Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO FTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.26 KB, 18 trang )

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA)
Đã ký kết












ASEAN-AEC
ASEAN - Ấn Độ
ASEAN – Australia/New Zealand
ASEAN – Hàn Quốc
ASEAN – Nhật Bản
ASEAN – Trung Quốc
Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam - Chile
Việt Nam - Lào
Việt Nam – Hàn Quốc
Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu

Đang đàm phán







RCEP (ASEAN+6)
ASEAN - Hồng Kông
TPP
Việt Nam – EU
Việt Nam – EFTA

Đang xem xét


ASEAN - Canada

Tóm lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
29/07/2015

I.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ AEC
Lịch sử hình thành:
Tại Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN 2020 thông qua tháng 12/1997, các nhà lãnh
đạo ASEAN đã định hướng phát triển ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN;
Ý tưởng được tái khẳng định tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 tháng 10/2003, thể
hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II). Theo đó,
ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng ASEAN vào năm 2020
với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị - an ninh (Cộng đồng an ninh ASEAN – ASC),
hợp tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN – AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng
đồng Văn hoá Xã hội ASEAN – ASCC);
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tháng 1/2007 các nước ASEAN đã
quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN từ 2020 xuống
2015.



Mục tiêu
Bốn mục tiêu, cũng là bốn yếu tố cấu thành AEC, bao gồm:
1.

Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông
qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu
tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề;
2.
Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ
chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát
triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử;
3.
Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN;
4.
Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham
vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới
cung cấp toàn cầu (WTO).
Bản chất AEC
Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được
coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Kinh tế châu Âu bởi AEC không
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những cam kết ràng buộc với lộ trình thực hiện cụ thể.
AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện thực
hóa dần dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện tương
đối toàn diện và đầy đủ thông qua các hiệp định và thỏa thuận ràng buộc, các mục
tiêu còn lại mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình và thực hiện một số sáng kiến
khu vực).

AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một
Thỏa thuận hay Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các
mục tiêu của AEC là hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Tuyên bố… giữa các nước
ASEAN có liên quan tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm những
cam kết có tính ràng buộc thực thi, cũng có những văn bản mang tính tuyên bố, mục
tiêu hướng tới không bắt buộc của các nước ASEAN.
Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước đây
(thông qua việc thực hiện các cam kết tại các Hiệp định cụ thể về thương mại đã ký
kết giữa các nước ASEAN) và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới (tiếp tục
thực hiện theo lộ trình các Hiệp định, Thỏa thuận đã có và các vấn đề mới, nếu có).
Thực thi từ phía Chính phủ
Theo thông tin từ Bộ Công Thương, trong các đợt rà soát hàng năm về lộ trình tổng
thể cho việc thành lập AEC, Việt Nam thường đạt được kết quả rà soát là đã hoàn
thành được 85-90% khối lượng công việc, tỷ lệ này là cao so với các nước trong khu
vực. Trong kỳ rà soát tháng 10/2014, Việt Nam và Singapore đạt tỷ lệ hoàn thành
90% các biện pháp, trong khi bình quân chung của các nước ASEAN là 82,1%.


II.

CÁC HIỆP ĐỊNH CHÍNH TRONG AEC

Dưới đây là tóm tắt một số Hiệp định thương mại được ký kết trong khuôn khổ
ASEAN và hướng tới mục tiêu thực hiện AEC.
1.
Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN (ATIGA)
Hiệp định ATIGA 2010 có tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT/AFTA) được thực hiện từ năm 1992.
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại
hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt

giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định,
nghị định thư có liên quan.
Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau
mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác
trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực chung của ASEAN để
xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm dịch...
đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối
cảnh xây dựng AEC.
Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 nhưng đến năm 1999 mới bắt đầu thực thi
CEPT và sau này là ATIGA.
Theo ATIGA, đến năm 2010 các nước ASEAN-6 phải xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với
100% dòng thuế thuộc Danh mục thông thường; chỉ giữ lại một số dòng thuế thuộc
Danh mục loại trừ chung gồm những sản phẩm được miễn trừ vĩnh viễn vì lý do an
ninh quốc gia, đạo đức và sức khỏe). Các nước nhóm CLMV (gồm Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam) có lộ trình dài hơn xóa bỏ thuế cho hàng hóa từ các nước
ASEAN muộn hơn, đến năm 2015 mới phải xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu trong
Danh mục thông thường nhưng được linh hoạt giữ lại thuế suất đối với 7% số dòng
thuế đến năm 2018.
Như vậy, từ khi thực hiện cắt giảm thuế năm 1999 đến 2015, Việt Nam đã cắt
giảm/xóa bỏ thuế nhập khẩu xuống còn 0-5% đối với khoảng 90% dòng thuế, chỉ còn
giữ linh hoạt đối với 7% dòng thuế còn lại tính đến năm 2018, 3% số dòng thuế
thuộc Danh mục loại trừ không phải xóa bỏ thuế quan nhưng thuế quan phải giảm
xuống dưới 5%.
7% số dòng thuế được linh hoạt giữ tới 2018 này bao gồm các mặt hàng ô tô và linh
kiện, sắt thép, linh kiện và phụ tùng xe máy, máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng,
xe đạp và phụ tùng, rượu bia, sản phẩm chất dẻo, giấy các loại.


Từ năm 2018 Việt Nam chỉ còn được duy trì thuế nhập khẩu với mức thuế suất tối đa

là 5% đối với khoảng 3% số dòng thuế, bao gồm phần lớn là các mặt hàng nông
nghiệp nhạy cảm (gia cầm sống, thịt già, trứng gia cầm, quả có múi, thóc, gạo lứt,
thịt chế biến, đường). Hai nhóm mặt hàng có lộ tình cam kết dài và chưa có lộ trình
là xăng dầu (đến năm 2024) và thuốc lá (sẽ phải đưa ra lộ trình cắt giảm trong
tương lai gần).
2.

Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)

Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN (AFAS) được ký năm 1995 và Nghị định thư
sửa đổi AFAS ký năm 2003 nhằm điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ giữa các
nước ASEAN. Nội dung của AFAS tương tự Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ
của WTO.
Trên cơ sở AFAS, các nước ASEAN đến nay đã hoàn thành 8 Gói cam kết về dịch vụ
(cam kết cho 80 phân ngành), và đang đàm phán Gói thứ 9 (cam kết cho 104 phân
ngành) và sau đó sẽ đàm phán Gói cuối cùng (cam kết cho 124 phân ngành) nhằm
hướng tới mục tiêu tự do hóa dịch vụ đến năm 2015.
Trong các Gói cam kết trên, các Gói cam kết 1-7 của Việt Nam có mức độ mở cửa
dịch vụ chỉ thấp hơn hoặc bằng so với mức độ mở cửa dịch vụ của Việt Nam trong
WTO. Nhưng bắt đầu từ Gói thứ 8 trở đi, một số cam kết của Việt Nam trong một số
phân ngành đã bắt đầu cao hơn mức độ mở cửa trong WTO và bổ sung thêm cam
kết cho một số phân ngành mới.
Hiệu lực của các Gói cam kết này phụ thuộc vào thông báo hoàn thành thủ tục phê
chuẩn nội bộ của các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, hiện không có thông tin
chính xác về số lượng các nước ASEAN đã hoàn thành thủ tục phê chuẩn nội địa cho
từng Gói cam kết cũng như tình trạng hiệu lực của các Gói cam kết này.
Hiện tại các nước ASEAN đang đàm phán Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN
(ATISA) nhằm nâng cấp Hiệp định AFAS và tổng hợp các cam kết dịch vụ trong các
FTA ASEAN với các đối tác bên ngoài ASEAN.
3.


Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA)

Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) được ký kết tháng 2/2009 và có hiệu lực từ
29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN (IGA) 1987
và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998)
ACIA bao gồm 4 nội dung chính: Tự do hóa đầu tư, Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa đầu
tư và Xúc tiến đầu tư.
Phạm vi điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp.


Phạm vi tự do hóa bao gồm các ngành phi dịch vụ (các ngành dịch vụ thuộc phạm vi
điều chỉnh của AFAS về dịch vụ như giới thiệu ở trên): sản xuất, nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, khai khoáng và các dịch vụ liên quan đến các ngành trên.
Một số đặc điểm nổi bật của ACIA:
ACIA mở rộng về phạm vi định nghĩa nhà đầu tư (ví dụ doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài khối tại một nước ASEAN khi đầu tư sang một nước ASEAN khác được
coi là nhà đầu tư ASEAN).
ACIA quy định về các biện pháp/yêu cầu đối với đầu tư bị cấm mà các nước
thành viên không được phép sử dụng (ví dụ yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, cân bằng cán
cân thanh toán)
ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa Nhà nước và nhà
đầu tư.
ACIA bao gồm:





-


49 Điều;

-

02 phụ lục:

Phụ lục 1 quy định về các yêu cầu bắt buộc về thủ tục mà Cơ quan nước
thành viên phải tuân thủ đối với các trường hợp mà pháp luật nội địa của từng
nước quy định phải có chấp thuận bằng văn bản đối với khoản đầu tư (ví dụ đối
với Việt Nam là đầu tư trong các lĩnh vực nhạy cảm như dầu khí, khai thác
khoáng sản quý hiếm…).
Phụ lục 2 về trường hợp tịch biên và bồi thường
01 Danh mục bảo lưu: Danh mục này của Việt Nam bao gồm các trường hợp
loại lệ không áp dung nghĩa vụ đối xử quốc gia và nghĩa vụ đối với quản lý cấp cao
và ban giám đốc.
Tóm lại:
Về tự do hóa hàng hóa: Trong số các FTA mà Việt Nam đã ký kết, các cam
kết về cắt giảm thuế quan trong ASEAN là cao nhất và nhanh nhất
Về tự do hóa dịch vụ: các cam kết về dịch vụ trong ASEAN đều tương tự
mức cam kết trong WTO, trong một số gói cam kết dịch vụ gần đây của ASEAN, mức
độ cam kết đã bắt đầu cao hơn so với WTO nhưng không nhiều và cũng phù hợp với
mức độ mở cửa thực tế về dịch vụ của Việt Nam.
Về tự do hóa đầu tư: các cam kết về đầu tư trong ASEAN toàn diện hơn
trong WTO và các FTA đã ký của Việt Nam nhưng cũng phù hợp với các quy định về
đầu tư trong pháp luật Việt Nam (việc thực thi các cam kết về đầu tư trong ASEAN
không buộc Việt Nam phải sửa đổi pháp luật trong nước)


III.

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA AEC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM
1.
Cơ hội
Khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất, AEC sẽ mang lại những cơ hội lớn cho nền
kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là:
AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn: với gần 100% hàng hóa
được tự do lưu chuyển trong nội khối, AEC tạo ra một khu vực thị trường hàng hóa
chung giữa các nước ASEAN, mở ra cơ hội làm ăn kinh doanh lớn cho các doanh
nghiệp trong khu vực;
AEC mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: môi trường kinh
doanh được mở rộng theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn sẽ là điều kiện để thu
hút đầu tư nước ngoài không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại
khối, đặc biệt là các nước đối tác FTA của ASEAN vào Việt Nam để tham gia và chuỗi
giá trị khu vực;
AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam: tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác khu
vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực sẽ buộc các doanh nghiệp Việt
Nam phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát
triển.
AEC tạo ra khí thế và động lực cho doanh nghiệp: Với tinh thần chuẩn bị cho
việc hình thành AEC vào cuối năm 2015 và những trông đợi về một khu vực thị
trường chung năng động với nhiều cơ hội mở ra, các doanh nghiệp Việt Nam dường
như đã được thức tỉnh để chuẩn bị tư thế và hành tranh cho tiến trình hội nhập mạnh
mẽ sắp tới.
2.
Thách thức
Thách thức lớn nhất trong AEC đối với Việt Nam hiện tại là sức ép cạnh tranh
từ hàng hóa từ các nước ASEAN: với cơ cấu sản phẩm tương đối giống nhau ở cả 10
nước ASEAN, việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các

doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu và ở
các ngành vốn được bảo hộ cao từ trước tới nay.
Trong tương lai, khi các mục tiêu AEC được hoàn tất, những sức ép từ các khía cạnh
khác sẽ xuất hiện, thách thức vì vậy sẽ mở rộng ra các vấn đề khác như:
Thách thức về dịch vụ: Nếu mục tiêu tự do lưu chuyển dịch vụ trong AEC
được hiện thực hóa, các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn sẽ
bị đặt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều (bởi hiện nay các rào
cản/điều kiện đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn tương
đối cao, do đó doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam hiện đang được “bao bọc” khá kỹ
lưỡng trong nhiều lĩnh vực dịch vụ);


Thách thức về lao động: Khi AEC hoàn tất mục tiêu tự do lưu chuyển lao
động, nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ, lao động Việt Nam tay nghề kém, thiếu các
kỹ năng cần thiết (ngoại ngữ, tính chuyên nghiệp…) có thể sẽ gặp khó khăn lớn;
Thách thức về quản lý dòng vốn: Nếu AEC hoàn thành mục tiêu tự do lưu
chuyển về vốn, Việt Nam sẽ đứng trước thách thức trong việc kiểm soát dòng vốn
ra/vào; đối với doanh nghiệp, đây cũng sẽ là vấn đề hai mặt, vừa tích cực (có thể
tiếp nhận vốn đầu tư, hợp tác dễ dàng hơn), vừa tiêu cực (có thể sẽ không còn
những hàng rào bảo vệ doanh nghiệp trước việc rút vốn của đối tác…).
IV.
KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NHÀ NƯỚC
1.

Khuyến nghị cho doanh nghiệp

Với tính chất là mục tiêu mang tính lộ trình, và với cấu thành là những Hiệp định,
Thỏa thuận đã và đang thực hiện, tại thời điểm hình thành AEC (cuối năm 2015), cơ
chế cũng như chính sách thương mại với các nước ASEAN sẽ không có thay đổi gì
đáng kể so với hiện tại, và do đó cũng sẽ không tạo tác động gây sốc nào đối với các

doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần chủ động để tìm hiểu các nội dung và cam kết của
các Hiệp định đang có hiệu lực trong AEC để tận dụng các cơ hội và hạn chế thách
thức từ việc thực thi các hiệp định này. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần quan
tâm tới lộ trình thực hiện các mục tiêu tương lai của AEC để có sự chuẩn bị sẵn sàng
cho một khu vực thị trường và sản xuất chung sẽ được hình thành khi các mục tiêu
của AEC được hoàn tất.
Ngoài ra, AEC không phải là mục tiêu hội nhập duy nhất của Việt Nam, bên cạnh đó
còn rất nhiều các FTA khác với các đối tác quan trọng, dự kiến sẽ có tác động lớn,
mang tính cộng hưởng đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, doanh
nghiệp cần tập trung mọi nỗ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó có cả
việc tận dụng các cơ hội hội nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó có thể
tồn tại và phát triển được trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu hơn nữa vào
nền kinh tế thế giới.
2.

Khuyến nghị đối với các cơ quan nhà nước

Tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về AEC cũng như các FTA
khác mà Việt Nam đang tham gia. Thông tin cung cấp cần cụ thể và dễ dàng tiếp
cận được đối với doanh nghiệp;
Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với VCCI và các hiệp hội trong quá trình đàm phán
cũng như thực thi các FTA sau này;
Xây dựng một kênh tham vấn doanh nghiệp thường xuyên và hiệu quả hơn
không chỉ cho đàm phán mà quan trọng hơn là cho quá trình thực thi các cam kết
thương mại (đặc biệt cần có một đơn vị đầu mối cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh


nghiệp tìm hiểu nội dung các FTA cũng như tư vấn, giải thích cho doanh nghiệp trong
các trường hợp vướng mắc).

Tài liệu tham khảo
Lê Triệu Dũng, 2015: Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015: Tác động, cơ hội
và thách thức, Kỷ yếu Hội thảo “Cộng đồng Kinh tế ASEAN – Cơ hội và Thách thức
đối với doanh nghiệp Việt Nam”
Hoàng Văn Phương, 2014: Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Cơ hội, thách thức
đối với Doanh nghiệp Việt Nam, Tài liệu Hội thảo phổ biến về AEC và các FTA Việt
Nam đang tham gia, Dự án EU-MUTRAP
Website www.trungtamwto.vn: Các Hiệp định thương mại trong khuôn khổ
ASEAN
Website www.asean.org: Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)

Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS)
07/04/2015
Ngày 15 tháng 12 năm 1995, tại Bangkok Thái Lan, Chính phủ các quốc gia Brunei
Darassulam, Cộng hoà Indonesia, Malaysia, Cộng hoà Philippines, Cộng hoà
Singapore, Vương quốc Thái Lan, Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các Nước
thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á đã ký kết Hiệp định khung ASEAN về
Dịch vụ (AFAS).
AFAS được ký kết với mục đích thúc đẩy hợp tác trong nội bộ khu vực ASEAN nhằm
đảm bảo một khuôn khổ mậu dịch tự do cho thương mại dịch vụ, điều này sẽ củng
cố và đẩy mạnh thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN. Đồng thời thể
hiện mong muốn huy động các khu vực tư nhân trong quá trình thực hiện phát triển
kinh tế của các nước thành viên ASEAN nhằm cải thiện hiệu quả và nâng cao khả
năng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ của các nước.
Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS)



Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS) (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng Anh)
Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ, Phnom Penh,

Campuchia, 2 tháng 9 năm 2003
8 gói cam kết theo AFAS







Nghị
Nghị
Nghị
Nghị
Nghị

định
định
định
định
định

thư
thư
thư
thư
thư

thi
thi
thi

thi
thi

hành
hành
hành
hành
hành

Gói
Gói
Gói
Gói
Gói

cam
cam
cam
cam
cam

kết
kết
kết
kết
kết

thứ
thứ
thứ

thứ
thứ

nhất (1997) và Phụ lục
hai (1998) và Phụ lục
ba (2001) và Phụ lục
tư (2004) và Phụ lục
năm (2006) và Phụ lục






Nghị định thư thi hành Gói cam kết thứ sáu (2007) và Phụ lục
Nghị định thư thi hành Gói cam kết thứ bảy (2009) và Phụ lục
Nghị định thư thi hành Gói cam kết thứ tám (2010) và Phụ lục
Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau



Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kế toán và Kiểm



toán, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành nghề trong lĩnh vực




y tế, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành nghề trong lĩnh vực



nha khoa, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kỹ thuật, Kuala



Lumpur, 9 tháng 12 năm 2005
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Điều dưỡng,



Philippines, 8 tháng 12 năm 2006
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kiến trúc,



Singapore, 9 tháng 11 năm 2007
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về trình độ đo đạc,
Singapore, 19 tháng 11 năm 2007 (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng Anh)
Các lĩnh vực ưu tiên hội nhập




Nghị định thư về hội nhập trong ASEAN với dịch vụ Logistics, Philippines,
24 tháng 8 năm 2007

Phụ lục 1 - Lộ trình hội nhập với dịch vụ Logistics
Một số văn bản khác



Nghị định thư sửa đổi Điều 3 của Hiệp định khung ASEAN (sửa đổi) về Hội



nhập với các ngành Ưu tiên, Philippines, 24 tháng 8 năm 2007
Hiệp định về Thương mại Dịch vụ của Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế



Toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, Cebu, Philippines, 14 tháng 01 năm 2007
Hiệp định về Thương mại Dịch vụ theo Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế



Toàn diện giữa Chính phủ các nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á và Hàn Quốc, Singapore, 21 tháng 11 năm 2007
Biểu cam kết cụ thể (đối với Gói cam kết thứ nhất) của Hiệp định ASEANHàn Quốc về Thương mại Dịch vụ

Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS)
07/04/2015


Ngày 15 tháng 12 năm 1995, tại Bangkok Thái Lan, Chính phủ các quốc gia Brunei
Darassulam, Cộng hoà Indonesia, Malaysia, Cộng hoà Philippines, Cộng hoà

Singapore, Vương quốc Thái Lan, Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các Nước
thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á đã ký kết Hiệp định khung ASEAN về
Dịch vụ (AFAS).
AFAS được ký kết với mục đích thúc đẩy hợp tác trong nội bộ khu vực ASEAN nhằm
đảm bảo một khuôn khổ mậu dịch tự do cho thương mại dịch vụ, điều này sẽ củng
cố và đẩy mạnh thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN. Đồng thời thể
hiện mong muốn huy động các khu vực tư nhân trong quá trình thực hiện phát triển
kinh tế của các nước thành viên ASEAN nhằm cải thiện hiệu quả và nâng cao khả
năng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ của các nước.
Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS)



Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS) (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng Anh)
Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ, Phnom Penh,
Campuchia, 2 tháng 9 năm 2003
8 gói cam kết theo AFAS










Nghị
Nghị
Nghị

Nghị
Nghị
Nghị
Nghị
Nghị

định
định
định
định
định
định
định
định

thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư
thư

thi
thi
thi
thi
thi
thi

thi
thi

hành
hành
hành
hành
hành
hành
hành
hành

Gói
Gói
Gói
Gói
Gói
Gói
Gói
Gói

cam
cam
cam
cam
cam
cam
cam
cam


kết
kết
kết
kết
kết
kết
kết
kết

thứ
thứ
thứ
thứ
thứ
thứ
thứ
thứ

nhất (1997) và Phụ lục
hai (1998) và Phụ lục
ba (2001) và Phụ lục
tư (2004) và Phụ lục
năm (2006) và Phụ lục
sáu (2007) và Phụ lục
bảy (2009) và Phụ lục
tám (2010) và Phụ lục

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau



Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kế toán và Kiểm



toán, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành nghề trong lĩnh vực



y tế, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành nghề trong lĩnh vực



nha khoa, Cha-am, Thái Lan, 26 tháng 2 năm 2009
Thỏa thận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kỹ thuật, Kuala



Lumpur, 9 tháng 12 năm 2005
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Điều dưỡng,
Philippines, 8 tháng 12 năm 2006





Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về Dịch vụ Kiến trúc,
Singapore, 9 tháng 11 năm 2007
Thỏa thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về trình độ đo đạc,

Singapore, 19 tháng 11 năm 2007 (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng Anh)
Các lĩnh vực ưu tiên hội nhập




Nghị định thư về hội nhập trong ASEAN với dịch vụ Logistics, Philippines,
24 tháng 8 năm 2007
Phụ lục 1 - Lộ trình hội nhập với dịch vụ Logistics
Một số văn bản khác



Nghị định thư sửa đổi Điều 3 của Hiệp định khung ASEAN (sửa đổi) về Hội



nhập với các ngành Ưu tiên, Philippines, 24 tháng 8 năm 2007
Hiệp định về Thương mại Dịch vụ của Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế



Toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, Cebu, Philippines, 14 tháng 01 năm 2007
Hiệp định về Thương mại Dịch vụ theo Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế



Toàn diện giữa Chính phủ các nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á và Hàn Quốc, Singapore, 21 tháng 11 năm 2007

Biểu cam kết cụ thể (đối với Gói cam kết thứ nhất) của Hiệp định ASEANHàn Quốc về Thương mại Dịch vụ

Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)
05/04/2015
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại
hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được
thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Nguyên
tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu
đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các
Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực chung của ASEAN để
xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm dịch...
đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối
cảnh xây dựng AEC.
Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)




Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, Cha-am, Thái Lan, ngày 26 tháng
2 năm 2009 (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng Anh)
Nghị định thư sửa đổi Nghị định thư về Đối xử đặc biệt với Gạo và Đường,
Hà Nội, Việt Nam, ngày 28 tháng 10 năm 2010 (Bản Tiếng Anh)
Các Phụ lục của Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, Cha-am, Thái Lan,
ngày 26 tháng 2 năm 2009:


Phụ

lục


1

Phụ
Phụ

lục

(Danh

sách

lục
3

(Các

các

biện

2
quy

pháp

(Biểu

định


với

thông

thuế
sản

báo)
quan)

phẩm

cụ

thể)

Phụ lục 3 Tệp đính kèm 1 (Các quy định cụ thể với mặt hàng dệt may)
Phụ

lục

4

(Các

sản

phẩm

ITA


trong

AHTN

2007)

Phụ lục 5 (Các nguyên tắc và chỉ dẫn tính toán hàm lượng giá trị khu vực trong
ATIGA)
Phụ lục 6 (Hướng dẫn thực hiện Cộng gộp từng phần theo quy định của Điều
30(2)
Quy
tắc
xuất
xứ
cộng
gộp
trong
ASEAN)
Phụ
Phụ
Phụ

lục

lục
lục
9

7


(Quy
8

(Danh

(Các
sách

tắc

xuất

thủ
các

xứ

tục

biện

mẫu

chứng

pháp

kiểm


D
nhận
dịch



ghi
hoạt

động

thực

chú)
động)
vật)

Phụ lục 10 (Các địa chỉ liên hệ được chỉ định để thực hiện biện pháp kiểm dịch
động
thực
vật
theo
Chương
8
ATIGA)
Phụ lục 11 (Danh sách các Hiệp định bị thay thế)
Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)













Nghị định thư về Đối xử đặc biệt với Gạo và Đường, 23 tháng 8 năm 2007
Nghị định thư đầu tiên sửa đổi Nghị định thư về thỏa thuận đặc biệt đối với
các sản phẩm nhạy cảm và sản phẩm nhạy cảm cao), 3 tháng 9 năm 2004
Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) cho Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) để xóa bỏ thuế nhập khẩu,
31 tháng 1 năm 2003
Nghị định thư về việc thực hiện Danh mục loại trừ tạm thời theo Hiệp định
về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), Singapore, 22-25
tháng 11 năm 2000
Nghị định thư về những thỏa thuận đặc biệt đối với các sản phẩm nhạy
cảm và nhạy cảm cao, Singapore, 30 tháng 9 năm 1999
Nghị định thư về các thủ tục thông báo
Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi đối với hàng hóa quá cảnh, Hà
Nội, 16 tháng 12 năm 1998
Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế
ASEAN, Bangkok, 15 tháng 12 năm 1995
Nghị định thư về việc gia nhập của nước CHXHCN Việt Nam vào Hiệp định
về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho trong Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN, Bangkok, 15 tháng 12 năm 1995










Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung cho ASEAN, Bangkok, 15 tháng 12 năm 1995 (Bản Tiếng Việt) (Bản
Tiếng Anh)
Nghị định thư về việc gia nhập của nước CHXHCN Việt Nam vào Hiệp định
khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, Bangkok, 15 tháng 12 năm 1995
Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về Thỏa thuận ưu đãi thương mại ASEAN,
Bangkok, 15 tháng 12 năm 1995
Hiệp định khung về Tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, Singapore, 28
tháng 1 năm 1992
Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho Khu vực
Thương mại Tự do ASEAN, 28 tháng 1 năm 1992 (Bản Tiếng Việt) (Bản Tiếng
Anh).
 Mục tiêu của dự thảo báo cáo lần đầu này là nhằm đưa ra những mô tả bước
đầu về những yếu tố cơ bản của việc phân tích đề xuất mang tính định lượng
về Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA). Báo cáo sẽ trình bày về
phương pháp luận đề xuất cho việc phân tích tác động của việc tự do hóa
thương mại hàng hóa trong nội khối ASEAN.


Nên lưu ý là AFTA, một trong những hòn đá tảng của Cộng đồng kinh tế
ASEAN, bao gồm cả tự do hóa thương mại dịch vụ và đầu tư nội khối ASEAN,
cũng như hợp tác trong, và phát triển, một số lĩnh vực khác. Do nghiên cứu
này tập trung vào khía cạnh thương mại hàng hóa trong khu vực thương mại

tự do ASEAN, nên việc phân tích về những cam kết và nghĩa vụ về dịch vụ và
đầu tư không nằm trong bản báo cáo này.



Báo cáo bước đầu này bổ sung cho bản dự thảo báo cáo về việc phân tích
mang tính định lượng được thực hiện một cách tách biệt và có bao gồm những
mô tả về AFTA, phạm vi và diện điều chỉnh, vấn đề thành viên và ngày gia
nhập của các thành viên và những thể chế liên quan nhất xét từ góc độ thực
thi, giám sát và kiểm sát, v.v.



Bốn phần trên được phân biệt rõ ràng.




Tập tin đính kèm:
danh_gia_tac_dong_afta_doi_voi_nen_kinh_te_vietnam.pdf



Khác biệt về quy tắc xuất xứ trong các Hiệp
định FTA của ASEAN



06/01/2014




Mỗi hiệp định FTA đều có quy tắc xuất xứ riêng để bảo đảm hàng hóa nếu đáp
ứng các quy tắc xuất xứ sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan của các nước
thành viên dành cho.



Tính đến năm 2010, Việt Nam đã ký kết và thực hiện 7 Hiệp định khu vực
thương mại tự do (FTA), trong đó có 6 FTA thực hiện cùng với các nước ASEAN
và một FTA song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản.




Để thực hiện các cam kết về thương mại hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực cắt
giảm thuế quan, hàng hóa sản xuất tại các nước thành viên phải đáp ứng
những quy tắc xuất xứ trong các hiệp định FTA. Mỗi hiệp định FTA đều có quy
tắc xuất xứ riêng để bảo đảm hàng hóa nếu đáp ứng các quy tắc xuất xứ sẽ
được hưởng các ưu đãi thuế quan của các nước thành viên dành cho.



Trong các hiệp định FTA của các nước ASEAN, về cơ bản, các quy tắc xuất xứ
trong các hiệp định này đều có cấu trúc tương đối giống nhau. Tuy nhiên, do
đặc thù của từng đối tác, đồng thời cùng với những cam kết cắt giảm khác
nhau, quy tắc xuất xứ trong mỗi FTA của ASEAN cũng có những khác biệt nhất
định.




Khác biệt trong quy tắc xuất xứ



Khác biệt lớn nhất và có tính ảnh hưởng quan trọng đến việc xác định xuất xứ
của từng sản phẩm là tiêu chí xuất xứ chung. Trong hầu hết các hiệp định hiện
nay như ATIGA, AKFTA, AJCEP, AANZFTA, tiêu chí xuất xứ chung là chuyển đổi
mã số hàng hóa ở cấp 4 số (CTH) hoặc hàm lượng giá trị khu vực 40% (RVC
(40)). Trong khi đó, Hiệp định ACFTA áp dụng tiêu chí chung là RVC(40) và
Hiệp định AIFTA áp dụng tiêu chí chung là RVC(35) kết hợp với tiêu chí CTSH
(chuyển đổi mã số hàng hóa cấp 6 số). Có thể nói, trong số các tiêu chí chung
nói trên, việc áp dụng tiêu chí CTH hoặc RVC(40) tương đối phù hợp và tạo
thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.



Về vấn đề cộng gộp, hầu hết các hiệp định đều áp dụng quy định cộng gộp
làm tròn khi hàm lượng giá trị gia tăng của nguyên liệu có xuất xứ đạt 40% trở
lên. Hiện chỉ có duy nhất quy tắc xuất xứ trong Hiệp định ATIGA có quy định
cộng gộp từng phần với ngưỡng giá trị 20%. Quy định này trước đây được đưa
ra nhằm tạo thuận lợi cho việc tận dụng tối đa các phần nguyên liệu có xuất
xứ được sử dụng. Hiện nay, một số nước đối tác của ASEAN đang đề nghị áp
dụng việc cộng gộp đầy đủ từ bất kỳ tỉ lệ giá trị gia tăng nào. Tỉ lệ giá trị này
sẽ được cộng gộp đúng vào trị giá nguyên liệu có xuất xứ trong công đoạn sản
xuất tiếp theo.



Quy định về những công đoạn gia công đơn giản cũng có những khác biệt

nhất định trong một số hiệp định. Trong khi các Hiệp định AANZFTA, AKFTA,
AJCEP quy định cụ thể từng hành vi được coi là gia công đơn giản, các Hiệp
định còn lại như ATIGA, và ACFTA quy định các công đoạn gia công đơn giản
theo hướng quy định các nguyên tắc, chẳng hạn như những công đoạn thuộc
diện bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ hàng, xếp hàng,


đóng gói hàng hóa. Việc quy định mang tính chung nhất này có thể đảm bảo
mọi hành vi liên quan nếu có những đặc điểm chung như quy định sẽ được
loại trừ, trong khi việc quy định cụ thể như trong ba hiệp định ban đầu có thể
dẫn tới việc bỏ sót những hành vi sẽ phát sinh trên thực tế sau này.


Việc áp dụng quy định này đối với một số tiêu chí xuất xứ cũng có những khác
biệt trong một số hiệp định. Trong một số trường hợp, công đoạn gia công đơn
giản không áp dụng đối với tiêu chí xuất xứ RVC (40) nhưng áp dụng đối với
tiêu chí CTC. Nhưng một số trường hợp khác, công đoạn gia công đơn giản lại
áp dụng cả hai tiêu chí RVC và CTC. Việc có sự khác biệt này dẫn tới việc khác
biệt về tiêu chí xuất xứ trong Quy tắc cụ thể mặt hàng.



Quy định về ngưỡng de minimis cũng có những khác biệt nhất định. Trong
hiệp định ACFTA và AIFTA, ngưỡng de minimis chưa được áp dụng nhưng tại
hiệp định còn lại, ngưỡng de minimis được áp dụng trên cơ sở một số khác
biệt. Về cơ bản, các hiệp định đều có những áp dụng riêng về cách thức tính
de minimis (trọng lượng hoặc trị giá) cho các sản phẩm dệt may hoặc sản
phẩm không phải là dệt may với tỉ lệ là 10%. Riêng trong Hiệp định AJCEP,
một số mặt hàng nhạy cảm đối với Nhật Bản được áp dụng ngưỡng trị giá
thấp hơn (7%). Cũng trong hiệp định này, một số sản phẩm không được áp

dụng de minimis.



Khác biệt về thủ tục cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ



Những khác biệt cơ bản về quy tắc thủ tục cấp và kiểm tra chứng nhận xuất
xứ (OCP) tập trung chủ yếu ở một số quy định liên quan đến Giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hóa (C/O) giáp lưng, quy định kiểm tra tại nước xuất khẩu, quy
định về hàng triển lãm và hóa đơn do nước thứ ba phát hành.



Đối với trường hợp C/O giáp lưng, đây là quy định nhằm tạo thuận lợi cho hoạt
động thương mại, đặc biệt trong các trường hợp chia tách lô hàng, bán một
phần lô hàng vào nước nhập khẩu trung gian, phân phối tiếp một phần lô
hàng sang các nước thành viên tiếp theo. Bằng quy định này, hàng hóa có
xuất xứ trong khu vực duy trì được tình trạng xuất xứ của nước xuất khẩu ban
đầu, tránh được tình trạng mất xuất xứ tại nước thành viên trung gian bằng
cách cho phép tổ chức cấp C/O của nước trung gian được cấp C/O giáp lưng.
Một trong những điều kiện quan trọng để được cấp C/O giáp lưng là hàng hóa
vẫn nằm trong kiểm soát của cơ quan Hải quan nước nhập khẩu trung gian và
C/O gốc ban đầu vẫn còn hiệu lực.




Các Hiệp định AANZFTA, AKFTA, AJCEP, ATIGA, AIFTA đều có quy định về C/O

giáp lưng với các điều kiện về cơ bản giống như nêu ở trên. Hiện nay, C/O giáp
lưng chỉ được cấp một lần trên cơ sở C/O gốc. Trường hợp nước nhập khẩu
cuối cùng có nghi vấn về C/O giáp lưng, nước này có thể tiến hành kiểm tra
đối với nước xuất khẩu trung gian đã cấp C/O giáp lưng, thậm chí kiểm tra đối
với nước xuất khẩu ban đầu để đảm bảo tính xác thực về xuất xứ của lô
hàng.



Riêng Hiệp định ACFTA, khái niệm C/O giáp lưng chưa được hình thành. Trong
những phiên đàm phán gần đây giữa ASEAN và Trung Quốc về việc sửa đổi
OCP trong khuôn khổ hiệp định ACFTA, quy định về C/O giáp lưng đã được đưa
vào phần sửa đổi.



Trong trường hợp có nghi ngờ về xuất xứ của lô hàng nhập khẩu, nước thành
viên nhập khẩu có quyền yêu cầu nước thành viên xuất khẩu kiểm tra tính
xác thực của lô hàng. Trường hợp không thỏa mãn với kết quả kiểm tra, nước
nhập khẩu có quyền yêu cầu được kiểm tra tại nước xuất khẩu. Quy định này
nhằm đảm bảo thỏa mãn tối đa quyền kiểm tra xuất xứ của nước nhập khẩu
trước khi khẳng định lô hàng nghi vấn có xuất xứ hay không.



Hiện nay, trong hầu hết các FTA của ASEAN với các đối tác đều có quy định
này. Tuy nhiên, riêng Hiệp định ACFTA không có quy định này. Do vậy, trong
những phiên họp sửa đổi OCP trong khuôn khổ Hiệp định ACFTA gần đây, vấn
đề này đã được xem xét thảo luận.




Trong một số trường hợp, hàng hóa được sử dụng để triển lãm. Nhưng sau đó,
những hàng hóa này được bán trong quá trình triển lãm. Do vậy, quy định về
hàng hóa được sử dụng triển làm là cần thiết để đảm bảo có thể được hưởng
ưu đãi thuế quan. Hiện nay, hầu hết các quy tắc xuất xứ đều có quy định này,
ngoại trừ quy tắc xuất xứ trong hiệp định AANZFTA.



Để đảm bảo cho một số trường hợp khi có sự tham gia của bên thứ ba trong
quan hệ thương mại giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, hầu hết các hiệp
định đều quy định bên thứ ba có thể được phép phát hành hóa đơn và trong
trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan. Trong
thương mại quốc tế ngày nay, hình thức sử dụng hóa đơn nước thứ ba được
xem là khá phổ biến cùng với sự phân công lao động, đặt sản xuất ở nước
ngoài càng nhiều. Tuy nhiên, Hiệp định ACFTA không có quy định này.




Ngoài những quy định khác biệt giữa các hiệp định nêu trên, một số các hiệp
định có những quy định mà các hiệp định khác không có, như quy định về
hàng dệt may, quy định về các sản phẩm công nghệ thông tin.



Đối với quy tắc cụ thể mặt hàng, về cơ bản, các tiêu chí xuất xứ giữa các hiệp
định là khác nhau do ASEAN phải đàm phán với các đối tác khác nhau. Sự
khác biệt của các tiêu chí xuất xứ cũng phụ thuộc một phần vào cam kết cắt

giảm thuế quan của các mặt hàng này.



ASEAN cần thúc đẩy các SME tăng sử dụng FTA
của khối



06/01/2014



Theo thống kê của Ban thư ký Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), hiện
tại có tổng cộng 92 Hiệp định thương mại tự do (FTA) liên quan đến ASEAN và
các nước thành viên ASEAN (AMS), bao gồm những hiệp định đã có hiệu lực,
đã ký song chưa có hiệu lực, đang trong tiến trình đàm phán hoặc tham vấn
và nghiên cứu.



Trong số 92 Hiệp định nói trên, có 87 FTA song phương giữa các AMS với các
đối tác kinh tế chủ chốt (gọi tắt là FTA AMS), và năm FTA giữa ASEAN với năm
đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand (gọi tắt là
FTA ASEAN).



Nhà nghiên cứu kinh tế Deni Friawan thuộc Trung tâm Chiến lược và nghiên
cứu quốc tế (CSIS) chỉ ra một điểm rất đáng chú ý là nhiều nghiên cứu của các

chuyên gia quốc gia và khu vực cũng như các cơ quan phát triển cho thấy FTA
ASEAN không những có số lượng ít mà tỷ lệ sử dụng chúng trong giao dịch
thương mại của các doanh nghiệp ASEAN cũng rất thấp.



Chẳng hạn, tại Indonesia, việc sử dụng chứng nhận xuất xứ mặc dù đã gia
tăng trong những năm gần đây, song mới chỉ có 16-17% số doanh nghiệp của
nước này sử dụng FTA ASEAN. Tỷ lệ này thấp hơn so với của Malaysia (24%),
Việt Nam (31%) và Thái Lan (61,3%).



Nhìn chung, tỷ lệ sử dụng FTA AMS của các doanh nghiệp ASEAN cao hơn so
với FTA ASEAN. Ví dụ, tỷ lệ sử dụng FTA Indonesia-Nhật Bản của các doanh
nghiệp Indonesia là 32%, cao hơn các tỷ lệ sử dụng FTA ASEAN tương ứng từ
2-23% với năm đối tác nêu trên, trong đó thấp nhất là với New Zealand (2%)
và cao nhất là với Trung Quốc (23%).




Các FTA AMS dường như cung cấp những ưu đãi hấp dẫn hơn đối với các sản
phẩm chủ lực và có những quy định về xuất xứ hàng hóa đơn giản hơn so với
các FTA ASEAN. Cũng vì lý do này mà không có gì ngạc nhiên khi việc sử dụng
FTA ASEAN chủ yếu là các công ty đa quốc gia. Hứa hẹn về những lợi ích tiềm
năng từ các FTA ASEAN dường như còn chưa đến được với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME) trong khu vực.




Chuyên gia Deni Friawan cho biết, cuộc khảo sát do Hội đồng Tư vấn Kinh
doanh ASEAN (ASEAN- BAC) tiến hành trong năm 2012 cho thấy sự thiếu
thông tin về các FTA ASEAN và thiếu cơ hội cho mạng lưới khu vực là rào cản
lớn nhất đối với sự tham gia của các SME trong thương mại khu vực và quốc
tế.



Ở Indonesia, mặc dù chiếm 99,9% tổng số doanh nghiệp, cung cấp 97,2%
việc làm và đóng góp tới 57% vào GDP của nền kinh tế quốc dân, song sự
tham gia của các SME và các doanh nghiệp siêu nhỏ vào các FTA ASEAN còn
rất khiêm tốn.



Chính vì thực tế này, Phòng Thương mại và Công nghiệp Indonesia (Kadin), với
sự hỗ trợ của ASEAN-BAC, Viện quốc tế về Phát triển bền vững (IISD) và Văn
phòng Ngoại giao và Khối thịnh vương chung (FCO) của Anh mới đây đã tổ
chức Diễn đàn đối thoại SME nhằm hỗ trợ việc tăng cường sử dụng các FTA
ASEAN.



Kadin cho rằng Indonesia cần học hỏi từ nước láng giềng Philippines trong nỗ
lực nâng cao nhận thức và sử dụng các FTA ASEAN cho các doanh nghiệp
trong nước. Từ năm 2010, Bộ Thương mại và Công nghiệp Philippines (DTI) đã
tiến hành một chiến dịch thông tin quy mô lớn ở cấp quốc gia về FTA ASEAN
cho các doanh nghiệp. Nhờ vậy mà Philippines là quốc gia có tỷ lệ SME sử
dụng các FTA ASEAN cao nhất trong khối.




Theo Ban Thư ký ASEAN, trong năm 2012, tỷ lệ này của các công ty
Philippines đối với FTA ASEAN-Australia/New Zealand đạt 76,1%, cao hơn so
với Thái Lan (24,6%), Việt Nam (15,9%) và Indonesia (1%)./.



×