôn tại TAND quận Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội.
- Luận văn không nghiên cứu việc áp dụng căn cứ ly hôn đối với trường
hợp ly hôn có yếu tố nước ngoài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm
phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa
các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa; xem xét nội
dung quy định về căn cứ ly hôn và vấn đề áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn
để giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội.
5. Kết cấu luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận về căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Chương 2: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 tại Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Chương 3: Những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện khi áp dụng căn
cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014


5
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Khái niệm chung về ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Định nghĩa ly hôn
Ly hôn là một hiên tượng xã hội,vì vậy nó mang tính giai cấp sâu sắc. Cụ
thể, đối với quy định của pháp luật về ly hôn ở nhà nước phong kiến, tư sản
quy định có thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận
quyền vợ chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân;
bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ
tuổi của vợ chồng; hoặc thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của
vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản
ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất quan hệ hôn
nhân đã tan vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công
nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra
những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự
nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi
thực hiện quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với
quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ,
chồng, con cái và các thành viên trong gia đình.

Ly hôn là một hình thức để chấm dứt hôn nhân do Tòa án (cơ quan nhà
nước có thẩm quyền) công nhận sự thuận tình ly hôntheo yêu cầu của hai vợ
chồng hoặc theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Tòa án là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền xét xử, giải quyết ly hôn; có vai trò quan trọng trong việc
góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật.
Phán quyết ly hôn của Tòa án được thể hiện dưới hai hình thức: Quyết
định hoặc bản án ly hôn. Nếu hai vợ chồng thuận tình ly hôn (cùng thực sự tự


6
nguyện ly hôn) và đã thỏa thuận được với nhau giải quyết tất cả các nội dung
của quan hệvợ chồng như về tài sản chung và con chung khi ly hôn; xét thấy
quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên được bảo đảm thì
Tòa án công nhận cho vợ chồng thuận tình ly hôn; hoặc ra bản án ly hôn trong
trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn khi hôn nhân đã tan vỡ (tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được).
Thực chất của ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khoản 14 Điều 3 Luật
HN&GĐ năm 2014 đã giải thích: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
1.1.2. Định nghĩa căn cứ ly hôn
Các Mác viết: “Về mặt hôn nhân, nhà lập pháp chỉ có thể xác định
những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về
thực chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn
nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản công nhận sự tan rã bên trong của nó.
Quan điểm của nhà lập pháp là quan điểm của tính tất yếu”. Vậy, để chứng
minh cho tính tất yếu này, Tòa án cần dựa trên những cơ sở nhất định. Căn cứ
vào các cơ sở đó, khi xem xét, đánh giá thực trạng của mộtmối quan hệ hôn
nhân, Tòa án có thể nhận định mối quan hệ hôn nhân đó đã tan vỡ hay chưa.

Nhận định là yếu tố mang tính chủ quan, để đánh giá yếu tố chủ quan có
chính xác hay không, chúng ta cần xem xét những hiện tượng khách quan
phản ánh (quan hệ biện chứng giữa hiện tượng và bản chất). Những hiện
tượng ấy phải có mối quan hệ biện chứng với bản chất tan vỡ của quan hệ hôn
nhân, phản ánh bản chất của hôn nhân. Bản chất quan hệ hôn nhân đã tan vỡ
bộc lộ ra bên ngoài bằng nhiều hiện tượng khác nhau, mỗi hiện tượng chỉ biểu
hiện một khía cạnh của bản chất.


7
Nhà nước công nhận quyền tự do ly hôn, tuy nhiên việc ly hôn phải dựa
trên bản chất của mối quan hệ hôn nhân, đồng thời đảm bảo quyền, lợi ích
chính đáng của vợ, chồng và các bên liên quan. Như vậy, để đảm bảo những
yếu tố trên, nhà lập pháp dự liệu những cơ sở, căn cứ giải quyết ly hôn và yêu
cầu kiểm soát việc ly hôn thông qua Tòa án. Tòa án khi giải quyết ly hôn phải
áp dụng chính xác nội dung căn cứ ly hôn và chỉ được quyết định cho vợ
chồng ly hôn khi thực chất quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.
Từ những phân tích trên, có thế đưa ra định nghĩa căn cứ ly hôn như sau:
Căn cứ ly hôn là những cơ sở, lập luận dựa trên nhưng biểu hiện mang tính
khách quan của một mối quan hệ hôn nhân mà dựa vào đó, trên cơ sở yêu cẩu
của một bên hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình
ly hôn hoặc bản án xét xử cho ly hôn.
Cũng có thể hiểu “căn cứ ly hôn là những tình tiết hây điều kiện được
quy định trong pháp luật, chỉ khi có những tình tiết hay điều kiện đó, Tòa án
mới được xử cho ly hôn”.
1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
1.2.1. Khái quát quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam
Ly hôn là một hiện tượng của xã hội, là một mặt (mặt trái) của quan hệ
hôn nhân khi hôn nhân đã tan vỡ. Trong xã hội có giai cấp, ly hôn cũng thể
hiện tính giai cấp. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với

xã hội mà Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ,
trong đó có vấn đề ly hôn. Đối với kết hôn, pháp luật quy định trong những
điều kiện nào thì hai bên nam, nữ được xác lập quan hệ hôn nhân; đối với việc
chấm dứt quan hệ hôn nhân, pháp luật cũng quy định trong những điều kiện,
căn cứ nào thì mới cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Hệ thống pháp luật về HN&GĐ ở Việt Nam quy định về căn cứ ly hôn
với những nội dung khác nhau qua từng thời kỳ.


8
Thời kỳ phong kiến
Pháp luật phong kiến Việt Nam đã hình thành từ lâu (Thời nhà Lý có Bộ
luật Hình thư năm 1042; thời nhà Trần có Quốc Triều Thông Chế năm
1230,…; thời Hồ có Đại Ngu Quan Chế Hình Luật năm 1401). Tuy nhiên,
những hệ thống pháp luật nêu trên chỉ chủ yếu tập trung vào việc củng cố bộ
máy của triều đình và những quy định liên quan đến ruộng đất. Còn quy định
liên quan đến ly hôn chỉ được quy định bắt đầu từ thời Hậu Lê (Giai đoạn
1427-1789), cụ thể là Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Bộ Quốc triều hình
luật) được ban hành dưới triều đại vua Lê Thánh Tông và sau đó là thời
Nguyễn với Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt Luật Lệ. Căn cứ ly
hôn thời kỳ này thường được gọi là “duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly
hôn”. Duyên cớ ly hôn trong pháp luật phong kiến thể hiện sự bất bình đẳng
rõ nét (Trọng nam kinh nữ và bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền
lợi cá nhân). Duyên cớ ly hôn thời kì này gồm: rẫyvợ, hai bên thỏa thuận và
trường hợp khác.
Rẫy vợ là việc người chồng đơn phương bỏ vợ. Đoạn 164 Bộ luật Hồng
Đức và Điều 108 Bộ luật Gia Long đều qui định người chồng có quyền bỏ vợ
khi vợ phạm vào tội thất xuất - bảy lỗi của người vợ như sau: Vô tử (không có
con), đố kị (ghen tuông), dâm dật (người vợ có hành vi lẳng lơ, dâm đãng),
không kính trọng bố mẹ chồng, bất hòa (không hòa thuận với anh em), trộm

cắp (không bỏ vợ thì vạ lây đến nhà chồng), ác tật (bị bệnh phong hủi).
Sự trọng nam khinh nữ được thể hiện qua việc không có con lỗi đương
nhiên là của người vợ và duyên cớ còn lại qui vào lỗi của người vợ và không
áp dụng đối với người chồng. Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng qui định
chế độ utam bất khứ’ để bảo vệ người phụ nữ: người chồng không được bỏ vợ
cho dù vợ phạm thất xuất trong trường hợp khi lấy nhau vợ chồng nghèo
nhưng về sau giàu có (tiền bần tiện, hậu phú quý), hoặc khi vợ đã đế tang nhà


9
chồng ba năm (dữ canh tam niên tang), hoặc khi lấy nhau vợ còn bà con họ
hàng nhưng khi bỏ nhau vợ không còn nơi nương tựa (hữu sở thú, vô sở quy).
Qui định này thể hiện sự quan tâm tới số phận người phụ nữ, cũng thể hiện
truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam. Qui định này xuất phát từ
truyền thống về tình nghĩa vợ chồng phù hợp với đạo lí của người Việt Nam,
bảo vệ những quyền lợi cơ bản tối thiểu cho người vợ.
Pháp luật phong kiến qui định khi vợ hoặc chồng vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ vợ chồng thì bắt buộc phải ly hôn. Như vậy, việc bắt buộc ly hôn
được coi là hình phạt cho những hành vi vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng.
Điều 308 Bộ luật Hồng Đức qui định: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ 5
tháng không đi lại thì mất vợ (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm
chứng). Nếu vợ đã có con thì cho hạn 1 năm. Vĩ việc quan phải đi xa thì
không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại ngăn cản người khác lấy vợ mình,
thì phải tại biếm”. Đồng thời, Điều 108 Bộ luật Gia Long thì qui định khi vợ
chồng phạm phải điều “ nghĩa tuyệt ” thì buộc phải ly hôn. “ Nghĩa tuyệt ” có
thể do lỗi của vợ (mưu sát chồng), lỗi của người chồng (chồng bán vợ) hoặc
là lỗi của hai vợ chồng. Riêng trường họp vợ phạm phải nghĩa tuyệt mà chồng
không bỏ thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Bộ luật Hồng Đức coi các trường
hợp thất xuất đông thời là các trường hợp của nghĩa tuyệt (ân nghĩa vợ chồng
bị đoạn tuyệt), bắt người chồng phải bỏ vợ nếu người vợ phạm phải bảy

trường hợp trên. Trong khi đó, Bộ luật Gia Long phân biệt rạch ròi giữa thất
xuất và nghĩa tuyệt. Tuy phạm phải một trong các trường hợp của “thất xuất”
nhung nếu người vợ ở trong trường hợp “tam bất khứ” (ba trường họp người
chồng không thể bỏ vợ được) thì người chồng không được phép bỏ vợ.
Pháp luật phong kiến cho phép vợ chồng thỏa thuận ly hôn trong trường
hợp không hợp tính tình. Tuy nhiên, do chế độ gia trưởng dưới thời Nguyễn
nên vai trò của người đàn ông hoàn toàn áp đảo vai trò của người phụ nữ cả


10
trong quan hệ hôn nhân và quan hệ xã hội, vị trí của vợ và chồng không
ngang bằng, ly hôn do sự thuận tình, một giao dịch đòi hỏi vợ chồng đều có
quyền bày tỏ ý chí trở thành một chế định không thích hợp với tư duy pháp lí
thời kỳ này.
Như vậy, các căn cứ ly hôn thời kì này được xây dựng dựa trên lỗi của
vợ hoặc chồng, chủ yếu là dựa vào lỗi của người vợ hoặc chồng. Quyền tự do
ly hôn của vợ chồng cũng không được đảm bảo khi pháp luật qui định một số
trường hợp bắt buộc vợ chồng phải ly hôn mà bỏ qua ý chí của vợ chồng. Nhà
nước đã can thiệp quá sâu vào quan hệ hôn nhân của vợ chồng, coi ly hôn như
một chế tài áp dụng đối với vợ chồng khi vợ chồng có “lỗi”. Căn cứ ly hôn
thời kì này thế hiện rõ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn
nhân. Qua đó cho thấy địa vị thấp kém của người phụ nữ trong xã hội và gia
đình phong kiến.
- Thời kỳ Pháp thuộc (từ năm 1858 đến trước năm 1945)
Từ năm 1858 đến trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Thời kì này, thực dân Pháp
chia nước ta thành ba miền, mỗi miền áp dụng một bộ dân luật để điều chỉnh
quan hệ hôn nhân và gia đình. Ở Bắc Kì áp dụng qui định của Bộ dân luật
năm 1931 ở Trung Kì áp dụng qui định của Bộ dân luật năm 1936, ở Nam Kì
áp dụng Bộ dân luật giản yếu năm 1883. Nội dung và kĩ thuật lập pháp của ba

bô dân luật này vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bộ luật dân sự Cộng hòa
Pháp ( 1804) (còn gọi là Bộ luật Napôlêông), vừa thể hiện quan điểm lạc hậu
của giai cấp phong kiến Việt Nam.
Bộ dân luật Bắc Kì và Trung Kì qui định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi của
vợ chồng. Hai bộ luật này qui định những duyên cớ ly hôn riêng cho người
chồng (dựa vào lỗi của vợ), những duyên cớ ly hôn cho người vợ (dựa vào lỗi
của người chồng) và những duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng.


11
Điều 118 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 117 Bộ dân luật Trung Kì qui định
duyên cớ ly hôn của người chồng là những lỗi của vợ như sau: Vợ phạm gian;
vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã buộc về mà không về; vợ thứ đánh chửi, bạo
hành vợ chính.
Điều 119 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 118 Bộ dân luật Trung Kì qui định
duyên cớ ly hôn của người vợ khi người chồng có những lỗi sau: Người
chồng không thi hành nghĩa vụ nuôi nấng vợ con tùy theo kế sinh nhai; người
chông bỏ nhà đi quá hai năm (theo Bộ dân luật Bắc Kì) và quá một năm (theo
Bộ dân luật Trung Kì) mà không có duyên cớ chính đáng và không cấp dưỡng
cho vợ con; hoặc chồng không có lí do chính đáng mà đuối vợ ra khỏi nhà
mình; chồng làm trái trật tự vợ chính, vợ thứ.
Cả hai vợ chồng có thế xin ly hôn khi có những duyên cớ qui định tại
Điều 120 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 119 Bộ dân luật Trung Kì như sau: Bên
nọ quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên
kia; một bên can án trọng tội; một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia
không thể ở chung được; vì một bên tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở
suốt đời trong bệnh viện.
Tại Nam Kì, Bộ dân luật giản yếu Nam Kì năm 1883 qui định quyền ly
hôn chỉ do người chồng quyết định và quyền ly hôn này được hạn chế bởi chế
đô “tam bất khứ” kế thừa từ cổ luật phong kiến Việt Nam, còn người vợ thì

không có quyền yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, luật còn ghi nhận quyền xin ly hôn
trong trường hợp chồng bỏ lửng vợ: “Nếu chồng vô cớ 5 tháng không về với
vợ thì người vợ có quyền đi tố cáo và người chồng sẽ bị mất vợ, nếu họ đã có
con cái với nhau thì cho thời hạn đó là một năm... ” (Bộ dân luật giản yếu
Nam Kì năm 1883, thiên thứ VI). Qui định này thể hiện rõ trách nhiệm của
người chồng, thể hiện sự kế thừa pháp luật phong kiến nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người vợ, ràng buộc nghĩa vụ của người chồng đối với gia


12
đình. Qui định này tương đối tiến bộ, có ý nghĩa giúp giải thoát cho người vợ,
bảo vệ quyền lợi cho người vợ trong chừng mực nhất định.
Pháp luật qui định về căn cứ ly hôn thời kì này vừa có sự kế thừa pháp
luật phong kiến trên cơ sở những phong tục, tập quán lạc hậu, vừa có sự tiếp
thu kỹ thuật lập pháp của pháp luật Cộng hòa Pháp, phản ánh những đặc điểm
kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền lợi giai cấp. Nhìn chung vẫn duy trì chế độ
bất bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng, củng cố quyền của người gia
trưởng, qui định nhiều căn cứ đế người chồng được yêu cầu ly hôn hơn người
vợ. Căn cứ ly hôn thời kì này vẫn được qui định dựa vào lỗi của vợ chồng,
không dựa vào bản chất của quan hệ vợ chồng.
- Thời kì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (từ năm 1945 đến năm 1954)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ năm 1945 đến 1950, do điều
kiện lịch sử nên Nhà nước ta chưa ban hành ngay luật cụ thể thể điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình, Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh số 47) cho phép tạm thời
áp dụng những qui định trong pháp luật cũ có chọn lọc, theo nguyên tắc
không trái với lợi ích của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và lợi ích
của nhân dân lao động. Bên cạnh Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ
tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật; trong đó đã ghi
nhận quyền tự do kết hôn của các con đã thành niên; ngày 17/11/1950, Chủ

tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 159/SL qui
định về vấn đề ly hôn (Sắc lệnh số 159/SL), trong đó đã xóa bỏ sự bất bình
đẳng về các duyên cớ ly hôn. Điều 2 Sắc lệnh số 159/SL qui định Toà án có
thế cho phép vợ hoặc chồng ly hôn trong những trường hợp sau: Ngoại tình;
một bên can án phạt giam; một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa
khỏi; một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng; vợ
chồng tính tình không được hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống
chung được.


13
Sắc lệnh số 159/SL đã xóa bỏ những duyên cớ ly hôn dựa trên lỗi của
mỗi bên vợ chồng mà qui định duyên cớ ly hôn áp dụng chung cho cả vợ và
chồng. Bên cạnh việc qui định duyên cớ ly hôn dựa vào yếu tố lỗi thì Sắc lệnh
số 159/SL đã dần hướng tới căn cứ vào thực chất của quan hệ vợ chồng. Điều
này được thể hiện qua duyên cớ ly hôn qui định tại khoản 5 Điều 2 sắc lệnh số
159/SL: “Vợ chồng tính tình không hợp hoặc đổi xử với nhau đến nỗi không
thể song chung được”. Thực tế vợ chồng chung sống với nhau mà tính cách
không họp, luôn có những mâu thuẫn, bất đồng thì khó có thể duy trì đời sống
chung. Trong trường hợp này thì ly hôn chính là giải pháp đế giải phóng cho
vợ chồng khỏi cuộc hôn nhân đã tan vỡ.
Cả hai Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL đã góp phần không nhỏ
vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, đề ra một số nguyên tắc chung,
giải phóng phụ nữ khỏi vị thế bất bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Nội dung của hai sắc lệnh này đã thể hiện tính dân chủ và
tiến bộ của một nền pháp chế mới. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn thời kì này vẫn
được qui định chủ yếu dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng mà chưa hoàn toàn
dựa trên bản chất của quan hệ vợ chồng.
- Thời kỳ từ năm 1954 đến trƣớc năm 1975

Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, do đất nước bị chia cắt làm hai
miền với hai chế độ chính trị khác nhau nên ở mỗi miền có một hệ thống pháp
luật khác nhau.
Ở miền Bắc, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (còn gọi là Đạo luật số
13 về hôn nhân và gia đình) được Quốc hội khóa I thông qua ngày 29/12/1959
và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 13/01/1960. Lần đầu tiên, tiếp
thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ ly hôn được qui định dựa trên
bản chất của quan hệ vợ chồng.


14
Điều 25 Luật HN&GĐ năm 1959 qui định về căn cứ ly hôn trong trường
hợp thuận tình ly hôn như sau: “Khi hai bên vợ chồng xin thuận tình ly hôn,
thì sau khi điều tra, nếu xét đúng là hai bên tự nguyện xin ly hôn, Toà án nhân
dân sẽ công nhận việc thuận tình ly hôn”
Điều 26 Luật HN&GĐ năm 1959 qui định trường hợp ly hôn theo yêu
cầu của một bên như sau: “Khi một bên vợ hoặc chồng xỉn ly hôn, cơ quan có
thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải. Hoà giải không được, Toà án nhân dân sẽ
xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được, thì Toà án nhân dân sẽ cho ly hôn”.
Ớ miền Nam, chế độ hôn nhân và gia đình giai đoạn này được qui định
trong ba văn bản: Luật gia đình ngày 02/01/1959 (luật số 1 - 59) dưới chế độ
Ngô Đình Diệm; Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản
cộng đồng dưới chế độ Nguyễn Khánh; Bộ dân luật ngày 20/12/1972 dưới
chê độ Nguyễn Văn Thiệu. Những văn bản này đều qui định căn cứ ly hôn
trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng, đặc biệt Luật gia đình dưới chế độ Ngô Đình
Diệm đã cấm vợ chồng ly hôn (Điều 55).
Sắc luật số 15/64 dưới chế độ Nguyễn Khánh và Bộ dân luật dưới chế độ
Nguyễn Văn Thiệu qui định căn cứ ly hôn dựa trên những “lỗi” sau:
Vì sự ngoại tình của người phối ngẫu;

Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình về thường tội;
Vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ, có tính cách thậm từ và tái diễn
khiến vợ chồng không thể ăn ở với nhau nữa.
Miền Bắc trong hoàn cảnh cải cách xây dựng Xã hội Chủ nghĩa qui định
căn cứ ly hôn dựa vào thực trạng quan hệ vợ chồng phù hợp với quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Miền Nam dưới chế độ thực dân nửa phong kiến vẫn
chịu ảnh hưởng của pháp luật tư sản, qui định căn cứ ly hôn dựa vào yếu tố “lỗi”
– một yếu tố mang tính chủ quan vad dùng các sự việc khách quan để đánh giá.


15
Do ở hai miền đất nước với hai bộ máy chính quyền, sự ảnh hưởng của giai
cấp thống đã dẫn đến căn cứ ly hôn ở hai miền được qui định khác nhau.
- Thời kì từ năm 1975 đến nay
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có bốn Luật HN&GĐ đã được ban hành
lần lượt qua các năm 1959, 1986, 2000 và 2014. “Tuổi thọ” của Luật
HN&GĐ nhìn qua có thể thấy bền hơn một số luật khác. Điều này chứng tỏ
tính ổn định của Luật HN&GĐ.
Thứ nhất, Luật HN&GĐ năm 1959 được áp dụng trong phạm vi cả nước
theo Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ. Cụ thể,
nguyên tắc chung khi xác định căn cứ ly hôn đều là dựa vào bản chất quan hệ
vợ chồng.
Thứ hai, Điều 40 Luật HN&GĐ năm 1986 qui định về căn cứ ly hôn như sau:
“Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành
và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công
nhận cho thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không
thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thế kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án
nhân dân xử cho ly hôn.”

Thứ ba, Luật HN&GĐ năm 2000, Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“1.Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa
án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”
So với các Luật HN&GĐ thời kỳ trướckhông tách biệt căn cứ ly hôn
trong trường hợp thuận tình ly hôn và trường hợp ly hôn theo yêu cầu một bên


16
mà qui định căn cứ áp dụng chung cho cả hai trường hợp. Còn khi so sánh với
Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 2000 đã kế thừa, phát triển, mở
rộng và cụ thể hóa, chi tiết hóa những qui định của Luật HN&GĐ trước đó
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế đời sống hôn nhân và gia đình trong hoàn cảnh
điều kiện kinh tế xã hội có sự thay đổi. Luật HN&GĐ năm 2000 đã bố sung
thêm trường hợp một bên vợ, chồng mất tích so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000
phản ánh đúng bản chất của hôn nhân đã tan vỡ, qui định bao quát được các
trường hợp ly hôn, đảm bảo định hướng nhận thức cho người dân và cả người
thực thi pháp luật về vấn đề ly hôn.
Sự tan vỡ của quan hệ hôn nhân là căn cứ ly hôn trong các văn bản Luật
HN&GĐ được qui định thông qua việc mô tả khái quát bản chất tan vỡ mà
không đi vào liệt kê cụ thế những trường hợp nào thì quan hệ hôn nhân tan
vỡ. Việc không liệt kê những trường họp ly hôn cụ thể phản ánh đòi hỏi phải
xem xét thực chất quan hệ vợ chồng chứ không thế chỉ nhìn vào hình thức bên
ngoài để đánh giá.
Luật HN&GĐ năm 2000 qui định căn cứ ly hôn cũng không dựa vào yếu
tố “lỗi” bởi nhà nước ta quan niệm ly hôn không phải và không thể là chế tài
đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng. Ly hôn là sự tan vỡ của quan

hệ vợ chồng và căn cứ ly hôn là dấu hiệu phản ánh hiện tượng xã hội tồn tại
khách quan đó chứ không phải là cái quyết định sự tan vỡ của quan hệ vợ
chồng. Ly hôn cũng không phải là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 2000 qui định về căn cứ ly hôn dựa vào thực trạng
quan hệ hôn nhân, không dựa vào yếu tố “lỗi” của vợ chồng trong việc làm
phát sinh mâu thuẫn dẫn tới ly hôn. ưu điểm của cách qui định này là phản
ánh chính xác bản chất của ly hôn. Nhược điểm của nó là cách xác định căn


17
cú ly hôn còn định tính, trừu tượng, khó xác định. Điều đó đã ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn. Trong quá
trình giải quyết vụ việc về ly hôn, Tòa án áp dụng căn cứ cho ly hôn tại Điều
89 Luật HN&GĐ đã gặp phải nhiều vướng mắc, quan điểm khác nhau giữa
các cấp sơ thẩm và phúc thẩm về cách hiểu thế nào là “tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài” dù vấn đề này đã được hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP. Do đó, nhiều bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm đã bị sửa, hủy do cách hiếu khác nhau, thậm chí có những Tòa án căn
cứ vào lí do một trong hai bên không có khả năng sinh con để cho ly hôn 1.
Vì vậy việc quy định căn cứ ly hôn chung dẫn đến hai vấn đề như sau:
Khi áp dụng căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hay một
bên yêu cầu ly hôn, Sau khi hòa giải không thành, Tòa án đều sẽ xem xét giải
quyết theo căn cứ ly hôn quy định tại Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm
2000 nêu trên. Tuy nhiên, nếu xét về mặt câu chữ trong Luật HN&GĐ năm
2000 quy định :
“Điều 90. Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án
không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận
về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì

Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ
sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được
hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và
con thì Toà án quyết định.

1

Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và Gia
đình năm 2000 trong công tác xét xử các vụ, việc hôn nhân và gia đình của ngành Tòa án
nhân dân tại Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
ngày 16/04/2016.


18
Điều 91. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không
thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn.”
Giải thích rõ về Điều 90, nếu thuận tình ly hôn thì chỉ xét đến sự tự
nguyện và các vấn đề liên quan đến tài sản, con cái. Còn theo Điều 91 trường
hợp một nên yêu cầu thì mới xem xét, cụ thể là theo căn cứ cho ly hôn.
Nhưng ngay đầu Khoản 1 Điều 89 quy định khi Tòa án xem xét yêu cầu ly
hôn, tức là cả khi thuận tình và một bên yêu cầu (trừ trường hợp một bên bị
tuyên bố mất tích tại Khoản 2 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000). Vậy có hay
không việc mâu thuẫn giữa nội dung của Khoản 1 Điều 89 và Điều 90 khi áp
dụng trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn!
Thêm vào đó, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
chỉ dựa trên thực trạng quan hệ vợ chồng mà không dựa vào yếu tố “lỗi”,
nhằm thể hiện quan điểm của pháp luật Việt Nam, hôn nhân không phải là
một dạng hợp đồng (Bên nào có lỗi, vi phạm nghĩa vụ nghiệm trọng thì bên
kia có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng). Tuy nhiên, khi bỏ qua yếu tố

lỗi sẽ làm cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của vợ chồng trong mối
quan hệ gia đình không rõ ràng. Ví dụ sự việc nếu xét yếu tố lỗi sẽ có sự khác
nhau:Chồng yêu cầu ly hôn khi trước đó đã có hành vi ngoại tình. Nếu xét yếu
tố lỗi, người chồng đã có lỗi trong việc đảm bảo cùng nhau giữ gìn hạnh phúc
gia đình, có hànhvi chung sống như vợ chồng với người khác (hành vi bị cấm
thuộc Khoản 2 Điều 4 Luật HN&GĐ năm 2000), vậy Tòa án sẽ xem xét hơn
đến việc bảo vệ lợi ích cho người vợ. Nếu không xét yếu tố lỗi, khi xem xét
Tòa án sẽ xem xét một cách ngang bằng giữa vợ và chồng.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, ngày 19/6/2014, Quốc hội đã
thông qua Luật HN&GĐ năm 2014 thay thế Luật HN&GĐ năm 2000 kể từ
ngày 01/01/2015 với những sửa đổi cơ bản trong qui định về căn cứ ly hôn.


19
1.2.2. Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Kế thừa và phát triển quy định về nội dung căn cứ ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2000 (Điều 89), Luật HN&GĐ năm 2014 quy định nội dung
căn cứ ly hôn trong các trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn (Điều 55) và
một bên có yêu cầu ly hôn (Điều 56). Xét về kỹ thuật lập pháp, Luật HN&GĐ
năm 2014 không quy định cụ thể căn cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn ở
một điều luật như Luật HN&GĐ năm 2000. Cho đến nay, các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cũng chưa có văn bản giải thích chính thức về nội dung
căn cứ ly hôn để áp dụng cho các trường hợp ly hôn; đã dẫn đến những cách
hiểu khác nhau, không thống nhất về nội dung căn cứ ly hôn được áp dụng
trong các trường hợp ly hôn.
Cứ theo ngữ nghĩa và cách quy định về căn cứ ly hôn thì có thể thấy rằng
Luật HN&GĐ năm 2014 đã dự liệu bốn căn cứ ly hôn.
Mối quan hệ hôn nhân được bắt đầu bằng việc đăng ký kết hôn tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền và chấm dứt khi một trong hai bênvợ, chồng
chết hoặc theo quyết định của Tòa án về việc giải quyết cho ly hôn có hiệu

lực pháp luật. Đối với trƣờng hợp thuận tình ly hôn, Điều 55 quy định
trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự
tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được
hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con
thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Quy định này đã bỏ quên thủ tục hòa giải trong thuận tình ly hôn. Về nội
dung căn cứ giải quyết thuận tình ly hôn vẫn chưa rõ ràng. Nếu hiểu theo ngữ
nghĩa của điều luật này thì khi giải quyết thuận tình ly hôn, Tòa án xét thấy
hai vợ chồng cùng thực sự tự nguyện ly hôn, không bị cưỡng ép, không bị lừa


20
dối; hai vợ chồng đã thỏa thuận được về chia tài sản và về việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung; quyền lợi chính đáng của vợ và
con được bảo đảm thì Tòa án sẽ công nhận thuận tình ly hôn và ghi nhận sự
thỏa thuận giữa vợ chồng về tài sản và con. Quyết định công nhận thuận tình
ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, đã dẫn tới quan điểm cho rằng khi giải quyết thuận tình ly hôn,
Tòa án chỉ cần xem xét giữa hai vợ chồng có thực sự tự nguyện ly hôn
không? hai bên đã thỏa thuận được với nhau về chia tài sản và việc nuôi
dưỡng, giáo dục con chung chưa? Quyền lợi chính đáng của vợ và con đã
được bảo đảm chưa? Đó là những điều kiện cần và đủ để giải quyết công nhận
thuận tình ly hôn.
Đối với trƣờng hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu (Điều
56) Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn
mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu
có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng

trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không
đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ
có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của người kia.”
Ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không có điều khoản riêng về
căn cứ Lý hôn (Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tại Điều 89 đã phân tích ở
trên), điều này đã dẫn đến có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau về căn cứ
ly hôn được áp dụng cho các trường hợp ly hôn!


×