Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐẶNG THÁI BÌNH

KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 92 29 001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS.Trần Phúc Thăng

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Luận án này được GS.TS. Trần Phúc Thăng hướng dẫn. Các số liệu,
kết quả sử dụng trong luận án là trung thực. Các kết luận của luận án
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Đặng Thái Bình



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Trần Phúc Thăng đã tận tâm, tận lực
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận án; cảm ơn các nhà khoa học cùng thầy
cô giáo Khoa Triết học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tham gia đóng
góp ý kiến giúp cho luận án của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới Ban Quản lý đào tạo sau Đại học cùng các phòng ban đã tạo điều kiện giúp
tôi hoàn thiện giấy tờ thủ tục trong suốt 3 năm qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Đặng Thái Bình


CHỮ VIẾT TẮT
NCS
ĐCSVN
SL
CNXH
XHCN

: Nghiên cứu sinh
: Đảng Cộng sản Việt Nam
: Sắc lệnh
: Chủ nghĩa xã hội
: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ............................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ............................................................ 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ............................................... 3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ...................................................................... 3
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ..................................................................... 4
7. Kết cấu luận án ............................................................................................................ 4
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN ........................................... 5
1.1. Những công trình liên quan đến vấn đề lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa và
tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay ......... 5
1.1.1. Lý luận về đạo đức ............................................................................................ 5
1.1.2. Lý luận về tha hóa ............................................................................................. 9
1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng và nguyên nhân việc khắc phục
tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................................. 14
1.3. Những công trình liên quan đến quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả việc
khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam........................................................................................................................ 16
1.4. Những vấn đề đặt ra trong tổng quan tình hình nghiên cứu luận án ...................... 21
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ ..................................................................................................................... 22
1.1. Quan niệm tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở Việt Nam hiện nay .................................................................................................... 22
1.1.1. Một số điểm đặc thù của đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước
ta hiện nay ................................................................................................................. 22
1.1.2. Những biểu hiện tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 33



1.2. Vấn đề khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý.................................................................................................................... 48
1.2.1. Khái niệm khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán
bộ lãnh đạo, quản lý .................................................................................................. 48
1.2.2. Chủ thể, phương thức khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của cán bộ
lãnh đạo, quản lý ....................................................................................................... 49
1.2.3. Những nhân tố tác động đến việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức
của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay. ............................ 54
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 61
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA
VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................................................. 62
2.1. Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam hiện nay đã đến mức báo động, yêu cầu cấp thiết cần phải khắc phục. .... 62
2.1.1. Tình trạng tha hóa về đạo đức của bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế- xã hội hiện nay ........................ 62
2.1.2. Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của nhân dân, Đảng, Nhà nước ............................... 69
2.2. Những thành tựu và hạn chế của việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo
đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay ........................ 72
2.2.1. Thành tựu của việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân ...................... 72
2.2.2. Một số hạn chế trong việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân .......... 83
2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức
của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay ........................... 98
2.3.1. Yêu cầu nhận thức rõ tính cấp thiết của việc khắc phục tình trạng tha hóa
về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cùng với việc thực hiện
những yêu cầu này một cách kiên quyết vẫn còn nhiều hạn chế, ............................. 98
2.3.2. Yêu cầu xử lý nghiêm minh cán bộ lãnh đạo, quản lý tha hóa về đạo đức

với hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. ................................................................... 99


Tiểu kết chương ............................................................................................................ 2
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ VIỆC KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................................. 104
3.1. Quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về
đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ............................................... 104
3.1.1. Việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay là một là cuộc chiến đầy gian nan và thử thách........ 104
3.1.2. Khắc phục tình trạng tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, từ hình thức giáo dục phê
bình, tố giác đến xử lý hình sự ................................................................................ 106
3.1.3. Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở cán bộ lãnh đạo. quản lý cần
sử dụng, huy động tổng hợp các lực lượng của toàn hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng ................................................................................................... 111
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về
đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay ............................................................................................................. 113
3.2.1. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng, đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý............................................................................. 113
3.2.2. Kiện toàn hệ thống pháp luật, nâng cao vai trò quản lý của nhà nước ......... 122
3.2.3. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, lãng phí trong toàn
xã hội xem đó là mục tiêu trọng yếu ở nước ta hiện nay ........................................ 134
3.2.4. Khắc phục hiện tượng lạm quyền, lộng quyền và tình trạng tha hóa về đạo
đức trong công tác cán bộ ....................................................................................... 135
3.2.5. Đẩy mạnh dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, phát huy vai trò của
các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân ............................................. 139

3.2.6. Nâng cao hiệu quả vấn đề tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của mỗi cán
bộ lãnh đạo, quản lý ................................................................................................ 143
Tiểu kết chương 3 ........................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ............................................................ 149


LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 150


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 88 năm, từ khi Đảng ra đời cho đến nay chưa có thời kỳ nào lại đề cập
nhiều đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý như giai đoạn hiện nay. Tình trạng này lan rộng ở các
cấp, các ngành, các lĩnh vực. Thực chất, đây là tình trạng tha hóa về đạo đức của
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đề cập đến vấn đề này Đảng liên tục đưa ra
các chỉ thị, nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng này, cụ thể là: Nghị quyết Trung
ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp
tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ
tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tiếp theo
là Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) với nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và
4 nhóm giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đưa ra 27

biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của cán bộ, Đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các Nghị
quyết trên đều đã đi vào cuộc sống và có tác dụng không nhỏ.
Tuy nhiên, việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức cán bộ vẫn còn tồn
tại những hạn chế nhất định. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” thẳng thắn đánh giá về công tác khắc phục tình
trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ chưa đạt yêu cầu như mong muốn.
“Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu
kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài nhiều nhiệm kỳ chậm được
khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ...
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo


2

đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”[34, tr. 21-22]; việc khắc
phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa
đạt kết quả như mong đợi. “Tình trạng suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn
diễn biến phức tạp hơn” [37, tr. 44], thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm,
yếu kém phải sửa chữa cấp bách nhưng vẫn chưa được khắc phục, có mặt còn gây
băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nếu
không được khắc phục sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, có thể làm suy yếu Đảng, suy yếu
chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân, thậm chí có thể liên quan đến sự tồn
vong của đất nước.

Nhận thấy vấn đề khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận
cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề cấp bách cần phải quyết liệt thực hiện, tôi chọn
vấn đề “Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa đạo đức và thực trạng việc
khắc phục tình trạng này, luận án luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng
tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, khái quát về thực trạng, nguyên nhân của thực trạng khắc phục tình.
trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và nêu một số vấn đề đặt ra từ thực trạng này.
Thứ ba, luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu


3

quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức
của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc

biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về đạo
đức con người, đạo đức cán bộ, về xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, luận án có tham khảo các kết quả của những công trình nghiên cứu đã
được công bố có liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp “duy vật biện chứng” và phương pháp duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lênin.
Luận án cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể, trong đó chủ yếu là
phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ quan niệm tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng tha
hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam.
- Góp phần làm rõ yêu cầu cấp thiết của việc khắc phục tình trạng tha hóa về
đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đồng thời chỉ ra thực trạng,
nguyên nhân của thực trạng việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một
bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.


4

- Luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của tình trạng tha hóa

đạo đức và quan niệm khắc phục tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ ở Việt
Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng và vấn đề chống tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn hiện nay và
cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn: Triết học; Đạo đức học và các môn liên quan
đến giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong các trường Chính trị, học viện, trường
Đại học và các trường Cao đẳng.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


5

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình khoa học nghiên cứu
tình trạng tha hóa cả về lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu đặc biệt tập
trung vào vấn đề tha hóa đạo đức. Cụ thể:
1.1. Những công trình liên quan đến vấn đề lý luận về khắc phục tình trạng tha
hóa và tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay
1.1.1. Lý luận về đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Từ
xưa đến nay, có nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng bàn về đạo đức. Ở mỗi thời kỳ lịch
sử, mỗi dân tộc khác nhau người ta có những quan niệm về đạo đức khác nhau. Ở
nước ta, vấn đề đạo đức luôn được coi trọng. Đặc biệt từ khi bước vào thời kỳ phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lý luận về đạo đức càng
được đề cập nhiều hơn. Đi sâu về vấn đề này có một số công trình nghiên cứu sau:
Bàn về giá trị đạo đức ở Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, tác giả Phạm Văn Đức (2002) có bài viết: “Mối quan hệ giữa lợi

ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
Tác giả đánh giá thành tựu của 15 năm đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những
thành công về mặt kinh tế là sự xuống cấp về đạo đức. Điều đó có liên quan đến mặt
trái của cơ chế thị trường. Theo tác giả, mặt trái của cơ chế thị trường tác động
tiêu cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đạo đức.
Tác giả chỉ ra hai khuynh hướng với hai quan niệm khác nhau về đạo đức:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: nguyên nhân dẫn đến “sự xuống cấp về đạo đức
xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động, rằng lợi
ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp với nhau”
[40]. Phê phán quan niệm này, tác giả khẳng định: “Vì, sự sống còn của bản thân
mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân những nhu cầu
chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chung giữa họ. Song, ngoài những lợi ích
chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh trên cơ sở của các nhu
cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể” [40]. Điều này cho thấy
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng có sự thống nhất với nhau, từ đó dẫn đến xem xét
đạo đức cũng dựa trên mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để
phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tốt cho nhân cách phát triển trong điều
kiện hiện nay”[40]. Điều này cũng chỉ đúng ở khía cạnh nhất định. Tuy nhiên,
chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh, từ chỗ cạnh tranh đánh vào
lợi ích của con người mà lợi ích của con người cũng có hai mặt, lợi ích chính đáng
và lợi ích không chính đáng. Khi nào con người biết điều chỉnh hài hòa giữa lợi


6

ích cá nhân với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ điều chỉnh được lợi ích chính
đáng. Khi điều chỉnh được lợi ích chính đáng thì “không những tạo ra những sản
phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân,
mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội” và “đến lượt nó, sự

giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh ở con người những tấm lòng hào
phóng, từ thiện, sự thân ái, lòng vị tha” [40], khi ấy hành vi đạo đức của con người
được xã hội đồng tình. Ngược lại khi con người tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân thì
con người dễ bị tha hóa về đạo đức và khi ấy xã hội sẽ lên án.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, tác giả chỉ
ra mặt trái của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay có tác động tiêu cực tới đạo
đức truyền thống:
Một là, xem nhẹ đạo đức truyền thống, không đề cao đạo lý, chạy theo lối sống
gấp, sống vội và sa vào lối sống trụy lạc.
Hai là, sự phản ứng của xã hội đối với các hành vi vô đạo đức, phi đạo đức
cũng giảm đi; sự lên án những thói hư, tật xấu và những hành vi vô đạo đức, phi
đạo đức không được đề cao. Tình trạng số người có quan điểm thờ ơ với những tệ
nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Ba là, thói đạo đức giả ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Tất cả những biểu hiện trên là do lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi cá
nhân, coi thường lợi ích cộng đồng. Có thể nói vấn đề tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân
trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hóa về đạo đức.
Muốn điều chỉnh vấn đề này thì phải xem xét về mặt lợi ích, lợi ích đó có phù hợp
với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời, không nên phán xét một cách
tầm thường, sự xuống cấp về đạo đức bắt nguồn từ khuyến khích lợi ích cá nhân.
Tác giả Lê Duy Chương (2007) “Thấm nhuần tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư của Hồ Chí Minh” [13]. Bài viết đã lý giải sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh về cốt lõi của đạo đức cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Tác giả bài viết chỉ ra: Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm
lược đã sản sinh ra những cán bộ, đảng viên không tiếc tuổi xuân, dũng cảm, tiên
phong trong cuộc đấu tranh một mất, một còn vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. “Nhiều người trong số họ đã không được hưởng niềm vui của ngày độc lập,
thống nhất đất nước”[13], nhưng họ xứng đáng là những tấm gương tiêu biểu nhất
về sự “chí công, vô tư”, đặt lợi ích tối cao của đất nước lên trên lợi ích cá nhân. Tuy
nhiên, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn không ít cán bộ, lãnh đạo, quản lý suy thoái

về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; thiếu tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ
được giao; không chịu học tập, lười rèn luyện, không dám đương đầu với khó khăn,
gian khổ; quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”Chính họ là một lực cản của tiến bộ xã
hội; là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm


7

hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm vẩn đục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, điều mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang dày công vun đắp”[13].
Những tệ nạn này đã gây bức xúc cho toàn xã hội.
Từ phân tích thực trạng, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Theo tác giả, người cán bộ muốn tu
dưỡng được đạo đức cách mạng thì cần phải thực hiện những quan điểm sau:
Thứ nhất, mọi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sâu sắc hơn nữa .
Thứ hai, muốn việc giáo dục đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư” tốt hơn thì phải khôi phục và đẩy mạnh phong trào thi đua “Người tốt,
việc tốt”, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức trong cán bộ, đảng
viên.
Thứ ba, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng là phải kết hợp chặt chẽ
giữa “xây và chống”. “Xây dựng ý thức và thói quen hành vi đạo đức cho cán bộ,
đảng viên không đơn thuần chỉ là quá trình tuyên truyền, giáo dục về các giá trị,
chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn là quá trình đấu tranh, khắc phục, loại bỏ
dần thói hư, tật xấu của con người” [13].
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận: mỗi cán bộ, đảng viên, cho
đến người dân, ai cũng phải có ý thức tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Việc tu
dưỡng đạo đức cách mạng là việc làm thường xuyên, suốt đời. Trên cơ sở bài viết,
tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu
sắc, đặc biệt tác giả bài viết chỉ ra không nhất thiết khó khăn, gian khổ mà con

người bị tha hóa về đạo đức và thậm chí ngược lại họ còn hy sinh vì nhau, hy sinh
cho nhau. Tuy nhiên giai đọan hiện nay điều kiện kinh tế tốt hơn con người dễ nảy
sinh tình trạng tha hóa về đạo đức. Rõ ràng việc giáo dục đạo đức có vấn đề, chính
điều này tác giả luận án kế thừa trong phần giải pháp của mình.
Cùng chủ đề này, tác giả Đoàn Quốc Thái (2010) có bài viết “Bàn thêm về
khái niệm “giá trị đạo đức”[132]. Trong bài viết này, tác giả đã khái quát những
quan điểm về đạo đức trong lịch sử triết học và những quan điểm của các nhà khoa
học về đạo đức và giá trị đạo đức; tác giả đi sâu vào phân tích, làm rõ khái niệm
“đạo đức”, khái niệm “giá trị đạo đức”. Từ những phân tích trên, tác giả xác định
những chuẩn mực giá trị đạo đức phải căn cứ vào không gian và thời gian của nó,
nghĩa là giá trị đạo đức có tính lịch sử. Tác giả cũng chỉ ra tính chất chung, tính đặc
thù, tính đơn nhất của đạo đức. Ngoài ra tác giả còn cho thấy tính tương đối ổn định
của chuẩn mực, giá trị đạo đức ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở mỗi một thời
đại khác nhau, người ta đưa ra những chuẩn mực đạo đức khác nhau, giá trị của nó
cũng khác nhau. Không chỉ khác nhau về thời gian mà chuẩn mực giá trị đạo đức
cũng khác nhau về không gian. Ở mỗi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có những quy
định đặc thù về chuẩn mực giá trị của đạo đức. Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn


8

cho thấy: ở mỗi mối liên hệ xã hội khác nhau thì chuẩn mực giá trị đạo đức cũng
khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau.
Từ những quan điểm trên tác giả khẳng định: “giá trị đạo đức là sự bộc lộ thái
độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã hội về lợi ích”[132] và “giá trị đạo đức gắn
với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho hành động của con
người”[132]. Theo tác giả: “giá trị đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác,
tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và các chuẩn mực, quy tắc
ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích cực của những
quan niệm, chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và đời sống xã

hội”[132]. Trên cơ cơ bài viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết rất sâu sắc,
đặc biệt việc phân tích giá trị đạo đức có tính lịch sử và sự phân biệt giá trị đạo đức ở
thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, đây cũng là cơ sở tác giả luận án kế thừa để
triển khai phần lý luận của mình.
Viết về lĩnh vực đạo đức, tác giả Mai Xuân Hợi (2014) có bài: “Giá trị đạo
đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” [55]. Trong bài viết, tác giả bàn
về đạo đức và giá trị của nó trong đời sống xã hội ở những phương diện sau:.
Thứ nhất, tác giả bàn về giá trị đạo đức: theo tác giả, giá trị đạo đức là cái mà
do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể,
được mọi người thừa nhận. Từ khái niệm tác giả chỉ ra “lợi ích xã hội là tiêu chuẩn
khách quan của các giá trị đạo đức” [55]. Giá trị đạo đức được xác định bởi “lương
tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [55].
Như vậy, để xác định hành vi có đạo đức phải dựa vào niềm tin cá nhân và dư
luận xã hội đồng tình. ủng hộ. Để chứng minh cho vấn đề này tác giả trích câu của
Ăngghen: "trong một xã hội mà mọi động cơ đẩy tới trộm cắp đều bị loại trừ, do
đó dần dần hầu như chỉ có những người mắc bệnh tinh thần mới phạm tội trộm
cắp, thì một nhà truyền bá đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên bố cái chân lý
vĩnh cửu: không được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười"[55]
Thứ hai, bàn về tính chất của đạo đức: theo tác giả đạo đức vừa có tính chất riêng
vừa có tính chất chung, tùy vào mối quan hệ để xác định tính chất của đạo đức.
Thứ ba, bàn về chức năng của đạo đức.Tác giả chỉ ra ba chức năng bao gồm:
chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, ba chức
năng này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau tạo thành chỉnh thể
của đạo đức của xã hội nhất định.
Từ ba phương diện tiếp cận tác giả đi đến kết luận: “giá trị đạo đức được hình
thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp
nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội”[55]. Như
vậy, vấn đề giáo dục và sự tiếp nhận vấn đề giáo dục là một trong những cơ sở
quan trọng hình thành giá trị đạo đức. Tiếp thu quan điểm nói trên tác giả luận án



9

kế thừa để bổ sung vào phần lý luận, thực trạng và giải pháp trong luận án của
mình.
Ngô Thành Can (2017): “Đạo đức công chức trong thực thi nhiệm vụ” Nhà
xuất bản Tư pháp
Đề tài đi sâu vào phân tích đạo đức công chức, đặc biệt làm rõ một số quan
điểm sau:
Thứ nhất, những khái niệm liên quan đến đạo đức công chức và chỉ ra tính tất
yếu của việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay
Thứ hai, đạo đức công chức trong thi hành công vụ, đặc biệt đề tài khảo sát
đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Thứ ba, chỉ ra những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam, trên cơ sở đó đề tài đề xuất một số giải pháp có tính khả thi trong việc
xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đây là một đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng được những
vấn đề cấp thiết khi một bộ phận công chức đang có những biểu hiện tha hóa về đạo
đức. Từ đề tài này, tác giả luận án nhận thấy cán bộ lãnh đạo, quản lý thường là
công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Thực hiện đạo đức người cán bộ lãnh
đạo, quản lý cũng có nghĩa là thực hiện đạo đức công chức. Trên cơ sở kế thừa tác
giả luận án bổ sung vào phần giải pháp và đưa ra quan điểm: cần phải có luật về
thực hiện đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tóm lại, tất cả các tác phẩm nói trên là những công trình nghiên cứu công phu
của các tác giả. Tuy tiếp cận đạo đức ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng các tác giả
đều tập trung vào xây dựng đạo đức cán bộ, công chức nhằm hoàn thiện đạo đức
cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập đến
việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản

lý ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là mảnh đất mà tác giả luận án tiếp tục khai thác.
1.1.2. Lý luận về tha hóa
Phạm trù “tha hóa” được hình thành từ rất sớm trong lịch sử triết học cận đại.
Tuy nhiên, phạm trù “tha hóa” được trình bày một cách hệ thống bắt đầu từ triết học
Đức cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, tha hóa đã trở thành một phạm trù nổi bật
nhất, trung tâm nhất và được các nhà triết học nổi tiếng như Hêghen và Phoiơbắc,
sau này là Mác sử dụng. Có một số công trình đã nghiên cứu về vấn đề này:
Tác giả Vũ Quang Tạo (2008) có bài viết: “C. Mác và sự nghiệp giải phóng
con người trong thời đại ngày nay” [131].
Tác giả đi sâu vào phân tích quan điểm của Mác về lao động bị tha hóa trong
“Bản thảo kinh tế- triết học 1844” đồng thời chỉ ra những biến đổi của chủ nghĩa tư
bản hiện nay, tác giả khẳng định, sự biến đổi đó vẫn không xóa bỏ được tình trạng


10

tha hóa như Mác đã từng đề cập trong “Bản thảo kinh tế- triết học 1844”. Theo tác
giả sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản diễn ra do mâu thuẫn gay gắt giữa nhà tư bản
và người công nhân, trong quá trình mâu thuẫn ấy, chủ nghĩa tư bản bắt buộc phải
tìm cách giải quyết, cách thức giải quyết ấy diễn ra như sau:
Thứ nhất, những thay đổi và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản vẫn không làm
thay đổi bản chất của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự thay đổi đó,
chẳng qua chỉ là những biện pháp xả van an toàn, tháo ngòi nổ của những mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa giai cấp tư sản và toàn thể nhân dân
lao động vốn đang tồn tại trong xã hội tư bản hiện đại. Theo tác giả chủ nghĩa tư
bản xoa dịu đấu tranh của người công nhân “bằng cách bán những cổ phần nhỏ nhoi
cho người công nhân, làm cho họ lầm tưởng như được dự phần ăn chia lợi nhuận,
tham gia vào tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư bản, nhưng trong thực tế, các biện
pháp này không giúp những người công nhân và đa số cổ đông bé nhỏ có đủ tiếng
nói quyết định trong các công ty tư bản, càng không đủ sức thay đổi sở hữu tư bản

chủ nghĩa”[131]. Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản, mặc dù đã có điều chỉnh nhưng
vẫn không xoa dịu được mâu thuẫn vốn có của nó.
Thứ hai, tác giả chỉ ra rằng: những tiến bộ của khoa học, công nghệ hiện đại
không thể giúp con người nói chung, giai cấp công nhân nói riêng bớt đau khổ và
thoát khỏi tình trạng tha hóa.
Thứ ba, tác giả cho thấy sự khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản diễn ra
ngày càng thường xuyên và không kém phần trầm trọng, tốc độ tha hóa con người
ngày càng tăng, thói ích kỷ, vụ lợi, tính cách lạnh lùng, tàn nhẫn và chủ nghĩa cá
nhân cực đoan trong mọi tầng lớp xã hội ngày càng trở nên phổ biến, khiến đa
số công nhân lâm vào cảnh khốn khổ, bần cùng hóa, sự phản kháng của người công
nhân trong xã hội tư bản ngày càng diễn ra mạnh mẽ, từ đó dẫn tới các cuộc chiến
tranh giữa người và người trong xã hội tư bản ngày một trở nên tàn khốc hơn.
Thứ tư, trong phạm vi toàn cầu, chủ nghĩa tư bản vẫn lộ nguyên hình là thủ
phạm gây chiến tranh giết hại con người, nhân tố cơ bản gây ô nhiễm môi trường
sống, giam hãm hàng tỉ con người trong cảnh nghèo đói, khốn khổ.
Thực tế ngày nay ở những điểm nóng trên thế gới, những mâu thuẫn tôn giáo,
dân tộc, nhưng cuộc chiến tranh cục bộ, chiến tranh ủy nhiệm đều có bàn tay của
chủ nghĩa tư bản. Vấn đề Liên Xô và Đông Âu sụp đổ cũng có bàn tay trực tiếp
hoặc gián tiếp của CNTB. Mặc dù CNTB còn mạnh nhưng không làm suy giảm vai
trò của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với tư cách một chế độ xã hội giải
phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Từ những phân tích trên, tác giả chỉ ra những vấn đề cơ bản để giải phóng con
người trong giai đoạn hiện nay. Theo tác giả muốn giải phóng con người thì phải
thực hiện những vấn đề sau:
Một là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu là giải phóng những người


11

công nhân khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời

sống đích thực thay vì một”[131] “đời sống bị tha hóa”.
Hai là, “xóa bỏ chế độ tư hữu là hình thức chính trị giải phóng công nhân”
[131]. Vì vậy, “giải phóng công nhân, không chỉ là sự giải phóng của họ, mà còn
bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người”[131].
Ba là, theo tác giả, “chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự
chiếm hữu cá nhân của người công nhân đối với những sản phẩm lao động của anh
ta, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực
chi phối lao động của người khác, cũng không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm
hữu những sản phẩm xã hội”[131].
Bốn là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định
sinh hoạt của con người, là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi tha hóa, con người từ
tôn giáo, gia đình, nhà nước quay trở về tồn tại con người, tồn tại xã hội của mình”
[131]. “Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, xây dựng thành công chủ nghĩa
cộng sản, hoàn thành sự nghiệp giải phóng con người, khắc phục tình trạng tha hóa
lao động phải cần thủ tiêu một cách tích cực tình trạng “lao động bị tha hóa”. Từ
bài viết, tác giả luận án nhận thấy vấn đề tha hóa trong xã hội có nguồn gốc tự lợi
ích, mâu thuẫn lợi ích làm nảy sinh sự tha hóa trong xã hội tư bản. Khi triển khai
vấn đề lý luận của luận án, tác giả luận án cũng chỉ ra nguồn gốc của tình trạng tha
hóa đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều nguồn gốc khác nhau
những nguồn gốc trực tiếp nhất làm nảy sinh sự tha hóa của đạo đức của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là lợi ích.
Đi sâu bàn về lý luận tha hóa, tác giả Ngô Đình Xây (2010) với bài viết: “G.
V. Ph. Heghen về "tha hóa" qua sự đánh giá của C. Mác” [155]. Đây là bài viết
mang tính lý luận, khái quát cao. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc quan điểm
của Hêghen về tha hóa, đồng thời chỉ ra những nhận xét của Mác về tha hóa
mà Hêghen đã trình bày trong các tác phẩm của mình.
Theo tác giả, phạm trù “tha hóa” trong triết học Hêghen “đã trở thành phạm trù
triết học theo nghĩa đầy đủ, rõ ràng và điển hình nhất của nó ở triết học cổ điển Đức.
Hêghen đã xây dựng một lý luận khá hoàn chỉnh”[155] về “tha hoá” và nâng “tha
hóa” lên thành phạm trù trung tâm, xuyên suốt trong hệ thống triết học của

ông. Trong triết học của mình, Hêghen đã trình bày khái niệm tha hóa một cách hệ
thống.
Tác giả bài viết đã chỉ ra sự đánh giá của Mác dưới các quan điểm sau:
Thứ nhất, “Hêghen đã chỉ ra biện chứng của lao động và tha hoá, của thống trị
và bị nô dịch, của nguyên nhân và giả định mục đích, của cơ học và hữu cơ luận”
[155]. Phạm trù “tha hoá” “của Hêghen mang cả tính chất bản thể luận (sự chuyển


12

hoá của tinh thần thành tự nhiên và sự tạo ra thế giới đối tượng, tức là thế giới xã
hội, khách quan, thông qua hoạt động mang tính đối tượng hoá của con người) lẫn
tính chất nhận thức luận (biến tri thức thành mặt đối lập của nó, tức là thành sai
lầm)” [155].
Thứ hai, tính độc đáo và biện chứng trong cách tiếp cận của Hêghen về “tha
hoá”. Ở phần này, tác giả chỉ ra 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: ở giai đoạn này Hêghen xây dựng và làm rõ phạm trù “tha hoá”
của mình: theo ông: “tha hoá chính là quá trình biến thành (trở thành) cái khác, cái
tha hoá chính là cái ban đầu được biểu hiện là cái khác” [155].
Giai đoạn 2: Hêghen đã tiến thêm một bước để tiến dần đến hoàn thiện phạm
trù tha hoá. Ở giai đoạn này “ông hiểu tha hoá là trở thành cái khác hoàn thiện hơn
và các hình thức khác nhau của sự tha hoá (giới tự nhiên, con người và xã hội loài
người, tự ý thức của con người) đều có xu hướng, có tham vọng trở về với cái xuất
phát, cái căn nguyên, cái chủ thể tối thượng - ý niệm tuyệt đối - tinh thần tuyệt đối”
[155].
Thứ ba, từ phạm trù tha hoá, Hêghen đã phát triển biện chứng, là quá trình
tước bỏ và bảo tồn, là quá trình phủ định của phủ định.
Thứ tư, theo Hêghen “tha hoá” là “thuộc tính phổ biến, là quá trình phổ biến
của tự nhiên, của xã hội và của tư duy” [155].
Thứ năm, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, Hêghen đã bàn đến sự

tha hoá của bản chất con người. Tác giả đã trích dẫn quan điểm của Mác rằng: “Đối
với Hêghen bản chất người đồng nghĩa với tự ý thức. Cho nên đối với con người,
mọi sự tha hoá của bản chất con người chẳng qua là sự tha hoá của tự ý thức” [155].
Cũng ở vấn đề này Hêghen đã bàn đến lao động và sự tha hoá lao động của con
người. Nhận xét về cách phân tích của Hêghen, Mác đã chỉ ra “thực tế tha hoá hiện
thực của sản phẩm lao động khỏi người lao động được nhà triết học thể hiện dưới
hình thức thần bí, bao gồm các trạng thái ý thức bị trói buộc của chủ thể mà cá tính
phải chịu những hậu quả tai hại do tác động qua lại với môi trường xã hội” [155].
Thứ sáu, Hêghen bàn đến việc “giải” tha hoá. Theo Hêghen, muốn “giải” tha
hoá thì con người phải trở về với nguồn gốc ban đầu của nó - ý niệm tuyệt đối.
Từ những phân tích trên, tác giả đi đến kết luận: “Tha hoá là một hiện thực có
thật, một hiện trạng thực tế trong xã hội và có cơ sở kinh tế của nó. Và, cũng từ đây,
C.Mác đã đi đến kết luận về một nội dung quan trọng nhất trong lý luận về tha hóa
của mình, đó là việc tìm ra lực lượng và biện pháp vật chất để “giải” tha hóa trong
hiện thực”[155]. Xuất phát từ bài viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết có
giá trị lý luận sâu sắc, tác giả luận án đã kế thừa một số quan điểm, đặc biệt quan
điểm “tha hoá hiện thực của sản phẩm lao động khỏi người lao động” để làm phần
cơ sở lý luận của mình.
Phân tích quan điểm của C.Mác về tha hóa có luận án tiến sĩ triết học của


13

Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010) với đề tài: “Quan niệm của Các Mác về tha hóa
và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam”[59]. Luận án đã
đi sâu vào phân tích quan điểm tha hóa của C.Mác trong Bản thảo kinh tế - triết học
1844. Trên cơ sở đó, luận án đã lý giải về khái niệm tha hóa, nguồn gốc, nguyên nhân
của tình trạng lao động bị tha hóa. Từ những phân tích trên, luận án đã chỉ rõ tính chất
tiêu cực của tình trạng tha hóa trong lao động của người công nhân trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, cả tình trạng tha hóa của bản chất con người trong xã hội ấy. Tác giả luận án

đã phác thảo bức tranh về con người Việt Nam trước những tác động của mặt trái kinh
tế thị trường. Qua đó tác giả cũng chỉ ra sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đến tình
trạng tha hóa của bản chất con người. Trên cơ sở những suy ngẫm về vấn đề tha hóa và
sự nhìn nhận, tổng kết thực tiễn, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục và đi đến xóa bỏ tình trạng tha hóa để phát triển con người Việt Nam toàn
diện trong điều kiện hiện nay. Rõ ràng khái niệm tha hóa hoàn toàn có thể vận dụng
vào điều kiện Việt Nam tùy từng cách vận dụng và lĩnh vực vận dụng. Trên cơ sở kế
thừa bài viết, tác giả luận án vận dụng khái niệm tha hóa ở một nghĩa hẹp hơn để nhằm
khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay.
Vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2014)
có bài viết: “Tha hóa đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam ” . Tạp
chí khoa học xã hội Việt Nam số 11.
Đề tài này, tác giả khái quát một số quan điểm của Mác về tha hóa , đặc biệt là
tha hóa đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở xã hội tư bản. Từ khái quát mặt trái
của kinh tế thị trường tác giả làm rõ vấn đề cạnh tranh về lợi ích đã dẫn đến làm tha
hóa đạo đức con người.
Từ cơ cở lý luận, tác giả đã chỉ ra những vấn đề tha hóa đạo đức trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, quan hệ con người bị thao
túng bới đồng tiền, hay nói cách khác đạo đức của con người bị tha hóa bởi kinh tế,
từ kinh tế sinh ra chủ nghĩa cá nhân, vị kỉ. Con người nếu không kiểm soát được
kinh tế thị trường thì chính con người sẽ bị kinh tế thị trường làm tha hóa đạo đức.
Trước bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huyền , tác giả luận án đã hoàn thành đề tài
thạc sĩ về “tha hóa và khắc phục hiện tượng tha hóa của một bộ phận cán bộ, đảng
viên ở Việt Nam hiện nay” trong luận văn này tác giả luận án cũng đã trình bày
quan điểm của mình về vấn đề tha hóa về đạo đức. Đây cũng là sự trùng hợp tư
tưởng và cũng từ vấn đề này tác giả luận án càng có niềm tin để tiếp tục nghiên cứu
và triển khai luận án tiến sĩ của mình.
Tóm lại, từ những công trình trên cho thấy, các nhà lý luận bàn về tha hóa ở nhiều
góc độ khác nhau, cách vận dụng khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng, lĩnh vực vận

dụng. Từ đó cho thấy, khái niệm tha hóa được vận dụng rất linh hoạt ở tất cả các lĩnh
vực trong đời sống xã hội. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà khoa học. Tác giả


14

luận án vận dụng khái niệm tha hóa vào vấn đề đạo đức, với mục đích nhằm khắc phục
tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam,
khi mà tình trạng này đang trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng và nguyên nhân việc khắc
phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Việt Nam hiện nay
Tác giả Nguyễn Tiến Nghĩa /2013) có bài viết: “Tham nhũng-nguyên nhân và
biện pháp phòng ngừa”. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc khái niệm tham
nhũng, đồng thời tác giả cũng chỉ ra thực trạng và một số nguyên nhân. Theo tác
giả, tham nhũng do một số nguyên nhân sau:
Một là, cơ chế, chính sách và pháp luật còn nhiều kẽ hở, lương công chức còn
thấp. Theo tác giả ở đâu “hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra quyết định
và hoạch định chính sách còn thiếu minh bạch, thủ tục hành chính còn rườm rà, lương
công chức còn thấp,…thì ở đó tình trạng tham nhũng có xu hướng gia tăng”[100].
Hai là, tác giả chỉ ra những hạn chế như: chưa phát huy được tính tích cực của
người dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Việc đấu tranh chống tham nhũng
chưa được phát động thường xuyên.
Ba là, vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, như công an, viện kiểm sát, tòa
án chưa được phát huy đầy đủ.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra một số biện pháp ngăn ngừa trong đó có
giải pháp giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; xét xử công khai, nghiêm
minh những cán bộ tha hóa về đạo đức, thành lập tòa án đặc biệt để xét xử cán bộ
lãnh đạo cấp cao; phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong đấu tranh chống tham
nhũng. Bài viết đã để lại ấn tượng sâu sắc cho tác giả luận án. Qua bài viết, tác giả

luận án nhận thấy, tham nhũng là một dạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán
bộ lãnh đạo, quản lý, khắc phục được tham nhũng nghĩa là khắc phục được một
phần quan trọng của vấn đề tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, trong luận án của mình, tác giả luận án cũng đi sâu vào
phân tích lý luận, thực trạng, giải pháp để khắc phục tình trạng tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay.
Đi vào một vấn đề cụ thể, tác giả Vũ Ngọc Lâm (2013) với bài viết: “Có hay
không “sân sau” của cán bộ”, [64]. Theo tác giả bài viết “sân sau” của cán bộ là tệ
nạn đầu cơ chính trị, nghĩa là các doanh nghiệp dùng tiền để câu kết với cán bộ lãnh
đạo, quản lý, có chức, có quyền để “chạy” các dự án. Ngược lại cán bộ khi đã nhận
hối lộ, hoặc có cổ phần trong các doanh nghiệp đó thì lại tìm cách tạo những điều
kiện tốt nhất để các doanh nghiệp đó trục lợi. Tác giả bài viết còn chỉ ra các mánh
khóe và sự câu kết cùng có lợi giữa các doanh nghiệp và cán bộ lãnh đạo, quản lý,
có chức, có quyền. Tác giả bài viết cũng chỉ ra một số giải pháp nhằm khắc phục
tình trạng tham nhũng này, một trong những giải pháp đó là yêu cầu cán bộ lãnh


15

đạo, và một số cán bộ liên quan đến vấn đề kinh tế phải công khai minh bạch tài sản
cá nhân. Từ bài viết, tác giả luận án nhận thấy tham nhũng đa dạng, tinh vi và phức
tạp. Trên cơ sở kế thừa, khi triển khai luận án, tác giả luận án cũng chỉ ra tính đa
dạng của tham nhũng ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tác giả Vũ Ngọc Hoàng (2015) có bài viết: “Tham vọng quyền lực và sự tha
hóa”[54]. Bài viết này, tác giả đã làm rõ nguồn gốc của quyền lực, quyền lực chính
đáng và tham vọng quyền lực.
Theo tác giả, sự tham vọng quyền lực là nguyên nhân dẫn đến làm tha hóa
quyền lực, khi cán bộ lãnh đạo, quản lý đã không còn coi mình là người được nhân
dân giao quyền lực và thực thi quyền lực của nhân dân, ngược lại họ coi họ là người
có quyền lực và dùng quyền lực phục vụ lợi ích của bản thân, từ sự lạm quyền này

đã dẫn đến tha hóa đạo đức của chính họ. Tác giả bài viết nhấn mạnh: “Quyền lực
luôn có mặt trái là nó làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng quyền lực nếu
như họ không đủ độ chín về nhân cách”[54]. Rõ ràng, sự không chín về nhân cách
là sự thiếu đạo đức, mà thiếu đạo đức chính là tình trạng tha hóa về đạo đức, những
cán bộ tha hóa về đạo đức mà giao quyền cho họ thì thật nguy hiểm. Bởi vì, “Quyền
lực càng lớn thì nguy cơ tha hóa càng nhiều. Người giữ chức vụ càng cao trong bộ
máy quyền lực thì đối mặt với nguy cơ càng lớn về sự tha hóa”[54].
Từ những phân tích trên tác giả chỉ ra “Khi quyền lực được gắn với chữ
“tham”, lòng tham, thì đó là động cơ, nguyên nhân và biểu hiện của tha hóa quyền
lực.” Lòng tham và tính vị kỷ đã làm cho quyền lực có sức hấp dẫn kỳ lạ tạo nên
những động cơ xấu, dẫn đến những hành vi không thể tưởng tượng nổi”[54]. Từ
cách phân tích của tác giả cho thấy, nguồn gốc của tha hóa quyền lực là có điểm
xuất phát từ vấn đề tha hóa về đạo đức. Một khi lòng tham của con người trỗi dậy
thì sẽ là con đường dẫn đến tha hóa về đạo đức một cách nhanh nhất và khi ấy làm
cho quyền lực bị tha hóa.
Tác giả nêu rõ, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý đã dùng quyền lực mà
nhân dân giao cho để tham nhũng của dân, mưu cầu lợi ích thỏa mãn dục vọng của
bản thân.
Từ phân tích tình trạng tha hóa quyền lực tác giả chỉ ra thực trạng của tha hóa
quyền lực. Theo tác giả, “Mấy chục năm sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Nội dung các văn bản ấy nhìn chung
đều đúng, không sai”[54]. Tuy nhiên: “việc tổ chức thực hiện cũng tích cực, thậm
chí có lúc vất vả nữa, nhưng tình hình tham nhũng, “lợi ích nhóm”, mua quan bán
chức, gọi chung là thoái hóa, không dừng lại mà còn tăng lên, lan rộng hơn, gây
nhức nhối hơn, làm cho lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục
giảm sút, đến mức nghiêm trọng và báo động”[54].
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận: Nhất thiết phải kiểm soát
quyền lực, phải xây dựng một “cái lồng” nhốt quyền lực không để cho nó tự tung,



16

tự tác thái quá. Để làm được việc này không thể chủ quan, lơ là, không thể đùa với
lưỡi dao nhọn, đã có rất nhiều bài học thực tiễn, thực tế đã chứng minh rồi. Phải bàn
kỹ và có quyết tâm chính trị để thực hiện. Đảng ta phải tập trung cao, tích cực lãnh
đạo công việc này. Đây là bài viết có giá trị thực tiễn rất cao, bởi khái niệm tha hóa
vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực trong đó có tha hóa quyền lực, tha hóa về quyền lực
cũng là một dạng của tha hóa về đạo đức. Thực chất của tha hóa về quyền lực ở cán
bộ lãnh đạo, quản lý chính là ăn cướp quyền lực của nhân dân. Vì vậy, phần giải
pháp của luận án, tác giả luận án cũng đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát
quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Từ những công trình trên cho thấy, các tác giả đã chỉ ra tình trạng tha hóa về
đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là hiện tượng có thật diễn ra rất
đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Đó là những chất liệu tốt để tác giả luận án có thể tham khảo trong quá
trình hoàn thành các nhiệm vụ của luận án.
1.3. Những công trình liên quan đến quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu
quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam
Ban chỉ đạo Trung ương 6 (2) Viện khoa học xã hội Việt Nam với đề tài “Tệ
nạn quan liêu, lãng phí và một số giải pháp phòng chống”[4]
Đây là một đề tài rất công phu và sâu sắc, đề tài đã tập trung làm rõ những vấn
đề sau:
Thứ nhất, làm rõ một số quan điểm của Lênin về phòng chống tham nhũng,
lãng phí và tệ quan liêu trong Đảng Cộng sản Liên Xô vào những năm 20 của thế kỷ
XX, đồng thời chỉ ra những giải pháp của Lênin về thực hiện vấn đề này.
Thư hai, đề tài tập trung làm quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong một số tác phẩm như: Sửa đổi lề lối làm việc; tẩy
sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh; Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống
bệnh quan liêu; bài nói chuyện với cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước; Chủ

nghĩa cá nhân; Đạo đức cách mạng; Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ
nghĩa cá nhân; Cần, kiệm, liêm, chính…
Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý đề tài đi đến làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác qua các kỳ đại hội VI,
VII, VIII, IX. Đặc biệt đề tài làm rõ những khái niệm cơ bản như: tham nhũng, hối
lộ, quan liêu, lãng phí.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng, đề tài đã phân tích rất
sâu sắc thực trạng của tệ quan liêu, lãng phí ở nước ta hiện nay.
Từ phân tích thực trạng đề tài đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục


17

tệ quan liêu, lãng phí ở nước ta hiện nay.
Tài liệu nghiên cứu nghị quyết hội nghị lần thứ tư ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI
Tài liệu đánh giá thực trạng và nguyên nhân sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
Về tư tưởng, chính trị: Một bộ phận cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với
làm, không thực hiện đúng đường lối, quan điểm, quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nhận thức lệch lạc; xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng. trong xã hội tệ
quan liêu, lãnh đạm, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân.
Tình trạng một bộ phận cán bộ lười học tập lý luận chính trị, không chịu tham
gia các phong trào cách mạng; thấy đúng không bảo vệ, không chịu đấu tranh phê
bình và tự phê bình; không thường xuyên học tập trau dồi đạo đức cách mạng.
Một bộ phận cán bộ sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông
thả, hưởng thụ. Trong công tác chính trị, thiếu lý tưởng cách mạng, có biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; trong công việc thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý chí

phấn đấu; thực hiện lối sống đua đòi, vì lợi ích cá nhân, xa hoa, hưởng lạc .
Một bộ khác có biểu hiện cơ hội, vụ lợi, thực dụng, tìm cách dĩ hòa vi quý, nói
dựa, lấy lòng nhau để lợi dụng thăng quan, tiến chức; một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý nảy sinh tư tưởng tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái, cục bộ, lợi ích
nhóm, gây mất đoàn kết nội bộ.
Một bộ phận cán bộ khi thực thi công vụ có biểu hiện tham nhũng, hối lộ, quan
liêu. Tệ nạn chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp,
chạy khen thưởng diễn ra ở nhiều cơ quan, đơn vị.
Từ những thực trạng, tài liệu chỉ ra nguyên nhân trong đó có nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò cơ bản.
Từ vấn đề thực trạng, nguyên nhân, tài liệu đưa ra một số giải pháp nhằm ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
Rèn luyện phẩm chất và đạo đức cách mạng.
Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tài liệu có giá trị lý luận và thực tiễn cao, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Trên cơ sở kế thừa tài liệu, tác giả luận án đã làm rõ thêm những biểu hiện, thực
trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay và bổ sung một số giải pháp phòng ngừa, đặc biệt là giải pháp kiện toàn hệ
thống pháp luật và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Khiếu Linh (2015) cũng có bài: “Giải pháp nhằm phát huy vai trò báo chí
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” [74]. Tác giả bài
viết đã nêu cao vai trò của báo chí trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,


×