Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

KIỂM CHỨNG TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ TRÊN CÂY CÓ MÚI VÀ XÁC ĐỊNH GIỐNG CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU BỆNH TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.04 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NÔNG HỌC
^^^ ]]]

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

KIỂM CHỨNG TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀNG LÁ THỐI
RỄ TRÊN CÂY CÓ MÚI VÀ XÁC ĐỊNH GIỐNG
CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU BỆNH
TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN THỊ HẰNG
Ngành: BẢO VỆ THỰC VẬT
Niên khóa: 2006 - 2010

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 8 năm 2010


KIỂM CHỨNG TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀNG LÁ THỐI
RỄ TRÊN CÂY CÓ MÚI VÀ XÁC ĐỊNH GIỐNG
CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU BỆNH
TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO
Tác giả

NGUYỄN THỊ HẰNG

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Kỹ sư ngành
Bảo vệ thực vật



Giáo viên hướng dẫn
Th.s VÕ THỊ THU OANH
K.s NGUYỄN NGỌC ANH THƯ

Tp. Hồ Chí Minh - Tháng 8 năm 2010

 

 
i


LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến:
Ban giám hiệu trường đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
Quý thầy cô khoa Nông Học.
Đã tạo điều kiện cho tôi được học tập trong một môi trường giáo dục lành
mạnh, được giao lưu học hỏi, trau dồi kiến thức.
Thạc sĩ VÕ THỊ THU OANH đã dìu dắt, truyền đạt kiến thức cho tôi trong
những năm học trên giảng đường, xây dựng cho tôi một nền tảng kiến thức là hành
trang tôi vững bước vào đời. Ân cần hướng dẫn, chỉ bảo tôi thực hiện tốt đề tài.
Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật, Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, xã Long Định, huyện
Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cho tôi
hoàn thành tốt đề tài.
Thạc sĩ NGUYỄN THÀNH HIẾU.
Kĩ sư NGUYỄN NGỌC ANH THƯ.
Cùng các anh chị trong Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật
Đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài tại cơ quan.
Và lòng biết ơn :

Tới ông bà, bố mẹ và gia đình là những người đã sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn,
tạo điều kiện cho tôi được tiếp tục theo học. Là điểm tựa vững chắc giúp tôi vượt qua
những khó khăn thử thách, vững tin trong cuộc sống.
Những người bạn không thể thiếu trong mỗi bước tôi đi, những người bạn đã
sát cánh bên tôi suốt 4 năm đại học, đã giúp đỡ, sẻ chia, khuyên bảo tôi trong thời gian
thực hiện đề tài.
Tp. Hồ Chí Minh ngày 10, tháng 8, năm 2010
Nguyễn Thị Hằng

ii


TÓM TẮT
KIỂM CHỨNG TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ TRÊN CÂY
CÓ MÚI VÀ XÁC ĐỊNH GIỐNG CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU BỆNH TRONG
ĐIỀU KIỆN IN VITRO. Đề tài đã được thực hiện tại Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật, Viện
Cây Ăn Quả Miền Nam, xã Long Định, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, từ tháng
1 năm 2010.
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Võ Thị Thu Oanh
K.s Nguyễn Ngọc Anh Thư
Đề tài thực hiện bao gồm 2 nội dung:
Nội dung 1: Kiểm chứng tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên hạt cam mật đã
nẩy mầm của 3 dòng nấm Pythium sp., Fusarium sp. và Phytophthora sp. trong điều
kiện in vitro. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên đơn yếu tố gồm 4
NT có đối chứng, có 5 lần lặp lại với mỗi lần lặp lại là 1 đĩa petri (đường kính 9 cm)
gồm 4 hạt cam mật đã nảy mầm
Nội dung 2: Xác định giống có khả năng chống chịu bệnh vàng lá thối rễ của 10
giống cây có múi với nấm Pythium sp., Fusarium sp. và Phytophthora sp. trong điều
kiện in vitro. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên đơn yếu tố, gồm 10 NT, 3
lần lặp lại, mỗi lần lặp lại tương ứng với 1 đĩa petri (đường kính 9 cm) gồm 4 hạt cây

có múi đã nảy mầm. Thí nghiệm với từng dòng nấm trên 10 giống cây có múi. Các
giống cây có múi được chọn làm thí nghiệm bao gồm: bưởi bung, bưởi đỏ, bưởi đường
da láng, bưởi ngang, bưởi lông cổ cò, bưởi thúng, bưởi tứ quý, cam mật, chanh tàu,
bưởi bánh xe.
Và kết quả thí nghiệm đã thu được:
- Ở nội dung 1: Kiểm chứng tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên hạt cam mật
trong điều kiện in vitro cho thấy, sau 2 ngày chủng nấm Pythium đã mọc kín bề mặt
hạt làm cho hạt không thể phát triển, sau đó hạt sẽ bị thối, với tỷ lệ nhiễm bệnh là 100
%. Kế đến là Fusarium sp. (88,33 %) và Phytophthora sp. (85 %) và kết luận cả 3
dòng nấm trên đều là tác nhân gây bệnh thối rễ trong điều kiện in vitro.

iii


- Ở nội dung 2: Xác định giống có khả năng chống chịu bệnh vàng lá thối rễ của
10 giống cây có múi với nấm Pythium sp., Fusarium sp. và Phytophthora sp. trong
điều kiện in vitro, trong 10 giống khảo sát thu được: bưởi đường da láng có khả năng
chống chịu tốt với nấm Phytophthora sp., bưởi bánh xe chống chịu tốt với nấm
Fusarium sp., không có giống nào chống chịu tốt với nấm Pythium. Riêng các giống
cam mật và chanh tàu mẫn cảm nhất với cả 3 dòng nấm Phytophthora sp., Fusarium
sp., Pythium sp.. Vì vậy có thể chọn 2 giống bưởi bánh xe, bưởi đường da láng tiếp
tục làm những thí nghiệm khác trong nhà lưới và ngoài đồng nhằm mục đích xác định
gốc ghép chống chịu với bệnh vàng lá thối rễ.

iv


MỤC LỤC
Trang
TRANG TỰA. ............................................................................................................i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ii
TÓM TẮT ..................................................................................................................iii
MỤC LỤC .................................................................................................................v
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................vii
DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ . ................................................................................vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH ........................................................................................vii
DANH SÁCH CÁC BẢNG ......................................................................................viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .......................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề ..........................................................................................................1
1.2. Mục đích-yêu cầu ...............................................................................................2
1.2.1. Mục đích ..........................................................................................................2
1.2.2. Yêu cầu ............................................................................................................2
1.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................3
2.1. Tình hình sản xuất CCM tại ĐBSCL .................................................................3
2.2. Triệu chứng bệnh ................................................................................................3
2.3 Nguyên nhân bệnh VLTR ...................................................................................5
2.4. Điều kiện phát sinh - phát triển ..........................................................................7
2.5. Sơ lược về 3 dòng nấm .......................................................................................9
2.5.1. Phytophthora ...................................................................................................9
2.5.2. Fusarium ..........................................................................................................11
2.5.3. Pythium ............................................................................................................13
2.6. Những nghiên cứu trong nước và ngoài nước ....................................................14
2.6.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................14
2.6.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ....................................................................18
2.7. Biện pháp phòng trừ ...........................................................................................23
Biện pháp canh tác .....................................................................................................23
Biện pháp sinh học ....................................................................................................24
v



Biện pháp hóa học .....................................................................................................24
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................25
3.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm ........................................................................25
3.2 Điều kiện nghiên cứu ...........................................................................................25
3.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................25
3.4 Xử lí số liệu .........................................................................................................28
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................29
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .................................................................44
CHƯƠNG 6: TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................46
CHƯƠNG 7: PHỤ LỤC ............................................................................................49

vi


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL: đồng bằng sông Cửu Long.
CCM: cây có múi.
VLTR: vàng lá thối rễ.
CAQ: cây ăn quả.
NSC: ngày sau chủng.
NT: nghiệm thức.

DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1 So sánh khả năng gây bệnh của 3 dòng nấm

DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 2.1: Rễ bị thối vỏ tuột khỏi ruột
Hình 3.1: Hạt CCM được che tối bằng giấy nhôm
Hình 3.2: Bố trí đĩa hạt trong phòng thí nghiệm.

Hình 3.3: Hạt CCM đã nảy mầm được đặt trên đĩa petri
Hình 4.1: Hạt cam mật bị nhiễm Pythium ở 7 NSC
Hình 4.2: Hạt cây có múi khi chủng Phytophthora ở 25 NSC
Hình 4.3: Hạt cây có múi khi chủng Fusarium ở 25 NSC
Hình 4.4: Hạt CCM bị nhiễm Pythium ở 7 NSC

vii


DANH SÁCH CÁC BẢNG:
Bảng 4.1: Tỷ lệ bệnh (%) của hạt cam mật với 3 dòng nấm ở các thời điểm theo dõi
Bảng 4.2: Cấp độ bệnh (%) của hạt cam mật với 3 dòng nấm ở các thời điểm theo dõi
Bảng 4.3: Tỷ lệ bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Phytophthora ở các thời
điểm theo dõi
Bảng 4.4: Chỉ số bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Phytophthora ở các thời
điểm theo dõi
Bảng 4.5: Tỷ lệ bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Fusarium ở các thời điểm
theo dõi
Bảng 4.6: Chỉ số bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Fusarium ở các thời điểm
theo dõi
Bảng 4.7: Tỷ lệ bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Pythium ở các thời điểm
theo dõi
Bảng 4.8: Chỉ số bệnh (%) của 10 giống cây có múi với nấm Pythium ở các thời điểm
theo dõi
Bảng 4.9: Khả năng gây bệnh của 3 dòng nấm Phytophthora, Fusarium, Pythium trên
10 giống cây có múi dựa vào chỉ số bệnh trung bình ở các thời điểm theo dõ

viii



Chương 1: GIỚI THIỆU

1.1. Đặt vấn đề
Cây có múi thuộc họ Rutaceae, là loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, được
trồng phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hàng năm vùng cung cấp một lượng
lớn quả đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đem lại nguồn thu nhập lớn
cho nhà vườn như bưởi da xanh, bưởi năm roi... Ở đồng bằng sông Cửu Long có nhiều
vùng trồng cây có múi nổi tiếng như: quýt tiều ở Lai Vung - Đồng Tháp; cam sành ở
Tam Bình - Vĩnh Long; bưởi năm roi ở Bình Minh - Vĩnh Long; bưởi da xanh ở Bến
Tre, …
Tuy đem lại nguồn kinh tế cao nhưng cây có múi lại bị nhiều bệnh nguy hiểm
và ngành trồng cây có múi đang đứng trước những thách thức lớn, trong đó bệnh vàng
lá thối rễ đã gây hại trầm trọng cho các vườn trồng cây có múi ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long. Năm 2000, khoảng trên 1.300 ha quýt tiều tại Lai Vung bị chết do
bệnh thối rễ. Trong các năm từ 2001 đến 2004, vùng trồng cam mật tại hai huyện Trà
Ôn và Tam Bình của tỉnh Vĩnh Long cũng bị bệnh thối rễ và chết dần. Theo đánh giá
của cán bộ địa phương số cây bị chết có thể lên đến 40 % diện tích cam của hai huyện.
Tại thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang, bệnh thối rễ cũng gây hại khá nghiêm trọng
ở các vườn trồng cam và quýt đường (Phạm Văn Kim, 2004).
Để giải quyết vấn đề trên chúng tôi tiến hành kiểm chứng tác nhân gây bệnh
vàng lá thối rễ và xác định gốc ghép cây có múi có khả năng chống chịu bệnh trong
điều kiện in vitro để tìm ra biện pháp giải quyết hiệu quả nhất. Trong đó, kiểm chứng
tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trong điều kiện in vitro là bước đầu tiên cần thực
hiện. Theo nhiều chuyên gia, một trong những biện pháp phòng trừ bệnh vàng lá thối
rễ hiệu quả và có ý nghĩa kinh tế cũng như ý nghĩa về mặt môi trường đó là biện pháp
sử dụng gốc ghép. Theo Castle (1987); Niles và ctv, (1995), gốc ghép giữ vai trò quan
trọng đầu tiên đối với ngành trồng cây có múi bởi vì lợi ích lâu dài do chúng mang lại
trên những vườn cây bị nhiễm mặn, ngập nước, những tổn thương do khô hạn và lạnh,
những ảnh hưởng đó rất dễ thấy thông qua sự phát triển và kích thước của chồi, năng
suất và kích thước quả, chất lượng của quả và khả năng chống chịu với bệnh.

1


Việc sử dụng gốc ghép có khả năng chống chịu bệnh trong sản xuất sẽ làm
giảm lượng thuốc hóa học gây ô nhiễm môi trường và giảm chi phí trong sản xuất.
Chính vì vậy, được sự phân công của khoa Nông Học trường Đại học Nông Lâm và
Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật - Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, chúng tôi đã thực hiện đề
tài: “kiểm chứng tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ cây có múi và xác định giống có
khả năng chống chịu bệnh trong điều kiện in vitro”.
1.2. Mục đích – yêu cầu
1.2.1. Mục đích
- Kiểm chứng tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên cây có múi trong điều kiện
in vitro.
- Xác định giống cây có múi chống chịu bệnh vàng lá thối rễ trong điều kiện in
vitro.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng gây hại của tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên một số
giống cây có múi.
- Xác định giống cây có múi chống chịu bệnh vàng lá thối rễ trong điều kiện in
vitro.
1.3. Giới hạn nghiên cứu
- Chỉ nghiên cứu trên tác nhân do nấm Phytophthora sp., Pythium sp., Fusarium
sp. đã được Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật - Viện Cây Ăn Quả Miền Nam phân lập năm
2009.
- Các giống cây có múi: bưởi bung, bưởi bánh xe, bưởi đỏ, bưởi đường da láng,
bưởi ngang, bưởi lông cổ cò, bưởi thúng, bưởi tứ quý, cam mật, chanh tàu.
- Thí nghiệm chỉ nghiên cứu trong điều kiện in vitro.

2



Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình sản xuất CCM tại ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện có gần 80.000 ha vườn trồng cây có
múi (Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, 2009), tập trung ở các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre,
Hậu Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, mỗi năm cho sản lượng từ 300.000 đến gần 400.000
tấn quả. Riêng tại tỉnh Tiền Giang, huyện Cái Bè được thiên nhiên ưu đãi, quanh năm
nước ngọt, phù sa màu mỡ, từ lâu đã trở thành vùng tập trung phát triển cây ăn quả
(CAQ) có diện tích lớn nhất tỉnh. Toàn huyện có hơn 16 nghìn ha vườn CAQ, sản
lượng trên 200 nghìn tấn / năm. Trong đó, cây có múi là 6.500 ha, sản lượng hơn 70
nghìn tấn / năm, chủ yếu là cây cam sành, nhưng diện tích cây cam sành ngày càng thu
hẹp lại một cách nghiêm trọng mà nguyên nhân là do dịch bệnh vàng lá thối rễ gây ra.
Bệnh vàng lá thối rễ là một trong ba bệnh hại nguy hiểm nhất trên cây có múi.
2.2. Triệu chứng bệnh
Bệnh gây hại ở rễ và cổ rễ giáp mặt đất. Trên cổ rễ lúc đầu là một chấm nhỏ
màu nâu sau chuyển sang nâu đen và lan rộng bao quanh phần vỏ cổ rễ, vỏ bị thối khô,
nứt và bong tróc ra để trơ phần gỗ phía trong. Nấm có thể ăn sâu vào thân làm thân bị
khô đen, các rễ phía dưới cũng bị thối đen. Cây mới bị bệnh có biểu hiện sinh trưởng
kém, lá bị vàng và rụng dần dần, cây còn nhỏ có thể bị chết khô hoàn toàn. Cây bệnh
dễ bị đổ ngã do bộ rễ đã bị hại (Cúc và Oanh, 2002).
Trên rễ: rễ bị thối, vỏ rễ dễ dàng tuột khỏi phần gỗ, mạch gỗ của rễ hóa nâu lan
dần lên phần rễ chính (Cúc và Oanh, 2002).

3


Hình 2.1: Rễ bị thối vỏ tuột khỏi ruột

Trên lá: lá vàng từ thịt đến gân, gân lá có màu vàng trắng, phiến lá ngả màu
vàng xanh và sau đó rụng đi. Lúc đầu chỉ có vài cành bị bệnh sau đó toàn bộ tán lá bị

vàng và rụng (Cúc và Oanh, 2002).
Chính vì vậy bệnh làm cho cây còi cọc và lá thưa thớt, các cành nhánh bị khô
và chết dần. Khi cây ra trái, trái rất dễ bị rụng vì vậy làm giảm năng suất rất lớn (Lê
Thị Thu Hồng, 2002). Bệnh vàng lá thối rễ cũng xuất hiện trên cây bưởi, tuy nhiên
mức độ bệnh ít hơn so với cam sành và quýt tiều.
Theo Lê Thị Thu Hồng và Lâm Thị Mỹ Nương, (2002), kết quả đánh giá tổn
thất do bệnh VLTR gây ra ở quýt hồng Lai Vung - Đồng Tháp như sau:
ÔNăng suất trái: tùy theo mức độ bệnh của cây, những cây bị bệnh nặng thì
toàn bộ lá non nhỏ, không phát triển và rụng dần. Nếu vẫn duy trì số lượng trái trên
cây thì cây sẽ chết dần. Năng suất trái trên cây tùy thuộc vào tỷ lệ cành bị vàng lá trên
cây. Những cành bị bệnh nặng thường bị khô và chết vì vậy sẽ không cho trái. Kết quả
điều tra cho thấy từ khi phát bệnh đến khi cây chết là 1-2 năm. Nếu nông dân cắt bỏ
cành bệnh, tỉa bỏ bớt trái và sử dụng thuốc hóa học kết hợp với chăm sóc cây tốt thì có
thể kéo dài tuổi thọ của cây. Tuy nhiên, nếu cây bị bệnh nặng thì hoàn toàn không có
khả năng hồi phục.

4


ÔThực tế điều tra ở các vườn cây bị bệnh cho thấy: đối với trường hợp cây mới
chớm bị bệnh (có 1 - 2 cành nhánh có biểu hiện bệnh) thì năng suất trái trên cây trong
năm có thể giảm 5 - 10 %. Mức độ bệnh trên cây cũng như mức độ giảm năng suất trái
trên cây càng gia tăng theo thời gian. Trong trường hợp có đầu tư, chăm sóc tốt (cắt bỏ
các cành nhánh bệnh, tưới thuốc trừ nấm, phun phân bón lá) thì có thể kéo dài được
thời gian sống của cây song năng suất trái trên cây vẫn giảm từ 30 - 50 %. Tuy nhiên,
nếu tỷ lệ cành lá bị bệnh trên cây trên 70 % thì cây không có khả năng hồi phục.
ÔChất lượng quả: có đến 75 % nông dân cho rằng bệnh không làm ảnh hưởng
đến chất lượng quả, quả vẫn bán được, không có vị đắng, không chua, không bị lạt,
màu sắc quả vàng và đẹp hơn. Tuy nhiên, trọng lượng bình quân quả nhỏ hơn. Khảo
sát độ brix quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa quả của cây khỏe và

của cây bị bệnh.
2.3. Tác nhân gây hại
Hiện nay, bệnh thối rễ trên cây ăn quả chưa được nghiên cứu nhiều, một số tác
giả đã nghiên cứu về tác nhân gây bệnh, tuy nhiên những kết luận không thống nhất
nhau dẫn đến qui trình phòng trừ hiện nay kém hiệu quả. Trong đó, theo kết quả
nghiên cứu của Phạm Văn Kim và ctv, (1997) đã chứng minh bằng quy tắc Kock bệnh
vàng lá thối rễ trên cây cam mật và quýt tiều là do nấm Fusarium solani gây ra trong
điều kiện đất bị oi nước trong thời gian dài. Theo kết quả nghiên cứu của Dương Minh
và ctv, (2003) cũng có kết luận F. solani là tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên cây
có múi tại Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Đồng Tháp và Tiền Giang.
Theo Lê Thị Thu Hồng và ctv, (2002) đã nghiên cứu bệnh vàng lá chết nhanh
trên cây quýt tiều tại Lai Vung, Đồng Tháp là do nấm Fusarium, Phytophthora,
Pythium và có sự xuất hiện của tuyến trùng gây ra, trong đó F. solani là tác nhân quan
trọng.
Theo kết quả điều tra và phân lập của Viện Cây Ăn Quả miền Nam tại các vườn
cây có múi tại Châu Thành, Cái Bè của Tiền Giang, Tam Bình, Trà Ôn, Bình Minh của
Vĩnh Long, Long Tuyền của Cần Thơ, Lai Vung của Đồng Tháp cho thấy hầu hết các
vườn đều bị vàng lá thối rễ do tập đoàn nấm đất gây ra như: Fusarium. sp, Pythium.
sp, Phytophthora sp. trong đó Fusarium có tần số xuất hiện cao nhất và có sự xuất

5


hiện của tuyến trùng Pratylenchus sp., Tylenchulus sp., Radopholus sp., Meloidogyne
sp.,….(Nguyễn Ngọc Anh Thư và ctv, 2005).
Nguyễn Ngọc Anh Thư và Nguyễn Văn Hoà, (2006) đã tiến hành thử nghiệm
khả năng nhiễm Phytophthora nicotianae và F. solani của 8 giống cây có múi trong
điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả trong đĩa petri và trong ly nhựa cho thấy nấm P.
nicotianae gây hại nặng hơn và phát triển nhanh hơn nấm F. solani. Như vậy nấm P.
nicotianae rất có thể là tác nhân chính gây bệnh vàng lá thối rễ trên cây có múi còn

nấm F. solani là tác nhân thứ hai, như nhận định của Kozumi bệnh vàng lá thối rễ là
do nấm Phytophthora tấn công gây hại trước, rồi Fusarium là nấm mới tấn công và
gây hại sau nhưng nấm Fusarium lại phát triển nhanh và mạnh hơn nấm Phytophthora.
Tuy nhiên đây chỉ là kết quả ban đầu và cần được kiểm chứng để có kết luận rõ ràng
hơn.
Kết quả điều tra mới đây của Nguyễn Văn Hoà và ctv, (2006) tại các vùng trồng
cam sành nổi tiếng của Tiền Giang và Vĩnh Long cho thấy mức độ nhiễm bệnh vàng lá
thối rễ ở các vùng có khác nhau. Ở Tam Bình - Vĩnh Long: Bệnh vàng lá thối rễ hiện
diện ở tất cả các vườn điều tra với mức độ nhiễm cũng rất cao, rất nhiều vườn triệu
chứng vàng lá thối rễ hiện diện trên tất cả các cây. Ở Mỹ Lương - Cái Bè - Tiền Giang,
tất cả các vườn nhiễm bệnh vàng lá thối rễ, tuy mức độ nhiễm có thấp hơn so với vùng
Tam Bình. Ở Tân Phong -Cai Lậy - TG, có đến 16,67 % vườn điều tra không nhiễm
bệnh vàng lá thối rễ, mức độ nhiễm bệnh vàng lá thối rễ thấp hơn nhiều so với Tam
Bình và Cái Bè. Có lẽ một số cây đã nhiễm nhưng nông dân kịp thời nhổ bỏ, xử lý đất
bằng vôi bột và trồng lại ngay, đặc biệt ở đây nông dân khống chế mực thuỷ cấp rất
tốt.
Trần Thị Thu Yến và ctv, (2006) cũng đã nghiên cứu chọn lọc gốc ghép cây có
múi kháng Fusarium in vitro sử dụng Fusaric acid với nồng độ từ 1 ppm - 10 ppm, tuy
nhiên đây chỉ là kết quả bước đầu.

6


2.4. Điều kiện phát sinh phát triển của bệnh
Nấm F. solani cần có điều kiện thích hợp để phát triển và gây hại, đất bị oi
nước lâu dài thì bệnh mới phát triển mạnh. Vì khi chủng nấm F. solani vào cây trong
điều kiện ráo nước (thoáng khí) thì sau 3 tháng cây vẫn không thể hiện triệu chứng của
bệnh, nhưng nếu tạo điều kiện oi nước thì sau một tháng bệnh đã xuất hiện và gây triệu
chứng vàng lá, rụng lá và thối rễ (Phạm Văn Kim và ctv, 1998).
Đối với vườn chuyển từ trồng lúa sang trồng cây có múi, bệnh bắt đầu xuất hiện

từ năm thứ năm cho đến năm thứ bảy trở về sau và phụ thuộc vào khả năng đầu tư,
chăm sóc của từng vườn. Đối với vườn được cải tạo từ vườn cũ trồng cây có múi, bệnh
bắt đầu xuất hiện sau vụ thu hoạch trái thứ hai và cây chết nhiều sau vụ thu hoạch trái
thứ ba và thứ tư. Khi thiết kế liếp trồng ba hàng, thì hàng giữa bị bệnh và chết trước
hai hàng bên.
Điều kiện đất và nước rất đặc trưng cho vùng ĐBSCL giữ vai trò rất quan trọng
đối với bệnh thối rễ cây ăn trái. Đất có thành phần sét cao trong sa cấu tạo ra tình trạng
tế khổng trong đất rất nhỏ, làm cho đất khó thoát nước sau các đợt mưa dài ngày vào
giữa và cuối mùa mưa. Đất bị nước chiếm các tế khổng lâu dài nên rơi vào tình trạng
yếm khí do oi nước. Tình trạng này kéo dài làm cho rễ cây trồng cạn phải hô hấp yếm
khí lâu dài, các chất độc do các tiến trình sinh hóa trong tế bào rễ sinh ra, không được
oxít hoá để giải độc, tích lũy trong tế bào và gây ngộ độc cho tế bào. Từ đó các tế bào
ở phần rễ non, nơi các tiến trình sinh hóa diễn ra mạnh nhất, sẽ bị chết dần từng tế bào
và tạo ra các mảng thối ở rễ non (Phạm Văn Kim và ctv, 2004).
Nấm F. solani có sẵn ngoài đất, có cơ hội xâm nhập vào rễ thông qua các vết
thối này và bắt đầu tấn công dần phần rễ này. Kể từ khi bắt đầu xâm nhập cho đến khi
triệu chứng bệnh thể hiện cần có thời gian ủ bệnh vài tháng. Do đó ở các vườn, bệnh
không xuất hiện ngay trong mùa mưa, lúc đất bị oi nước, mà bệnh thường xuất hiện
nghiêm trọng trong đầu mùa nắng (Phạm Văn Kim và ctv, 2004).

7


Đất ở các vườn bệnh thường có thành phần sét bị chai cứng trong mùa nắng và
dẻo quánh trong mùa mưa. Ngoài ra, đất của các vườn có bệnh xảy ra rất chua, pH
trong khoảng từ 3,9 - 4,5. Thường gặp nhất là pH = 4,3 như trên vườn sapô bệnh tại
Trà Vinh (Phạm Văn Kim, 2000, tư liệu chưa công bố) và trên vườn quýt tiều bệnh tại
Lai Vung, Đồng Tháp (Lê Thị Thu Hồng, 2002). Dương Minh và ctv, (2004) báo cáo
các vườn cây có múi bị bệnh tại 5 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp
và Tiền Giang có pH từ 3,9 - 4,4.

Ngoài ra, tuyến trùng cũng giữ vai trò mở đường cho nấm F. solani ở các vườn
có mật số tuyến trùng gây hại cao. Ở những vườn đất tơi xốp hơn mà vẫn bị bệnh, thì
có thể do tuyến trùng mở đường cho nấm F. solani.
Tập quán canh tác của nông dân đã lạm dụng quá nhiều vào phân bón hóa học
và thuốc bảo vệ thực vật, vì hiệu quả tức thời. Trong khi đó đất có thành phần sét cao
cần được cải tạo bằng phân hữu cơ để được tơi xốp hơn, tránh bị oi nước trong mùa
mưa, nhưng nông dân trong khu vực chỉ bón phân hóa học mà không bón phân hữu cơ.
Trong thiên nhiên có sự cạnh tranh giữa các vi sinh vật với nhau để tạo ra sự
cân bằng sinh học của hệ sinh thái, nhất là hệ sinh thái đất. Đất không được bồi dưỡng
chất hữu cơ hằng năm nên sau một thời gian, chất hữu cơ có trong đất bị khoáng hóa
do vi sinh vật và mất đi. Cho đến nhiều năm sau, chất hữu cơ trong đất bị cạn kiệt hệ
vi sinh vật trong đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các vi sinh vật hoại sinh sẽ không tồn
tại được vì thiếu thức ăn. Các sinh vật ký sinh thực vật thì vẫn có thức ăn do cây cung
cấp nên tiếp tục phát triển. Từ đó, sự phát triển của hệ vi sinh vật sẽ nghiêng về hướng
có lợi cho dịch bệnh phát triển. Như vậy, có thể kết luận là việc không bón phân hữu
cơ cho vườn CCM chính là một trong những nguyên nhân chính của dịch bệnh thối rễ
CCM.
Bên cạnh không bón phân hữu cơ, nông dân còn không bồi dưỡng vôi cho đất.
Đồng bằng sông Cửu Long, đất ruộng vốn có pH thấp, mỗi năm có phù sa bồi đắp
thêm lượng vôi nhất định. Khi lên liếp cao để trồng cây ăn trái thì không còn được
thiên nhiên bồi đắp thêm. Đồng thời, hằng năm nước mưa thấm vào đất rửa trôi một
lượng không nhỏ Ca++ trong đất. Như thế, đến một lúc, đất sẽ cạn kiệt nguồn Ca++ dự
trữ trong đất. Nếu không được bồi dưỡng vôi hằng năm như tập quán trồng cây ăn quả
của nông dân tại đây, thì sau vài năm, pH của đất hạ thấp dưới 5. pH thấp ảnh hưởng
8


đến sự phát triển của các chủng loại vi sinh vật trong đất và là yếu tố góp phần làm
thiếu chất hữu cơ của đất, càng làm nghèo hóa chủng loại và số lượng của hệ vi sinh
vật hoại sinh trong đất. Kết quả này dẫn tới không còn có hiệu quả đối kháng của hệ vi

sinh vật trong đất, mầm bệnh sẽ tự do hoạt động và gây hại cho cây.
Tóm lại, bên cạnh điều kiện thiên nhiên bất lợi cho vườn cây, tập quán canh tác
không phù hợp cũng đã góp phần thúc đẩy dịch bệnh thối rễ CCM trở nên nghiêm
trọng.
2.5. Giới thiệu sơ lược về 3 dòng nấm
2.5.1. Phytophthora
* Phân loại (theo tài liệu: Quản lý bệnh Phytophthora cho rau quả Việt Nam.
Viện Cây Ăn Quả Miền Nam).
Giới: Stramenopiles
Ngành: Oomycota
Lớp: Omycetes
Bộ: Peronosporales
Họ: Pythiaceae
Giống: Phytophthora
* Sự phân bố:
Phytophthora de Bary (1887) là giống thuộc lớp nấm noãn phân bố rộng rãi
trên toàn thế giới, là “vật gây bệnh cây trồng” bao gồm xấp xỉ 60 loài (Erwin và
Ribeiro, 1996). Những loài Phytophthora gây hại trên nhiều loại cây trồng và là
nguyên nhân chính gây nên một số bệnh dịch nghiêm trọng trên thế giới, gây thiệt hại
hàng năm đến hàng tỉ đô la, trong đó phải kể đến vụ mất mùa khoai tây gây nạn đói ở
Châu Âu thế kỷ 19 mà tác nhân là nấm Phytophthora infestants (Bourke, 1964). Bệnh
rất phổ biến ở các vùng nhiệt đới ẩm ướt trên toàn thế giới và gây nên nhiều bệnh khác
nhau cho cây ăn quả nhiệt đới như: thối rễ, thối cổ rễ, loét thân, cháy lá, thối quả. Nấm
Phytophthora palmivora là nguyên nhân của hàng nghìn bệnh nghiêm trọng trên nhiều
loại cây trồng khác nhau như: thối rễ và thối quả cây có múi, thối thân và thối đu đủ...
Những nhân tố đã khiến cho Phytophthora là vật gây hại cây trồng nghiêm trọng như:
(theo tài liệu của Viện Cây Ăn Quả miền Nam)

9



1. Sản sinh các kiểu khác nhau của bào tử như: bào tử nang, bào tử động tồn tại
và lan truyền trong thời gian ngắn, còn hậu bào tử và bào tử noãn thì tồn tại trong thời
gian dài hơn.
2. Sự nhiễm bệnh vào mô cây kí chủ rất nhanh chỉ từ 3-5 ngày. Điều này sẽ
nhanh chóng dẫn đến giai đoạn thứ nhiễm và nhanh chóng hình thành dịch bệnh dưới
những điều kiện thời tiết thích hợp.
3. Khả năng của bào tử động của Phytophthora là hút vào đầu rễ thông qua sự
kích thích hóa học (Van West và ctv, 2002) cùng với khả năng cơ động bơi đến xâm
nhiễm vào các mô non và các chóp rễ.
4. Khả năng tồn tại trong hoặc ngoài mô ký chủ là bào tử noãn hoặc hậu bào tử
trong thời gian dài. Bào tử noãn cũng được biết đến là có thể tồn tại trong thời gian
ngắn thông qua hệ tiêu hóa của động vật như ốc sên.
5. Sự sinh sản bào tử nang, chúng có thể lây lan qua không khí, nước tưới, gió,
để gây bệnh cho cây trồng từ cánh đồng này sang cánh đồng kia. Bào tử nang có thể
xâm nhiễm trực tiếp vào mô cây kí chủ. Những bào tử túi cũng có khả năng phân chia
thành 4 - 32 bào tử động dưới điều kiện ẩm mát và gây nên sự nhân nhiễm từ một bào
tử nang. Tuy nhiên bào tử động chỉ có thể di chuyển với khoảng cách ngắn bởi vì
chúng rất dễ bị tổn thương trong điều kiện khô.
6. Phytophthora thuộc giới Stramenopiles vì vậy chúng có sự khác biệt về con
đường sinh hóa so với nấm thực. Do đó nhiều loại thuốc hóa học không có hiệu quả
chống lại vật gây bệnh này.
7. Nấm Phytophthora thường phát triển mạnh dưới điều kiện ẩm ướt bởi vậy
gây khó khăn trong việc phòng trừ, rất khó áp dụng các biện pháp hóa học trong điều
kiện như vậy.
* Chu kì sống: sinh sản vô tính của Phytophthora gồm bào tử nang, bào tử
động, hậu bào tử và sinh sản hữu tính (bào tử noãn). Sợi nấm sinh dưỡng lưỡng bội
sản sinh ra bào tử nang vô tính mà có thể nảy mầm trực tiếp, hoặc có thể phân chia để
sản sinh ra 8 - 12 bào tử động, mỗi bào tử động trải qua một quá trình lan truyền và bơi
vào nang trước khi nảy mầm. Một số loài Phytophthora cinnamoni cũng sản sinh số

lượng lớn hậu bào tử sợi nấm. Tái sinh lưỡng tính là kết quả của việc sản sinh bào tử
noãn. Tất cả các kiểu bào tử đều có khả năng nhiễm bệnh, bào tử hậu và bào tử noãn
10


đều có thể tồn tại qua đông và ở trạng thái nghỉ. Tất cả các loài Phytophthora đều có
giai đoạn truyền qua đất và hơn nữa một số loài như P. palmivora còn truyền qua cả
không khí.
* Phạm vi kí chủ: Những loài Phytophthora có sự biến đổi lớn về phạm vi kí
chủ. Phytophthora fragariae var. rubi chỉ nhiễm trên một loài cây kí chủ (Kenedy và
Duncan, 1995), trong khi đó P. cinnamoni có thể tấn công trên 1000 loài cây kí chủ
khác nhau (Erwin và Ribeiro, 1996) và một số loài khác nằm trong phạm vi giữa hai
loài trên. Ở vùng nhiệt đới, loài Phytophthora thường gặp nhất là loài P. palmivora, có
phạm vi kí chủ lớn. Phytophthora nicotianae cũng gặp phổ biến và gây hại trên nhiều
loài cây kí chủ khác nhau. Phytophthora capsici có phạm vi kí chủ ít hơn, tuy nhiên
chúng cũng có thể nhiễm trên 40 loài cây trồng khác nhau.
* Phương thức sinh sản:
Tất cả các dòng phân lập được của Phytophthora đều có tính lưỡng tính, điều
đó có nghĩa là chúng có thể sản sinh cấu trúc sinh sản hữu tính đực và cái (Galindo và
Gallegly, 1960). Khi các dòng phân lập được đối ngược nhau về giới tính tiếp xúc với
nhau có thể kích thích qua lại để hình thành túi giao tử. Phương thức sinh sản của các
loài Phytophthora quyết định khả năng phát dịch. Hình thức sinh sản hữu tính đóng
vai trò quan trọng trong vòng đời của Phytophthora. Sinh sản hữu tính cho phép kết
hợp lại những cặp gen tương ứng ở trường hợp của những loài Phytophthora mang
tính dị tản. Bào tử noãn có thể hoạt động như một cấu trúc cho phép tồn tại trong một
thời gian dài khi không có sự hiện diện của cây ký chủ và có thể duy trì sự nhiễm bệnh
vào mô cây kí chủ trong điều kiện khí hậu nóng và khô.
2.4.2. Fusarium
* Phân loại: (Nguồn: http:/en.Wikipedia. org/Wiki/fusarium)
Giới: Fungi

Ngành: Ascomycota
Lớp: Sordariomycetes
Bộ: Hypocreales
Họ: Nectriaceae
Giống: Fusarium

11


Nấm chỉ có giai đoạn sinh sản vô tính mà không có giai đoạn sinh sản hữu tính,
có tế bào sinh bào tử trần. Fusarium đặc trưng bởi hệ sợi nấm gồm các sợi nấm ngăn
vách màu trắng hoặc có một số màu khác nhưng thường có màu trắng. Fusarium có
cành bào tử phân sinh, giá trần bào tử đơn độc hoặc tụ họp trong các đệm giá hoặc
thành đệm giá nhầy đơn hoặc phân nhánh, các tế bào sinh bào tử trần là các thể bình
đơn độc hoặc thành cụm trên đỉnh giá bào tử trần, đỉnh các nhánh của giá hoặc trực
tiếp trên thân giá, trên các sợi nấm không phân hóa hình thái. Bào tử trần thường ẩm
ướt tụ họp thành khối cầu ở đỉnh thể bình hoặc hình chuỗi. Nấm có 2 dạng bào tử: bào
tử trần lớn và bào tử trần nhỏ. Bào tử trần lớn có một đến nhiều vách ngăn hình lưỡi
liềm có hoặc không có gót ở ngăn gốc. Bào tử trần nhỏ không có hoặc có 1- 2 vách
ngăn hình elip, hình trứng, hình trụ, hình gần cầu, thường không có màu hoặc có màu
trắng nhạt. Bào tử trần lớn là bào tử đặc trưng của nấm, một số loài không có bào tử
trần nhỏ, có hoặc không có bào tử áo. Một số loài có thể có quả túi.
* Sự phân bố:
Theo Bùi Xuân Đồng (1986), thì nấm bệnh phân bố rất rộng trên khắp thế giới,
Fusarium gây thiệt hại trên các loại cây trồng và gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế, đặc
biệt ở vùng Châu Phi, Châu Mỹ và các nước như Australia, Panama, Mỹ, Philippines,
Đài Loan và các nước Đông Nam Á.
Bệnh do nấm Fusarium được phát hiện vào năm 1809 do nhà bác học Link, sau
đó vào năm 1821 được nhà bác học Fries, bổ sung thêm.
* Phạm vi kí chủ:

Fusarium có rất nhiều loài khác nhau nên khả năng kí chủ rất rộng trên nhiều
loại cây trồng khác nhau như: cây ăn quả, cây rau màu và một số cây trồng khác và có
thể sống trong đất trong một thời gian dài, trong xác bã thực vật dưới nhiều dạng khác
nhau, bào tử nấm có thể tồn tại trong những điều kiện khắc nghiệt một thời gian dài
sau đó gặp điều kiện thuận lợi bào tử sẽ phát triển và lây lan (Bùi Xuân Đồng, 1986).
Nấm gây hại nặng trên một số cây trồng đặc biệt là cây ăn quả như: chuối, xoài,
nhãn, ổi, cam, quýt, đu đủ. Ngoài ra một số dòng nấm gây bệnh cho người và động vật
như: ung thư họng ở người, ung thư bán cầu não trên ngựa và chuột (Thiel và ctv,
1991).

12


* Đặc điểm phát sinh, phát triển:
Fusarium có khả năng ký chủ rất rộng trong các điều kiện khác nhau ở khoảng
nhiệt độ 5 0C - 40 0C, nhưng phát triển thuận lợi nhất là 18 0C - 30 0C và ẩm độ 80 - 90
% (Bugnicourt, 1939).
2.4.3. Pythium
* Phân loại: theo phân loại của Pringsheim, 1858.
Giới: Chromalveolata
Ngành: Heterokontophyta
Lớp: Oomycetes
Bộ: Pythiales
Họ: Pythiaceae
Giống: Pythium
* Sự phân bố:
Pythium là 1 loại nấm đất có mặt ở mọi nơi, gây chết rạp cây con và thối rễ cây.
Pythium thuộc họ Saprolegniaceae được Pringsheim tìm ra năm 1858 (theo trích dẫn
của Hendrix và Campbell, 1973). Hiện nay, Pythium thuộc họ Pythiaceae, lớp
Oomycetes. Pythium được tìm thấy lần đầu tiên ở Mỹ đó là Pythium anandrum, mà

phổ biến vào những năm 1930. Pythium ultimum được báo cáo lần đầu tiên là năm
1930 do Wager tìm ra ở Nam Phi (Wager, 1931).
* Đặc điểm gây hại và điều kiện phát sinh phát triển
Pythium tấn công vào mô ở đỉnh rễ. Sau khi xâm nhập vào vùng rễ nấm nhanh
chóng làm cho rễ bị thối và có thể xâm nhập lên mô phía trên thân. Khi đất bị khô,
những rễ mới của cây và cây con có thể biểu hiện hay không biểu hiện triệu chứng.
Trong điều kiện ẩm ướt, đất thoát nước kém và được tưới quá nhiều sẽ làm cho rễ bị
chết nhiều và cây bị héo, ngừng phát triển hoặc thậm chí bị đổ ngã và chết.

13


Tác nhân gây bệnh thối rễ Pythium, cũng được biết, có mặt trong tất cả các loại
đất canh tác và tấn công vào vùng rễ trong điều kiện ẩm ướt. Có rất nhiều loài
Pythium, một vài loài có ích do chúng cạnh tranh hay kí sinh lên một vài tác nhân gây
bệnh. Có nhiều loài chỉ gây hại trên một số cây trong khi những loài khác như P.
ultimum có phổ kí chủ rộng. Một vài loài Pythium như P. aphanidermatum chỉ gây hại
ở nhiệt độ cao khoảng 40 0C, và một vài loài chỉ hoạt động ở nhiệt độ đất thấp.
Pythium có thể lây lan ở ẩm độ đất khoảng 70 % hay cao hơn.
2.6. Những nghiên cứu trong nước và nước ngoài
2.6.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Năm 2002, Lê Thị Thu Hồng và ctv đã nghiên cứu bệnh vàng lá chết nhanh cây
quýt tiều tại Lai Vung, Đồng Tháp và kết luận bệnh do nhiều tác nhân gây ra, trong đó
nấm F. solani chiếm tỷ lệ cao nhất (74 %). Đây được xem là nấm có chứa nhiều độc tố
nhưng chủ yếu là Fusaric acid. Độc tố này sẽ kìm hãm hoạt động của hệ thống enzym
cây ký chủ, phá vỡ độ thẩm thấu của màng tế bào và kìm hãm hoạt động hô hấp của
cây làm giảm mức độ đề kháng của cây. Vì thế, Fusaric acid thường được sử dụng làm
tác nhân chọn lọc trong các nghiên cứu chọn lọc in vitro kháng bệnh trên cây trồng
như: cà chua (Shahin và Spivey, 1986), cây chuối (Chawla và Wenzel, 1987;
Matsumoto và ctv, 1995).

Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Kim và ctv, (1997), đã thực hiện thành
công việc chứng minh tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ trên cây cam mật và quýt tiều
qua các bước của quy trình Kock và đã công bố tác nhân gây bệnh là do nấm F. solani.
Nhóm nghiên cứu cũng đã chỉ thêm là nấm F. solani cần có điều kiện đất bị oi nước
trong thời gian dài vì khi tiêm chủng bào tử nấm F. solani cho cây trong điều kiện ráo
nước (thoáng khí) thì sau 3 tháng cây vẫn không thể hiện triệu chứng của bệnh. Nhưng
nếu tạo điều kiện oi nước thì sau 1 tháng bệnh đã xuất hiện và gây triệu chứng vàng lá
thối rễ (Phạm Văn Kim và ctv, 1998).

14


Phytophthora citrophthora được ghi nhận lần đầu tiên trên cây cam ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1950 và không quan sát thấy cho đến tận năm
1970 khi được tìm thấy trên cây cam ở miền Bắc và miền Trung của Việt Nam. Từ đó
bệnh đã nhanh chóng lan rộng và hiện nay có ảnh hưởng đến quả của tất cả các vùng
trồng cây có múi như Thanh Trà (Thừa Thiên Huế), Ninh Bình, Tiền Giang (Viện Cây
Ăn Quả Miền Nam, 2005).
Phytophthora citrophthora tấn công vào thân và quả, kết quả dẫn đến triệu
chứng chảy gôm và thối quả. Bệnh phát triển nhanh vào mùa mưa và nghiêm trọng
nhất là vào tháng 7 và tháng 8. Tháng 3 - 2002, tỷ lệ bệnh trên cây cam ở nông trường
Cao Phong - Hòa Bình là 10 % nhưng đã tăng nhanh vào tháng 8 là 20 - 30 %. Trên
quýt bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng, ở một vài vườn tất cả các cây đều bị bệnh và
nhiều cây bị chết (Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, 2005).
Theo Lê Thị Thu Hồng và ctv (2002), cho rằng bệnh vàng lá chết nhanh trên
cây quýt tiều tại Lai Vung, Đồng Tháp là do nấm: Phytophthora spp., Pythium spp.,
Fusarium spp. và có cả sự xuất hiện của tuyến trùng gây ra, trong đó F. solani là tác
nhân quan trọng.
Dương Minh và ctv (2003), đã thực hiện quy tắc Kock trên cây quýt tiều con
với biện pháp trồng cây con trên đất không có hữu cơ và tiêm chủng bào tử F. solani

với mật số 105 / 300 g đất và cũng có kết luận là nấm F. solani là tác nhân gậy bệnh
vàng lá thối rễ trên CCM tại tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tiền
Giang. Nhóm nghiên cứu đã phân lập được nấm F. solani từ các loại cây như: cam
mật, quýt tiều, cam soàn, chanh tàu, bưởi (C. maxima) và chanh Volka dùng làm gốc
ghép và tất cả các chủng nấm Fusarium này đều gây bệnh thối rễ thông qua kiểm
chứng quy trình Kock. Đồng thời qua khảo sát nhiều vườn nhãn và chôm chôm bị
bệnh thối rễ, nhóm khảo sát cũng xác nhận bệnh thối rễ nhãn, chôm chôm và vú sữa
cũng do nấm F. solani gây ra (Dương Minh, tư liệu chưa công bố).
Theo kết quả điều tra của Phan Thanh Trí (2005), bệnh VLTR chủ yếu là do
nấm có ở trong đất gây ra, trong đó nấm F. solani là tác nhân chính, kế đến là
Phytophthora, Pythium, Sclerotium. Ngoài ra, tuyến trùng Pratylenchus sp. và một số
tuyến trùng khác như Tylenchulus sp., Radopholus sp. và Meloidogyne sp. góp phần
làm cho bệnh trở nên trầm trọng hơn.
15


Theo Vũ Khắc Nhượng và Hà Minh Trung (1983), nấm gây bệnh cho các cây
trưởng thành ở bộ rễ và gây hại mạch dẫn làm cho cây không có khả năng phục hồi
được do một phần là bị tắc mạch dẫn và một phần là do chất độc của nấm tiết ra. Khi
cây mới bị bệnh thì các lá ở dưới biến vàng trước rồi đến các lá ở phía trên, sau cùng
toàn bộ cây bị héo và chết, có khi cây bị vàng lá và héo một phía. Đó là do nấm chỉ
xâm nhập vào một phần mạch dẫn.
Bệnh vàng lá thối rễ hiện diện trên tất cả các giống cây có múi được điều tra tại
4 tỉnh: Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp. Qua kết quả phân lập thì bệnh
chủ yếu do nhóm nấm đất gây ra, trong đó nấm F. solani là tác nhân chủ yếu, kế đến là
Phytophthora, Pythium, Sclerotium, v.v. Kết quả cũng cho thấy tuyến trùng
Pratylenchus sp. và một số tuyến trùng khác như Tylenchulus sp., Radopholus sp. và
Meloidogyne sp. đóng vai trò quan trọng làm cho bệnh trở nên trầm trọng hơn
(Nguyễn Ngọc Anh Thư và ctv, 2005).
* Khảo sát tính kháng của các dòng nấm Fusarium phân lập được đối với một

số loại thuốc hóa học và nấm đối kháng Trichoderma nhóm nghiên cứu đã đi đến kết
luận (Nguyễn Ngọc Anh Thư và ctv, 2005):
- Cả 3 dòng nấm Fusarium spp. đều không phát triển được trên môi trường có
chứa thuốc Bendazol và Ridomil, mặc dù cả 3 dòng nấm đều mọc được trên môi
trường có chứa thuốc Nustar và nấm đối kháng Trichoderma nhưng rất thấp so với đối
chứng.
- Cả 3 loại thuốc (Nustar, Bendazol, Ridomil) và nấm đối kháng Trichoderma
đều ngăn cản được sự phát triển của đại bào tử và tiểu bào tử của nấm Fusarium.
* Khảo sát một số loại thuốc phòng trị bệnh vàng lá thối rễ trên vườn (Nguyễn
Ngọc Anh Thư và ctv, 2005) thu được kết quả:
- Số khuẩn lạc của nấm Fusarium có trong 1g đất sau khi xử lý thuốc giảm rất
nhiều so với trước khi xử lý thuốc. Ở các nghiệm thức xử lý thuốc, số khuẩn lạc có
trong 1g đất giảm rất nhiều so với đối chứng và sự khác biệt này rất có nghĩa.
- Cả 3 loại thuốc sử dụng trong thí nghiệm như: Nustar, Bendazol, Ridomil đều
có tác dụng gia tăng số rễ tươi giúp cây có khả năng phục hồi nhanh khi kết hợp thuốc
với bón Trichoderma.

16


×