Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

VIỆT NAM THAM GIA WTO VÀ CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA) Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.34 KB, 43 trang )

VIỆT NAM THAM GIA WTO VÀ CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI TỰ DO (FTA):
Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may
(Báo cáo cuối cùng)
Người thực hiện: Nguyễn Anh Dương
Đặng Phương Dung
Báo cáo này thực hiện theo yêu cầu của Dự án “Hỗ trợ xúc tiến thương mại và
phát triển xuất khẩu tại Việt Nam – VIE/61/94”
Cục Xúc tiến thương mại
Bộ Công Thương
1
MỤC LỤC
Giới thiệu chung............................................................................................................................4
Cam kết thương mại của Việt Nam về dệt may trong các hiệp định thương mại........................5
A. WTO và các hiệp định có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may ................ 5
B. Cam kết thuế quan của một số thị trường chính ........................................................... 10
C. Quyền lợi và nghĩa vụ cam kết của ngành dệt may Việt Nam ..................................... 11
Xuất khẩu hàng dệt may: Hiện trạng và triển vọng....................................................................15
D. Xuất khẩu hàng dệt may và vai trò trong thời gian qua, đặc biệt từ khi gia nhập WTO
................................................................................................................................... 15
E. Một số phân tích đối với ngành dệt may của Việt Nam ............................................... 18
F. Tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính trong thời gian tới ......................................... 21
G. Đánh giá về tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ................................... 24
H. Vai trò của Chính phủ và Hiệp hội trong quá trình phát triển ngành dệt may nói chung
và xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may nói riêng .......................................................... 26
1. Các biện pháp chung ............................................................................................. 26
2. Các biện pháp trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu .................................................................................................................... 30
Các vấn đề đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam.................................................................30
Kết luận và khuyến nghị..............................................................................................................36
I. Kết luận ........................................................................................................................... 36


J. Khuyến nghị .................................................................................................................... 38
K. Đề xuất một số chương trình hành động ....................................................................... 41
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................43
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi tối huệ quốc của một số thị trường chính, 2006-2008....11
Bảng 2: Thuế nhập khẩu cam kết (trung bình) khi gia nhập WTO............................................13
Bảng 3: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%)..........................................................14
Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008....................................................16
Bảng 5: Trần thuế suất nhập khẩu cam kết cuối cùng của một số thị trường chính..................22
Bảng 6: Thuế suất (kết hợp) của Nhật Bản đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam......22
Bảng 7: Bảng số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam
giai đoạn 2006-2013....................................................................................................................24
Bảng 8: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2005-2020
......................................................................................................................................................26
Bảng 9: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm
2015, với tầm nhìn đến năm 2020...............................................................................................27
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: FDI vào ngành dệt may: số dự án và số vốn đầu tư (triệu USD) trong 1988-2008......18
Hình 2: Ảnh hưởng của các vấn đề đến chuỗi giá trị ngành dệt may.........................................33
DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 1: Các sản phẩm dệt may trong Hệ thống phân loại HS.....................................................10
Hộp 2: Tác động của thuế nhập khẩu và hàm ý từ tự do hóa thương mại.................................14
Hộp 3: Một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam..........................................................19
Hộp 4: Một số điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam..............................................................19
Hộp 5: Một số cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam..................................................................20
Hộp 6: Một số thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam......................................................21
3
Giới thiệu chung
Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng

trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng góp không nhỏ vào
tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung ở Việt Nam.
Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây dựng và củng cố
quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới, đồng thời tận dụng hiệu
quả nguồn lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí thấp. Triển vọng của ngành dệt may
đang sáng dần, nhất là khi nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam vẫn
tiếp tục có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Với việc Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp
định đối tác kinh tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) ở cấp song phương và đa
phương, các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói
riêng sẽ có nhiều cơ hội từ việc phát triển thương mại theo cách ít bị bảo hộ (thường là
méo mó) nhất. Tuy nhiên, những cơ hội ấy chỉ tận dụng được hiệu quả nếu doanh
nghiệp xử lý hiệu quả các thách thức từ quá trình hội nhập. Để tận dụng được cơ hội và
xử lý được thách thức, các doanh nghiệp trước hết cần được cung cấp thông tin liên
quan đến sự phát triển của ngành.
Nghiên cứu này được thực hiện trước hết nhằm đưa ra những thông tin chung
và cơ bản nhất về các cam kết liên quan đến ngành dệt may của Việt Nam trong các
hiệp định thương mại. Cùng với việc trình bày một số đánh giá triển vọng và các vấn
đề, thách thức, nghiên cứu sẽ có một số khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt
May Việt Nam, cũng như các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của ngành dệt
may. Nghiên cứu này được chuẩn bị chủ yếu cho các doanh nghiệp trong ngành dệt
may, mặc dù có thể sử dụng để tham khảo cho các đối tượng thuộc Chính phủ, Hiệp
hội Dệt May Việt Nam, và các cơ quan nghiên cứu khác.
Ngoài phần Giới thiệu, báo cáo còn có 04 phần. Phần II tóm tắt các cam kết
thương mại của Việt Nam trong ngành dệt may trong khung khổ WTO. Tiếp đó, phần
III đánh giá lại diễn biến và triển vọng phát triển của ngành dệt may Việt Nam, có tính
đến khả năng tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính được thể hiện qua các hiệp định

thương mại. Phần III cũng nhìn nhận lại vai trò của Chính phủ và Hiệp hội Dệt May
Việt Nam trong công tác phát triển ngành dệt may nói chung và thúc đẩy xuất khẩu dệt
4
may nói riêng. Phần IV nêu lên những vấn đề và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt
may, nhìn từ góc độ các hiệp định thương mại. Cuối cùng, phần V rút ra một số kết
luận chính, và đưa ra những khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt
Nam, và các doanh nghiệp trong ngành dệt may.
Cam kết thương mại của Việt Nam về dệt may trong các hiệp định thương
mại
A.WTO và các hiệp định có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt
may
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là tổ chức toàn cầu chuyên xử lý các vấn
đề liên quan đến quy định thương mại giữa các nền kinh tế. Hoạt động của WTO dựa
trên nền tảng các hiệp định được các thành viên đàm phán, ký kết và phê chuẩn. Mục
tiêu hoạt động của WTO là hỗ trợ hoạt động của các nhà sản xuất, xuất khẩu, và nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ thông qua việc giảm dần các rào cản đối với hoạt động trao
đổi thương mại giữa các quốc gia. Kết quả là môi trường kinh tế thế giới sẽ ít bị bóp
méo bởi các quy định pháp lý của một quốc gia hay một số quốc gia, qua đó làm tăng
thịnh vượng và tổng giá trị phúc lợi cho tất cả người dân và nền kinh tế. Tuy nhiên,
WTO không chỉ hướng đến tự do hóa thương mại mà trong một số trường hợp còn ủng
hộ việc duy trì các rào cản thương mại nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường hoặc tránh sự lây lan của dịch bệnh, v.v.
Các hiệp định của WTO rất dài và rất phức tạp, do có nhiều quy định xử lý các
vấn đề pháp lý điều chỉnh một loạt các lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, dệt may,
ngân hàng, viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp và an toàn sản
phẩm, vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, v.v. Tuy nhiên, tất cả các hiệp định này đều
dựa trên những nguyên tắc có tính nền tảng, đơn giản. Những nguyên tắc này chính là
cơ sở cho hệ thống trao đổi thương mại đa phương.
Thứ nhất, hoạt động thương mại không bị phân biệt đối xử. Nguyên tắc này dựa
trên hai cột trụ chính: đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử tối

huệ quốc yêu cầu các quốc gia không phân biệt đối xử giữa các nền kinh tế đối tác. Nói
cách khác, nếu một quốc gia dành ưu đãi đặc biệt (chẳng hạn, dưới dạng mức thuế
quan ưu đãi thấp hơn) cho một đối tác nào đó thì cũng phải dành ưu đãi ấy cho tất cả
các đối tác là thành viên của WTO khác. Nguyên tắc này là rất quan trọng, được thể
hiện trong điều khoản đầu tiên của Hiệp định Tổng quan về Thuế quan và Thương mại
(GATT), và cũng được ưu tiên trong Hiệp định Tổng quan về Thương mại Dịch vụ
(GATS). Tuy nhiên, đối xử tối huệ quốc không áp dụng đối với một số trường hợp
(dưới những quy định ngặt nghèo) như khi các quốc gia thành viên tham gia hiệp định
5
thương mại tự do, hay khi một quốc gia dành ưu đãi cho một thành viên là nước đang
phát triển, v.v. Trong khi đó, đối xử quốc gia yêu cầu mỗi thành viên phải đối xử bình
đẳng giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, ít nhất là sau khi hàng nước
ngoài đã thâm nhập thị trường. Đối xử quốc gia này cũng được áp dụng đối với các
dịch vụ trong nước và nước ngoài, và với các thương quyền, bản quyền, và bằng sáng
chế trong nước và nước ngoài. Nguyên tắc này được thể hiện trong cả ba hiệp định
chính của WTO (GATT, GATS, và TRIPS). Lưu ý là đối xử quốc gia chỉ áp dựng khi
một sản phẩm, dịch vụ hay tài sản trí tuệ đã tham gia thị trường.
Thứ hai, khuyến khích tự do hóa thương mại một cách dần dần, thông qua đàm
phán. Giảm bớt rào cản thương mại (như thuế nhập khẩu, hạn ngạch, v.v.) là một trong
những biện pháp rõ nhất để khuyến khích thương mại. Kể từ khi GATT được đưa vào
từ năm 1947-1948 đã có 8 vòng đàm phán. Vòng đàm phán thứ 9 - dưới Chương trình
Nghị sự Phát triển Doha - đang được tiến hành. Trong giai đoạn đầu, những vòng đàm
phán tập trung vào giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Đến giữa thập kỷ 1990,
các nước công nghiệp đã giảm mức thuế quan đối với hàng công nghiệp xuống dưới
mức 4%. Kể từ những năm 1980, các vòng đàm phán cũng tập trung với những rào cản
phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa, và những lĩnh vực khác như dịch vụ và sở
hữu trí tuệ. Quá trình mở cửa thị trường có thể mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng đòi
hỏi phải có những bước điều chỉnh. Các hiệp định WTO cho phép các nước thành viên
điều chỉnh dần theo hướng gia tăng tự do hóa.
1

Thứ ba, chính sách thương mại phải dễ tiên liệu, thông qua cam kết có hiệu lực
và minh bạch. Trên thực tế, cam kết không tăng rào cản thương mại có thể đóng vai trò
quan trọng như là giảm rào cản thương mại, vì cam kết ấy giúp các doanh nghiệp có
niềm tin hơn vào các cơ hội trong tương lai. Tính ổn định và dễ tiên liệu của chính
sách sẽ giúp khuyến khích đầu tư, tạo việc làm, trong khi người tiêu dùng lại được
hưởng lợi từ cạnh tranh (khiến hàng hóa đa dạng hơn và giá rẻ hơn). Chính hệ thống
thương mại đa phương thể hiện nỗ lực của các chính phủ trong việc xây dựng môi
trường kinh doanh ổn định và dễ tiên liệu hơn. Trong khung khổ của WTO, khi các
quốc gia đồng ý mở cửa thị trường hàng hóa hoặc dịch vụ, họ sẽ phải đưa ra những
cam kết có hiệu lực. Đối với thương mại hàng hóa, cam kết có hiệu lực có thể được thể
hiện dưới dạng trần thuế suất. Một quốc gia có thể thay đổi các cam kết có hiệu lực
này, với điều kiện phải đàm phán với các đối tác thương mại khác. Bên cạnh đó, hệ
thống WTO còn cải thiện tính ổn định và dễ tiên liệu thông qua việc không khuyến
khích sử dụng hạn ngạch, yêu cầu làm rõ và công khai các quy định thương mại.
1
Các nước đang phát triển thường được cho phép thực hiện trong một khoảng thời gian dài hơn.
6
Thứ tư, hệ thống WTO thúc đẩy cạnh tranh công bằng. Mặc dù có quan điểm
giảm rào cản thương mại, hệ thống WTO vẫn cho phép tồn tại thuế quan và, trong một
số ít trường hợp khác, các loại hình bảo hộ khác. Như vậy, hệ thống quy định của
WTO hướng tới cạnh tranh mở, công bằng, và không bị bóp méo. Các quy định về
chống bán phá giá và trợ cấp cũng cho phép các chính phủ phản ứng bằng cách áp đặt
thêm thuế quan nhập khẩu nhằm bù đắp những thiệt hại của thương mại không công
bằng. Nhiều hiệp định khác, như trong nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, v.v. cũng
hướng tới cạnh tranh công bằng.
Thứ năm, hệ thống quy định của WTO khuyến khích phát triển và cải cách kinh
tế. Với việc thúc đẩy thương mại theo hướng mở, công bằng, và không bị bóp méo, hệ
thống quy định của WTO đã góp phần giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, qua đó
thúc đẩy phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cần có sự linh hoạt
về thời gian cần thiết để thực thi các hiệp định. Các hiệp định cũng cho phép các hỗ trợ

đặc biệt và miễn trừ thương mại đối với các nước đang phát triển. Kể từ vòng đàm
phán Uruguay, rất nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường đã thực hiện các chương trình tự do hóa thương mại. Vai trò của các nước đang
phát triển trong các vòng đàm phán, đặc biệt là vòng đàm phán Doha, đã lớn hơn rất
nhiều, thể hiện qua tiếng nói chủ động và có ảnh hưởng của các nước này trong quá
trình đàm phán. Cuối vòng Uruguay, các nước đang phát triển lẽ ra phải thực hiện hầu
hết các nghĩa vụ như của các nước phát triển, nhưng các hiệp định đã dành cho họ
những khoảng thời gian nhất định để điều chỉnh theo một số điều khoản của WTO.
Một số hiệp định của WTO có thể điều chỉnh hoạt động của ngành may mặc.
Thứ nhất, Hiệp định Tổng quan về Thuế quan và Thương mại (1994) được ký kết vào
năm 1994 có những quy định chung về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đối với
hoạt động trao đổi hàng hóa, trong đó có hàng dệt may. Theo đó, hàng dệt may xuất
khẩu của thành viên WTO vào một nước thành viên khác sẽ nhận được những đối xử
tốt nhất (chẳng hạn, về thuế nhập khẩu) mà nước thành viên ấy dành cho các thành
viên WTO.
Thứ hai, Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại cũng có thể ảnh
hưởng đến hoạt động của ngành dệt may. Hiệp định này nhằm bảo đảm các quy định,
tiêu chuẩn, thủ tục kiểm định và chứng nhận không tạo ra những trở ngại không cần
thiết đối với thương mại, rõ ràng. Trong những năm gần đây, các quốc gia thành viên
đã áp dụng rất nhiều quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật, với lý do nhằm bảo đảm cho
hàng hóa đủ chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân bản xứ - vốn có
mức sống cao hơn - hoặc nhằm khuyến khích các xã hội hiện đại sử dụng các hàng hóa
thân thiện với môi trường. Tuy vậy, những lý do này thường được sử dụng để bào
7
chữa cho những rào cản kỹ thuật có tác động bóp méo quá mức cần thiết. Bản thân
việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài cũng gây ra những khoản chi phí
không nhỏ cho các nhà sản xuất và xuất khẩu, và làm giảm khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu.
Thứ ba, các quy định về xuất xứ của hàng hóa cũng có thể ảnh hưởng đến khả
năng thâm nhập thị trường của các sản phẩm dệt may. Các quy định này liên quan đến

các tiêu chí được sử dụng nhằm xác định xem sản phẩm được sản xuất ở đâu. Theo
Hiệp định về Quy định xuất xứ, các thành viên WTO phải bảo đảm các quy định xuất
xứ được ban hành và thực thi một cách minh bạch, mà không có tác dụng hạn chế, bóp
méo, hay gián đoạn đối với thương mại quốc tế, và được quản lý một cách thống nhất,
đầy đủ, và hợp lý. Về dài hạn, Hiệp định hướng tới sự hài hòa hóa các quy định về
xuất xứ của các nước thành viên WTO, ngoại trừ các quy định trong một số hiệp định
ưu đãi thương mại (như hiệp định thương mại tự do). Tất cả các quốc gia đều thừa
nhận rằng việc hài hòa hóa các quy định này sẽ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế.
Các quy định về xuất xứ được sử dụng nhằm: thực hiện các biện pháp và công cụ
chính sách thương mại như thuế chống bán phá giá, các biện pháp tự vệ, v.v.; xác định
xem liệu sản phẩm nhập khẩu sẽ nhận được ưu đãi tối huệ quốc hay chỉ là ưu đãi
thương mại; thống kê thương mại; vận dụng các quy định về nhãn mác; và phục vụ cho
mua sắm chính phủ. Tuy vậy, các quy định này cũng có thể được vận dụng thiếu hợp
lý với mục đích bảo hộ. Chính vì vậy, Hiệp định về xuất xứ hàng hóa có thể ảnh hưởng
đến hoạt động của ngành dệt may.
Thứ tư, định giá hải quan cũng là một vấn đề cần được tính đến. Định giá hải
quan là một thủ tục hải quan được thực hiện nhằm xác định giá trị hải quan của hàng
nhập khẩu. Đối với các đơn vị nhập khẩu, quá trình này có ý nghĩa quan trọng như là
mức thuế được áp dụng, vì nếu mức thuế được tính theo tỷ lệ % của giá trị hải quan,
giá trị hải quan cũng ảnh hưởng đến mức thuế phải chịu đối với hàng nhập khẩu. Hiệp
định về định giá hải quan trong khung khổ WTO hướng tới một hệ thống định giá hàng
hóa cho mục đích hải quan được thực hiện một cách công bằng, đồng nhất, và trung
tính. Kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định này đã được thay thế bằng
Hiệp định về thực thi Điều VII của GATT 1994, và chỉ áp dụng đối với quá trình định
giá hàng nhập khẩu để áp dụng mức thuế nhập khẩu theo tỷ lệ %.
2
Theo đó, định giá
hải quan chủ yếu dựa trên giá hàng hóa thực trả - thường được thể hiện trên hóa đơn -
có thực hiện một số điều chỉnh được nêu trong Điều VIII. 6 phương pháp định giá
được sử dụng là: (1) giá trị giao dịch; (2) giá trị giao dịch của hàng hóa giống hệt; (3)

2
Hiệp định này không áp dụng với việc định giá hải quan nhằm xác định thuế xuất khẩu hay quản lý
hạn ngạch dựa trên giá trị hàng hóa, và không áp dụng đối với việc định giá hải quan nhằm áp thuế
trong nước hoặc quản lý ngoại hối.
8
giá trị giao dịch của hàng hóa tương tự; (4) phương pháp trừ (deduction); (5) phương
pháp tính toán (computed method); (6) phương pháp dự phòng (fall back method).
Hiện tại các Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng gia
công là chủ yếu, vì vậy các DN chưa thấy rõ được sự ảnh hưởng của Hiệp định này.
Tuy nhiên các DN đang phấn đấu tăng dần tỷ lệ đơn hàng theo phương thức FOB, do
vậy việc hiểu biết Hiệp định này là một việc cần thiết để các DN chủ động sử dụng
được lợi thế của phương pháp định giá này tăng tính cạnh tranh của sản phẩm may
mặc Việt Nam khi hội nhập thế giới.
Một hiệp định khác có thể ảnh hưởng đến ngành dệt may khi gia nhập WTO là
quy định về việc bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may, sau khi Hiệp định
về Dệt May (ATC) chấm dứt vào cuối năm 2004. Trước đây, trong giai đoạn
1974-1994, theo Hiệp định về thỏa thuận đa sợi (MFA), hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt
may được đàm phán song phương giữa các thành viên WTO, qua đó cho phép nhập
khẩu hàng dệt may không chịu điều chỉnh hoàn toàn của GATT. Trong giai đoạn
1995-2004, Hiệp định ATC được thực hiện với vai trò là một công cụ chuyển đổi, giúp
đưa các sản phẩm dệt may trở lại quy trình tự do hóa theo GATT 1994. Kể từ
01/01/2005, hàng dệt may xuất khẩu từ một nước thành viên WTO sang một nước
thành viên khác sẽ không còn chịu hạn ngạch nữa. Như vậy, với việc gia nhập WTO,
Việt Nam sẽ không còn gặp phải vấn đề hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may nữa.
Điều này giúp Việt Nam có nền tảng cạnh tranh công bằng hơn, ít nhất là về mặt pháp
lý, với các nước sản xuất hàng dệt may khác như Ấn Độ, Băng-la-đét, Trung Quốc,
v.v.
Ngoài ra, hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may cũng chịu điều chỉnh của các
quy định khác trong khung khổ của WTO như xử lý tranh chấp, tự vệ. Nếu cho rằng
một đối tác thành viên khác vi phạm các quy định về thương mại của WTO, các nước

có thể vận dụng cơ chế xử lý tranh chấp ở cấp độ đa phương, thay vì đơn phương thực
hiện các biện pháp đáp trả. Kể từ vòng đàm phán Uruguay, quá trình xử lý tranh chấp
đã được tổ chức tốt hơn, với các bước được quy định rõ ràng. Quy định về thời hạn xử
lý tranh chấp cũng rõ ràng hơn, trong khi thời gian của các bước lại linh hoạt.
3
Mặc dù
vậy, các quốc gia liên quan cũng có thể tự đàm phán và xử lý tranh chấp. Cơ chế tự vệ
cũng cho phép vận dụng những bảo hộ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu. Khi ấy, một
thành viên WTO có thể tạm thời hạn chế nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó nếu
ngành công nghiệp trong nước bị tổn thương hoặc bị đe dọa do nhập khẩu hàng hóa ấy
gia tăng. Tuy nhiên, các biện pháp này ít được sử dụng, vì các chính phủ thường ưu
3
Quá trình xử lý tranh chấp có thể được đẩy nhanh nếu cần thiết.
9
tiên đàm phán song phương nhằm thuyết phục các nước đối tác tự nguyện hạn chế xuất
khẩu.
Ngoài các hiệp định trong khung khổ WTO, các hiệp định thương mại tự do
khác mà Việt Nam tham gia ký kết và thực thi cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động xuất khẩu hàng dệt may. Đáng chú ý, các hiệp định thương mại tự do này chủ
yếu được ký trong khung khổ của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các
hiệp định thương mại này bao gồm Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), và Hiệp định thương mại tự do
ASEAN - Úc - Niu Dilân (AANZFTA). Ngoài ra, Việt Nam còn có Hiệp định đối tác
kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) - có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu dệt
may vào thị trường Nhật Bản.
B.Cam kết thuế quan của một số thị trường chính
Hộp 1: Các sản phẩm dệt may trong Hệ thống phân loại HS
Các sản phẩm dệt may được phân loại theo các chương từ 50 đến 63 trong Hệ thống
phân loại HS:

Chương 50 Tơ tằm
Chương 51 Lông cừu, lông động vật loại mịn hoặc loại thô; sợi từ lông đuôi hoặc bờm
ngựa và vải dệt thoi từ các nguyên liệu trên
Chương 52 Bông
Chương 53 Xơ dệt gốc thực vật khác; sợi giấy và vải dệt thoi từ sợi giấy
Chương 54 Sợi filament nhân tạo
Chương 55 Xơ, sợi staple nhân tạo
Chương 56 Mền xơ, phớt và các sản phẩm không dệt; các loại sợi đặc biệt, sợi xe, sợi
coóc, sợi xoắn thừng, sợi cáp và các sản phẩm của chúng
Chương 57 Thảm và các loại hàng dệt trải sàn khác
Chương 58 Các loại vải dệt thoi đặc biệt; các loại vỉ dệt chân sợi vòng; hàng ren; thảm
trang trí; hàng trang trí; hàng thêu
Chương 59 Các loại vải dệt đã được ngâm tẩm, tráng, phủ hoặc ép lớp, các mặt hàng dệt
thích hợp dùng trong công nghiệp
Chương 60 Các loại hàng dệt kim hoặc móc
Chương 61 Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc
Chương 62 Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim hoặc móc
10
Chương 63 Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện khác; bộ vải; quần áo dệt cũ và các loại hàng
dệt cũ khác; vải vụn.
Bảng 1 trình bày mức thuế suất ưu đãi tối huệ quốc của một số thị trường chính
đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2008. Giai đoạn
2006-2008 được chọn nhằm giúp so sánh mức thuế nhập khẩu ưu đãi tối huệ quốc
trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Bảng 1: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi tối huệ quốc của một số thị trường chính,
2006-2008
Đơn vị tính: %
Chươn
g HS
Cộng đồng châu Âu Nhật Bản Hoa Kỳ

2006 2007 2008 2006 2007 2008 2006 2007 2008
50 4,98 5,18 5,18 6,03 6,95 6,03 0,92 0,92 0,92
51 4,00 4,00 4,00 2,74 2,74 2,74 6,68 6,68 6,68
52 6,42 6,36 6,36 5,84 5,81 5,81 8,56 8,56 8,56
53 2,86 3,33 3,33 3,49 4,21 4,21 1,66 1,99 1,99
54 5,95 5,96 5,96 6,10 6,09 6,09 10,16 10,01 10,01
55 6,49 6,43 6,43 6,71 6,65 6,65 10,99 10,82 10,82
56 6,10 6,10 6,10 3,60 3,60 3,60 4,26 4,26 4,26
57 7,56 7,59 7,59 6,66 6,62 6,62 3,02 3,02 3,02
58 7,29 7,28 7,28 5,88 5,88 5,88 6,96 6,96 6,96
59 6,30 6,30 6,30 3,94 3,94 3,94 3,10 3,10 3,10
60 7,95 7,95 7,95 6,99 6,98 6,98 10,10 10,10 10,10
61 11,62 11,60 11,60 9,18 9,06 9,06 11,58 11,80 11,80
62 11,56 11,56 11,56 9,42 9,43 9,43 10,11 10,11 10,11
63 9,90 9,77 9,77 6,10 6,01 6,01 6,72 6,79 6,79
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu của WTO.
Có thể thấy mức thuế nhập khẩu ưu đãi tối huệ quốc trong khung khổ WTO ở
các thị trường này không thay đổi nhiều. Ở cộng đồng châu Âu (EC) và Nhật Bản,
ngoại trừ nhóm hàng thuộc các Chương 50 và 53, các mặt hàng dệt may hầu như có
thuế suất trung bình không đổi hoặc chỉ thay đổi rất ít. Nhìn chung, ở các thị trường
này, mức thuế suất đối với các nhóm hàng thuộc các Chương 61, 62 và 63 cao hơn so
với ở các nhóm hàng dệt may còn lại.
Trong khi đó, ở thị trường Hoa Kỳ, thuế suất chỉ thay đổi ở một số nhóm hàng
thuộc các Chương 53, 54, và 55. Tương quan thuế suất của Hoa Kỳ đối với các nhóm
hàng dệt may cũng tương tự như ở EC và Nhật Bản, chỉ khác là mức thuế suất với sợi
filamen nhân tạo (Chương 54), và xơ, sợi staple nhân tạo (Chương 55) cũng khá cao.
C.Quyền lợi và nghĩa vụ cam kết của ngành dệt may Việt Nam
Quyền lợi
11
Sau khi gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam sẽ nhận được những đối xử

tương tự như các nước thành viên WTO khác dành cho nhau. Thứ nhất, hàng dệt may
của Việt Nam khi xuất khẩu vào một nước thành viên WTO sẽ nhận được đối xử tối
huệ quốc mà nước thành viên ấy dành cho các thành viên WTO khác.
Thứ hai, khi đã thâm nhập được thị trường một nước thành viên WTO, hàng dệt
may của Việt Nam sẽ không còn bị phân biệt với sản phẩm bản xứ nữa.
Thứ ba, khi gặp tranh chấp thương mại, hàng dệt may của Việt Nam có thể
nhận được bảo vệ từ cơ chế xử lý tranh chấp trong khung khổ WTO.
Thứ tư, trong những trường hợp khó khăn, ngành dệt may Việt Nam có thể nhận
được bảo hộ tạm thời từ cơ chế tự vệ.
Thứ năm, sau khi gia nhập WTO, hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam sẽ
không còn chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào các nước thành viên khác nữa.
4

Thứ sáu, ngành dệt may Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ đầu tư nước
ngoài, đi kèm với trình độ quản lý và kỹ thuật công nghệ mới.
Cuối cùng, việc trở thành thành viên WTO cho thấy những nỗ lực cải cách và
phát triển kinh tế của Việt Nam đã được quốc tế công nhận, và đây là cơ sở để Việt
Nam tham gia đàm phán và thực thi các cam kết tự do hóa thương mại ngày một sâu
rộng hơn.
Như đã trình bày ở trên, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã tham ký kết
các hiệp định khác như VJCEP, AANZFTA, AJCEP. Chính những hiệp định này cho
thấy doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể sẽ nhận được tiếp cận thị trường tốt hơn.
Nghĩa vụ
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải thực hiện các cam kết trong lĩnh vực dệt may.
Thứ nhất, hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn. Trước khi gia nhập WTO,
thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế
nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, tất cả phải giảm xuống 2/3 cho hợp với khung
của thế giới. Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc nước sẽ phải cạnh tranh
với vải Trung Quốc nhập khẩu.
Thứ hai, nguồn lao động chắc chắn sẽ bị chia sẻ, giá lao động sẽ tăng lên, cạnh

tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn. Thứ ba, sẽ có rất nhiều nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, sức ép cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ tăng lên.
4
Từ 2005, trong khung khổ WTO, hạn ngạch đã được bãi bỏ đối với hàng dệt may. EU cũng bãi bỏ
hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam ngay từ thời điểm này.
12
Bảng 2: Thuế nhập khẩu cam kết (trung bình) khi gia nhập WTO
Đơn vị tính: %
Chương HS Trần thuế suất khi gia nhập Trần thuế suất cuối cùng
50 9,77 9,77
51 7,73 7,73
52 9,50 9,50
53 5,66 5,66
54 9,05 9,05
55 8,77 8,77
56 10,32 10,32
57 12,00 12,00
58 12,00 12,00
59 11,15 10,89
60 12,00 12,00
61 19,92 19,92
62 19,80 19,80
63 14,70 14,60
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ biểu thuế nhập khẩu cam kết khi gia nhập WTO.
Bảng 2 thể hiện mức thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với các sản phẩm dệt
may phân loại theo Chương HS. Theo đó, hầu hết các mức trần thuế suất sẽ bắt đầu
giảm ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO, và không bị cắt giảm theo lộ trình thêm
nữa. Điều này được thể hiện qua mức trần thuế suất khi gia nhập và trần thuế suất cuối
cùng là khá giống nhau. Chỉ có 5 dòng thuế vẫn tiếp tục được cắt giảm thêm là

59112000 (từ 10% xuống 8% vào năm 2009), 59119010 (từ 10% xuống 5% vào năm
2010), 59119090 (từ 10% xuống 5% vào năm 2010), 63079010 (từ 15% xuống 10%
vào năm 2009), 63079020 (từ 15% xuống 10% vào năm 2009). Với việc tham gia
WTO, Việt Nam cũng phải cam kết không vận dụng hạn ngạch nhằm hạn chế nhập
khẩu hàng dệt may.
5
Các cam kết giảm thuế đối với hàng dệt may nhập khẩu sẽ làm giảm mức độ
bảo hộ đối với ngành dệt may. Bảng 3 thể hiện ước tính mức độ bảo hộ thực tế - mức
tăng giá trị gia tăng của ngành trong trường hợp có bảo hộ so với trường hợp không có
bảo hộ - của các ngành dệt may. Theo đó, mức độ bảo hộ thực tế của các ngành dệt
may tăng nhẹ trong giai đoạn 2008-2010, trước khi giảm liên tục trong các năm tiếp
theo cho đến 2020. Mức độ bảo hộ thực tế đối với các sản phẩm quần áo được duy trì
5
Đây không phải là vấn đề lớn vì Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch thuế quan với một số ít các mặt
hàng (gần đây nhất là 6 nhóm mặt hàng: trứng gà; trứng vịt; trứng gia cầm loại khác; thuốc lá nguyên
liệu; muối; đường tinh luyện và đường thô; theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BCT ngày 28/12/2007
của Bộ Công Thương).
13
khá ổn định kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối với thảm dệt và các sản phẩm
thêu ren, tỷ lệ bảo hộ thực tế chỉ tăng nhẹ trong giai đoạn 2007-2010, trước khi giảm
xuống trong giai đoạn 2015-2020. Riêng sản phẩm sợi còn không nhận được bảo hộ từ
hàng rào thuế quan, thể hiện qua tỷ lệ bảo hộ nhỏ hơn 0 trong giai đoạn 2007-2020.
Bảng 3: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2015 2020
Dệt may 124,71 34,06 34,74 35,28 35,61 33,31 28,59
Sợi 4,00 -4,97 -4,46 -4,06 -3,81 -3,10 -2,66
Quần áo 135,70 58,02 58,44 57,72 57,48 58,26 57,83
Thảm dệt 56,00 25,02 25,22 25,38 25,47 19,81 20,32
Sản phẩm thêu ren (ngoại trừ thảm) 62,33 17,44 17,69 17,90 18,05 16,03 16,31
Nguồn: Phạm Văn Hà (2007).

Hộp 2: Tác động của thuế nhập khẩu và hàm ý từ tự do hóa thương mại
Thuế nhập khẩu khiến các sản phẩm dệt may từ nhập khẩu sẽ được bán trong
nước với giá cao hơn. Do đó, các sản phẩm dệt may tương tự trong nước cũng sẽ có giá
bán cao hơn, và các doanh nghiệp trong nước được nhiều giá trị gia tăng hơn. Tính
toán trong Bảng 3 cho thấy hầu hết các sản phẩm dệt may (trừ sợi) đều có nhiều giá trị
gia tăng hơn trong trường hợp có thuế nhập khẩu. Nói cách khác, giảm dần mức thuế
nhập khẩu sẽ làm giảm giá trị gia tăng của các doanh nghiệp trong ngành nếu các
doanh nghiệp này không nâng cao khả năng cạnh tranh và hàm lượng giá trị gia tăng
(thông qua việc thực hiện các công đoạn khác trong chuỗi giá trị như marketing, thiết
kế mẫu mã, v.v.).
Như đã trình bày ở trên, việc Việt Nam tham gia một loạt các FTA - chủ yếu ở
cấp đa phương trong khung khổ của ASEAN - cũng có những ảnh hưởng đến ngành
dệt may. Trong các hiệp định này, những cam kết của Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp
nhất đến ngành dệt may là cam kết thuế quan.
Theo Quyết định số 36/2008/QĐ-BTC ngày 12/06/2008 về việc ban hành biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi theo Hiệp định về chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (CEPT) trong giai đoạn 2008-2013, các mức thuế suất mà Việt Nam dành cho
hàng dệt may nhập khẩu từ các nước ASEAN chỉ là 0 hoặc 5%. Đây sẽ là thách thức
đối với hàng dệt may sản xuất trong nước, vì mức thuế thấp sẽ làm hàng dệt may nhập
khẩu từ các nước ASEAN rẻ hơn. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ các hiệp định FTA trong
khung khổ ASEAN (như AKFTA, AJCEP), mức thuế thấp này lại có lợi cho các doanh
nghiệp may mặc vì họ có thể nhập nguyên phụ liệu từ các nước ASEAN và tận dụng
quy định về xuất xứ gộp trong các hiệp định này.
14
Trong khi đó, mức thuế suất ưu đãi theo Hiệp định thương mại tự do ASEAN -
Hàn Quốc mà Việt Nam mới ban hành cho giai đoạn 2009-2011 chủ yếu ở các mức
3%, 5%, 8% và 12% (phổ biến) cho nhóm sản phẩm dệt và chủ yếu ở mức 20% cho
nhóm sản phẩm may mặc (theo Quyết định số 112/2008/QĐ-BTC ngày 01/12/2008).
Có thể nói Việt Nam đã có nhiều cam kết khác nhau trong khung khổ của WTO
và các FTA ở cấp khu vực thể hiện nỗ lực tự do hóa thương mại, và là tín hiệu tốt cho

nền kinh tế nói chung. Đáng chú ý là các biểu thuế cam kết đã được ban hành với lộ
trình khá minh bạch. Tuy nhiên, các cam kết này nằm trong các khung khổ khác nhau,
và có các quy định riêng khác nhau. Mức độ ảnh hưởng của các cam kết cụ thể còn
phụ thuộc xem doanh nghiệp định hướng thâm nhập thị trường nào.
Xuất khẩu hàng dệt may: Hiện trạng và triển vọng
D.Xuất khẩu hàng dệt may và vai trò trong thời gian qua, đặc biệt từ khi
gia nhập WTO
Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong những năm vừa
qua. Xuất khẩu hàng dệt may cũng đạt được những kết quả tăng trưởng khá ấn tượng.
Tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đã tăng liên tục từ mức 1,15 tỷ USD vào năm
1996 lên gần 2 tỷ USD vào năm 2001 và xấp xỉ 7,8 tỷ USD vào năm 2007 và khoảng
9,1 tỷ USD vào năm 2008 (Bảng 4). Trong 10 tháng đầu năm 2009, dưới tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành dệt may cũng đạt giá
trị xuất khẩu gần 7,5 tỷ USD, chỉ giảm khoảng 1,5% so với cùng kỳ năm 2008. Đáng
chú ý, giá trị xuất khẩu đã tăng khá nhanh kể từ năm 2002 đến nay, với mức tăng trung
bình trong giai đoạn 2002-2008 khoảng 22%/năm.
Theo thị trường, Hoa Kỳ có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt là kể
từ năm 2002 trở lại đây khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
có hiệu lực. Chỉ riêng trong năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
Hoa Kỳ đã tăng hơn 21 lần lên hơn 950 triệu USD, so với mức 45 triệu USD của năm
2001. Kể từ năm 2002 đến nay, xuất khẩu của hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ
cũng luôn tăng trưởng nhanh, đạt mức gần 2 tỷ USD vào năm 2003, và 3,8 tỷ USD vào
năm 2007.
Tỷ trọng của thị trường Hoa Kỳ trong tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam cũng tăng tương ứng, từ mức xấp xỉ 34,6% vào năm 2002 lên gần 50,7% vào
năm 2007. Các thị trường chủ yếu khác của hàng dệt may Việt Nam là EU và Nhật
Bản. Thị trường EU có mức tăng khá ổn định, từ mức 225 triệu USD vào năm 1996 lên
15
1,5 tỷ USD vào năm 2007. Trong khi đó, xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản có
diễn biến phức tạp hơn, mặc dù vẫn thể hiện xu hướng tăng: giá trị xuất khẩu tăng từ

gần 250 triệu USD lên 620 triệu USD vào năm 2000, sau đó giảm liên tục xuống còn
514 triệu USD vào năm 2003 trước khi tăng liên tục lên 800 triệu USD vào năm 2007.
Chỉ riêng ba thị trường này đã chiếm hơn 81% giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam, mặc dù đã giảm so với mức đỉnh điểm gần 85,9% vào năm 2004.
Mở rộng tiếp cận thị trường xuất khẩu của ngành dệt may cũng góp phần tạo
điều kiện cho ngành dệt may không ngừng lớn mạnh. Trong giai đoạn 2000-2006,
ngành dệt may Việt Nam đã tạo thêm việc làm cho khoảng 600.000 lao động.
6
Tính
theo giá so sánh (năm 1994), trong giai đoạn 2000-2008, giá trị sản xuất của ngành dệt
đã tăng gần 2,7 lần, từ gần 10.040 tỷ đồng lên hơn 26.950 tỷ đồng. Ngành may mặc
thậm chí còn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, từ mức 6.040 tỷ đồng lên gần
26.620 tỷ đồng (cũng theo giá so sánh năm 1994) trong cùng giai đoạn.
Tuy nhiên, nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc chủ yếu là từ nguồn
nhập khẩu. Trong khi đó, ngành dệt hầu như chưa đáp ứng được đủ yêu cầu (cả về số
lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên kết giữa ngành dệt và
ngành may mặc còn chưa thật sự chặt chẽ.
7
Ngành dệt còn mang hơi hướng thay thế
nhập khẩu, nhưng lại chưa đạt hiệu quả sản xuất và quy mô sản xuất cần thiết. Trong
khi đó, ngành may mặc có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng lại phải dựa vào
nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Giá trị xuất khẩu hàng dệt may trong giai đoạn 2000-2003 thậm chí còn thấp
hơn giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu, và chỉ đạt giá trị dương trong những năm gần
đây (Bảng 4). Điều này là do ngành may mặc còn phải phục vụ cả nhu cầu trong nước
và nhu cầu xuất khẩu, nên phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu hơn. Mặc dù vậy,
điều này lại ảnh hưởng đến việc cân đối ngoại tệ trong bản thân ngành dệt may.
Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008
Đơn vị tính: Triệu USD
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Nhập khẩu
Bông 90,4 115,4 111,6 105,4 190,2 167,21 219,0 268 468
Sợi 237,3 228,4 272,6 317,5 338,8 339,59 544,6 744 788
Vải các loại 761,3 880,2 1.523,1 1.805,4 1.926,7 2.398,96 2.984,0 3.980 4.454
Nguyên phụ liệu máy
móc, phụ tùng
1.194,7 1.397,9 1.513,4 1.825,9 1.724,3 1774,2 1.952,0 2.152 2.376
Cộng nhập (chưa kể 2.283,7 2.621,9 3.420,7 4.054,2 4.180,0 4.679,96 5.699,6 7.144 8.086
6
Tham khảo thêm Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may của Hiệp hội Dệt may
Việt Nam.
7
Tham khảo thêm nghiên cứu của Võ Trí Thành, Trịnh Quang Long, và Đinh Hiền Minh (2004).
16
hóa chất thuốc
nhuộm)
Kim ngạch xuất khẩu 1.891,9 1.975,4 2.732,0 3.609,1 4.385,6 4.838,4 5.834,0 7.794 9.082
Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm đáng kể
nhu cầu đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều biện pháp
điều chỉnh, nhưng việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD trong năm 2009 của
các doanh nghiệp dệt may dường như là rất khó khăn.
Tại thị trường Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất với tỷ trọng trên 55% trong giá trị
xuất khẩu dệt may - các doanh nghiệp đã nỗ lực phối hợp với các nhà nhập khẩu trong
việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý trên cơ sở vẫn giữ vững chất lượng sản phẩm và
dịch vụ. Nhờ đó trong năm 2008, hàng dệt may Việt Nam đạt kim ngạch vào Hoa Kỳ
trên 5,1 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007. Trong 9 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu
hàng dệt may của Hoa Kỳ giảm đến 12,7% và hàng nhập từ hầu hết các nước sản xuất
chính đều giảm (từ Hồng Kông giảm 21%, từ In-đô-nê-xi-a giảm 2,9%, từ Thái Lan
giảm 25,6%, từ Ấn Độ giảm 7,7%). Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam xuất vào thị

trường này vẫn tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về giá trị.
Tại thị trường châu Âu - chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu dệt may, các
doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu
cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Nhờ đó, giá trị xuất
khẩu 9 tháng đầu năm 2009 đạt xấp xỉ 1,25 tỷ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều kiện
nhập khẩu chung vào thị trường này giảm hơn 11% so với cùng kỳ năm trước.
Tại thị trường Nhật Bản - thị trường lớn thứ ba của ngành dệt may Việt Nam,
thông qua VJEPA, các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư,
thương mại với đối tác Nhật Bản. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này
không ngừng tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %).
Đây là kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm
nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực để xúc tiến các thị trường mới.
Trong 9 tháng đầu năm 2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đã tăng
50%, vào Ảrập Xeut tăng 23%, vào Thụy Sĩ tăng 12,7%, vào các nước ASEAN tăng
7,8%, v.v.
Tại thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đã tập trung đổi mới toàn diện chiến
lược phục vụ cho người tiêu dùng. Các biện pháp đã và đang được thực hiện bao gồm
đầu tư mạnh hơn vào nghiên cứu thị trường, thị hiếu, tăng cường công tác thiết kế thời
trang và sản phẩm mới, tổ chức dây chuyền sản xuất chuyên biệt phù hợp, đẩy mạnh
17

×