Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 120 trang )

1

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGÔ HẢI YẾN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
Ở CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2014


2

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGÔ HẢI YẾN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
Ở CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ


NƯỚC
MÃ SỐ: 60 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN BÁ THANH

HÀ NỘI - 2014


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN NÂNG

Trang
3

CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN Ở CÁC
ĐẢNG BỘ CÁC XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA
1.1.

BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng đội

9

ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh
1.2. Thực trạng và kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ


9

đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG

30

CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN Ở CÁC
ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1. Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội

49

ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ đảng

49

viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay

58
87
89
94

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt


4

Ban chấp hành

BCH

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Nhà xuất bản

Nxb

Trong sạch vững mạnh

TSVM



5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng
Đảng; số lượng, chất lượng đội ngũ đảng viên trực tiếp quyết định năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín và danh dự của tổ chức đảng và toàn Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức
nên. Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi chính sách của Đảng
đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của
Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”[43, tr.235-236]. Trong hệ thống
chính trị, đảng viên là hạt nhân lãnh đạo, nguồn bổ sung cán bộ cho bộ máy của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể và là lực lượng nòng cốt trong các phong trào
cách mạng của các tổ chức và quần chúng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo mọi mặt của đời sống
xã hội. Những thành tựu to lớn mà Đảng ta lãnh đạo trong các cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa hiện nay càng khẳng định
vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ đảng viên. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từ yêu cầu của cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đặt ra những yêu cầu
mới, cao hơn ở người đảng viên. Từ thực trạng tình hình, nếu Đảng không tự
đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, không chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên
vững mạnh thì Đảng không thể lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong
tình hình mới.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn chiến lược quan trọng, trung tâm

chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội lớn của đất nước và các tỉnh, thành phía
Nam. Những năm qua, bằng sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,


6

mạnh dạn thể nghiệm nhiều cơ chế, chính sách mới nên Thành phố Hồ Chí
Minh đã tạo ra sự biến đổi to lớn, sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, nâng cao vai trò của Thành phố với cả nước và các thành phố lớn
trong khu vực và trên thế giới. Về công tác xây dựng Đảng, quán triệt các
quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập
trung hướng về cơ sở. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, quận, huyện
uỷ, các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố đã có những chủ
trương, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ chính trị của các cấp bộ đảng trên địa bàn thành phố. Nhờ vậy,
chất lượng đội ngũ đảng viên đã có sự chuyển biến tích cực, năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng ngày càng được tăng cường. Với
những thành tựu đã đạt được, Thành phố Hồ Chí Minh đã vinh dự được Đảng
và Nhà nước trao tặng danh hiệu “Thành phố anh hùng”.
Để giữ vững vai trò đầu tàu, đòi hỏi thành phố Hồ Chí Minh phải có đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quán lý giỏi, có tâm, có tầm để lãnh đạo, điều hành hệ
thống chính trị thành phố hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Vì vậy,
tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng
bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm
đề tài luận văn thạc sĩ chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam nhằm đáp ứng yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quán triệt Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các Quy định của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, các chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan đảng cấp trên, trong những
năm qua đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về công tác xây dựng, chỉnh

đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tiêu biểu có các công trình, đề tài sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng:


7

“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới” của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa và PGS.TS Trần
Khắc Việt đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004;
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở thủ
đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004; "Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới" của PGS Lê Văn Dương (chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2004; "Nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay".
Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, lưu hành nội bộ - Viện
Thông tin Khoa học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Hà
Nội.2006.
Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã nghiên cứu làm
rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
của tổ chức cơ sở đảng, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất
những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và toàn Đảng trong giai đoạn hiện nay; trong đó, đề cập vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là giải pháp quan trọng, mang tính đột
phá trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài:
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cấp cơ sở đã được các nhà

khoa học quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu như: “ Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về công tác đảng viên trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta” Tạp chí
nghiên cứu lý luận số 4/1999 của Đậu Thế Biểu; “Nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Luật học (2003) của Nguyễn Thị Hậu; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ


8

Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004) của Dương Hương
Sơn; “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ
huấn luyện sẵn sàng chiến đấu ở các binh đoàn chủ lực trong tình tình hiện
nay”, Luận án tiến sĩ quân sự, chuyên ngành CTĐ,CTCT trong các lực lượng
vũ trang (1999) của Phạm Đình Nhịn; “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven đô trong công cuộc đổi mới
hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (1996) của Đặng Đình Phú; “Nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003) của Cao Thị Thanh Vân;
“Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có đồng bào công giáo ở các
tỉnh ven biển đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(2003) của Nguyễn Văn Giang;
Các công trình trên đây đã lựa chọn đối tượng nghiên cứu khác nhau
theo đối tượng, phạm vi nghiên cứu và đã có những đóng góp nhất định về lý
luận và thực tiễn trong phạm vi nghiên cứu; các công trình, đề tài đã đề cập
khá sâu sắc, toàn diện những vấn đề liên quan đến công tác đảng viên và tổ chức
đảng ở một số vùng, miền trọng điểm, lực lượng vũ trang của đất nước. Tuy vậy

đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản chuyên sâu vấn đề
“Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình, vừa
có sự kế thừa, vừa không bị trùng lặp với các công trình khoa học đã được công
bố, nghiệm thu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn; đề xuất những giải


9

pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các xã, phường, thị trấn
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ đảng viên ở các
đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị
trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu hoạt động nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh; tiến hành điều tra, khảo sát ở các đảng bộ cơ sở (xã, phường,
thị trấn) điển hình trên địa bàn các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh,

thời gian từ 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
* Cơ sở lý luận của đề tài: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về
xây dựng Đảng nói chung, về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
nói riêng, nhất là đối với đội ngũ đảng viên ở đảng bộ xã - phường - thị trấn.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài: Thực tiễn chất lượng đảng viên ở các
đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian
qua; qua báo cáo sơ, tổng kết về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công
tác xây dựng đội ngũ đảng viên; qua điều tra khảo sát thực tế, trao đổi tọa


10

đàm với cán bộ lãnh đạo, đảng viên, nhân dân để rút ra những kết luận cần
thiết phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nghiệm thu, công
bố, ứng dụng.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn; trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp kết hợp lôgiclịch sử, phương pháp nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng
hợp khảo sát, điều tra thực tế và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận
và thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học giúp cấp uỷ các cấp thuộc Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh trong xác định các chủ trương, giải pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên. Đồng thời, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Xây dựng Đảng trong các nhà
trường, trung tâm giáo dục chính trị.
7. Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN Ở CÁC ĐẢNG BỘ
XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị
trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1. Đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh
* Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Đảng bộ ở các xã, phường, thị trấn là tổ chức cơ sở đảng trực thuộc các
đảng bộ quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh có 259 đảng bộ phường, 58 đảng bộ xã và 5 đảng bộ
thị trấn với 181.260 đảng viên.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương
đến chi bộ. Các tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn là một bộ phận cấu thành
Đảng và là nền tảng của Đảng. Nền tảng của Đảng vững chắc do sự vững
mạnh của các tổ chức cơ sở đảng lập thành; là cái bảo đảm cho sự vững chắc
của toàn Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”[45,
tr.210]. Tổ chức cơ sở đảng ở các xã, phường, thị trấn là cầu nối giữa đảng và
các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng. Do đặc điểm về tổ
chức và chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng nên mối liên hệ giữa Đảng

và quần chúng chỉ có thể thông qua cầu nối trực tiếp là các tổ chức cơ sở
đảng. Là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, trực tiếp liên hệ với quần chúng
nhân dân hằng ngày, nên tổ chức cơ sở đảng có điều kiện nắm rõ những tâm tư,
nguyện vọng, kiến nghị của quần chúng để báo cáo với Đảng, giúp cho các cơ
quan lãnh đạo của Đảng nghiên cứu và giải quyết kịp thời. Mặt khác, Đảng muốn


12

đưa đường lối, chủ trương đến với quần chúng cũng phải thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện của các tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, tổ
chức cơ sở đảng có vai trò làm cầu nối giữa Đảng với quần chúng và làm cho mối
liên hệ giữa Đảng và quần chúng ngày càng mật thiết, bền chặt.
Đảng bộ các xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi mặt
hoạt động của địa phương, cơ sở có các chức năng: Lãnh đạo mọi mặt hoạt
động của xã, phường, thị trấn; Nghiên cứu, đề xuất với cấp uỷ cấp trên trực
tiếp những vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ xã, phường, thị trấn.
Đảng bộ xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nơi trực tiếp
đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách ấy. Đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng muốn thâm nhập vào quần chúng và được thực hiện phải thông qua
nhiều khâu, nhiều bước, nhiều tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là thông qua hoạt
động lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ,
tổ chức đảng cấp trên, tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm cụ thể hoá đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng thành nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn
vị; tiến hành tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng chấp hành nghiêm
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thông qua quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tổ chức cơ sở đảng có

trách nhiệm báo cáo với các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng những kiến
nghị, góp ý của quần chúng về đường lối, chính sách đã ban hành để Đảng
nghiên cứu, bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối, chính sách cho phù
hợp. Vì vậy, thắng lợi của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phụ
thuộc rất lớn vào vai trò lãnh đạo và tổ chức thực hiện của tổ chức cơ sở đảng.
Không có tổ chức cơ sở đảng và hoạt động lãnh đạo của nó đối với quần


13

chúng thì mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chỉ
dừng lại ở khâu ra văn bản nghị quyết, chỉ thị mà thôi.
Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, đảng bộ xã, phường, thị trấn có trách
nhiệm kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý và đội ngũ cán
bộ chủ trì ở cơ sở. Với chức năng lãnh đạo, đảng bộ xã, phường, thị trấn kiểm
tra, giám sát đội ngũ cán bộ chủ trì thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đảng bộ xã, phường, thị trấn trực tiếp xây dựng đội ngũ đảng viên,
là nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng. Quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng
viên, đào tạo cán bộ cho Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên quan trọng
của toàn Đảng và tổ chức các cấp. Đảng viên dù đảm nhiệm cương vị,
trọng trách nào trong các cơ quan Đảng, Nhà nước đều phải tham gia
sinh hoạt và chịu sự quản lý của một tổ chức cơ sở đảng. Đảng bộ xã,
phường, thị trấn trực tiếp tác động đến từng đảng viên và giáo dục, rèn
luyện họ thành những đảng viên ưu tú. Thông qua các nghị quyết lãnh
đạo, thông qua công tác tư tưởng và tổ chức, bằng các biện pháp quản lý,
duy trì các chế độ nền nếp sinh hoạt đảng, phân công nhiệm vụ cho đảng

viên, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên và
chấp hành kỷ luật Đảng để giáo dục, rèn luyện đảng viên.
Với vai trò là cầu nối trực tiếp giữa Đảng và quần chúng, Đảng bộ xã,
phường, thị trấn có điều kiện lựa chọn những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn để bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện, thử thách, kết nạp họ vào Đảng,
tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Thông qua việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên,
tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phát hiện, bồi dưỡng và rèn


14

luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi xuất phát đề cử ra
cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
* Đảng viên của đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh.
C. Mác, PhĂngghen đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất của người đảng viên
cộng sản: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong
trào tiến lên; về mặt lý luận họ khác bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở
chỗ họ hiểu rõ những điều kiện và tiến trình và kết quả của phong trào”[18,
tr.343]. Quan điểm của C.Mác, PhĂngghen đã chỉ ra rằng, đảng viên cộng
sản phải là người tiên phong trong hoạt động thực tiễn cách mạng và tư
tưởng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Mỗi đảng viên tốt, mỗi
chi bộ tốt là đảng được mạnh thêm một phần; đảng viên kém, chi bộ kém là
những khâu yếu của Đảng”[46, tr.166]. Xuất phát từ quan điểm đó, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề cốt lõi của việc tạo
dựng tổ chức là phải xây dựng đội ngũ đảng viên. Mọi biểu hiện coi nhẹ,
thái độ không nghiêm túc, không khoa học trong xây dựng đội ngũ đảng
viên là nguồn gốc làm cho Đảng lỏng lẽo về tổ chức, giảm sút năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu, dẫn đến làm biến chất, tan rã Đảng.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về người đảng viên cộng sản và trong công tác xây dựng đội ngũ đảng
viên, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng chất lượng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó Đảng ta đã xây
dựng được một đội ngũ đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo
đức lối sống cách mạng, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn
vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ rõ: “Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi


15

ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật Nhà nước, có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ
chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh là những người đang công tác trong hệ thống chính trị, sinh sống ở
khu phố, tổ dân phố, các xóm, ấp, các đơn vị hành chính, sự nghiệp của xã,
phường, thị trấn, những đảng viên nghỉ hưu... do đảng bộ xã, phường, thị trấn
trực tiếp quản lý giáo dục, rèn luyện. Ngoài ra còn có những đảng viên công
tác ở các cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành của thành phố và Trung ương có
gia đình cư trú trên địa bàn phường.
Hiện nay đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 181.260 đảng viên. Theo nhiệm vụ, điều kiện
công tác, sinh hoạt có thể chia đảng viên ở các xã, phường, thị trấn theo ba
nhóm: Những đảng viên đang công tác trong hệ thống chính trị xã, phường,

thị trấn và ở các khu dân cư; những đảng viên là cán bộ, công chức đã về hưu
hoặc được hưởng các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước như thương
binh, gia đình có công với cách mạng; những đảng viên cư trú cùng với gia
đình trên địa bàn xã, phường thị trấn, nhưng đang công tác ở các đơn vị hành
chính sự nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội đơn vị lực lượng vũ trang…
* Quan niệm đội ngũ đảng viên của đảng bộ xã, phường, thị trấn trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa học về tổ chức đã chỉ ra rằng, nhằm tổ chức sự lãnh đạo của Đảng
có hiệu quả nhất, cần có một số lượng đảng viên đáp ứng quy mô của sự lãnh
đạo. Tuy nhiên, cần chống khuynh hướng chạy theo số lượng thuần tuý mà
coi nhẹ chất lượng. Đồng thời cần có một cơ cấu đội ngũ đảng viên đáp ứng
yêu cầu lãnh đạo nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Tuy nhiên,


16

trong xử lý vấn đề này cần chống khuynh hướng nặng về cơ cấu đội ngũ mà
hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên. Hậu quả của tình trạng này là bệnh hình thức
nặng về chỉ tiêu mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng. Học thuyết Mác Lênin về xây dựng Đảng chỉ ra rằng, phải xây dựng một hệ thống tổ chức thật
sự khoa học, hợp lý để lãnh đạo, quản lý đội ngũ đảng viên. Tổ chức đảng
phải quản lý, lãnh đạo đảng viên, bởi trong thực tiễn, hoạt động của người
đảng viên đều liên quan trực tiếp đến vai trò, uy tín của Đảng Cộng sản. Chỉ
có gắn mình trong tổ chức thì sức mạnh của đội ngũ đảng viên mới được phát
huy. Vì vậy, trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải đồng
thời với việc nâng cao chất lượng tổ chức đảng để lãnh đạo, quản lý đảng
viên. Do vậy, đảng viên phải chịu sự quản lý trực tiếp của chi bộ. Đây là loại
hình tổ chức tế bào của Đảng, trực tiếp quản lý, lãnh đạo đảng viên. Theo
nguyên tắc của một đảng kiểu mới, mọi đảng viên phải tham gia sinh hoạt
trong một tổ chức đảng, trực tiếp là trong một chi bộ, không có ngoại lệ. Chi
bộ có trách nhiệm quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, tiến hành công tác

phát triển đảng viên mới. Thực tế cho thấy, để nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, chi bộ, tổ chức cơ sở đảng phải trong sạch vững mạnh, giữ đúng
chế độ sinh hoạt, giữ nghiêm kỷ luật đảng và làm tốt công tác phát triển đảng.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên thấy rằng, để tạo thành các
tổ chức cơ sở đảng và tạo thành Đảng cần có đội ngũ đảng viên với một số
lượng cần thiết nhất định; một cơ cấu hợp lý và chất lượng đảng viên thể hiện
ở tư cách và tiêu chuẩn đảng viên. Theo đó, đội ngũ đảng viên của các đảng
bộ xã, phường, thị trấn bao gồm các yếu tố:
Số lượng đảng viên: phải có một số lượng đảng viên nhất định mới có
thể thành lập được tổ chức cơ sở đảng, chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân
chính trị ở cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện mọi lĩnh vực
hoạt động, công tác của địa phương, cơ sở, vì vậy phải có số lượng đảng viên
nhất định. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: ở xã, phường, thị trấn


17

có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp
uỷ cấp huyện); chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm
việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có ba đảng viên chính thức.
Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng.
Về cơ cấu : là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo toàn diện mọi lĩnh vực hoạt động, công tác của địa phương về chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh… Vì vậy, phải có cơ
cấu đội ngũ đảng viên hợp lý, bao gồm các vấn đề về chuyên môn, ngành
nghề, độ tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, tôn giáo. Có như vậy mới bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng bao quát các lĩnh vực trọng yếu và toàn diện.
Về chất lượng: chất lượng đội ngũ đảng viên thể hiện ở tư cách, tiêu
chuẩn và việc hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đảng viên. Đó phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên. Đối
với cả đội ngũ là bầu không khí chính trị - tinh thần, đoàn kết, dân chủ, kỷ

luật; tổ chức đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức....
Giữa các yếu tố tạo thành đội ngũ đảng viên có mối quan hệ biện chứng
với nhau tạo điều kiện làm tiền đề hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đội ngũ. Vì vậy, nâng cao chất lượng phải đặc biệt quan tâm các yếu
tố đó, không coi nhẹ bất cứ yếu tố nào, trong đó đặc biệt coi trọng chất lượng.
* Vai trò của đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Một là, đảng viên là người chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng chính là đội quân ưu tú nhất, là
bộ tham mưu chính trị của gia cấp công nhân và là đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng ta
hoạt động không vì mục đích tự thân của mình, mà chính là vì hạnh phúc của


18

nhân dân, tức là nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng
Cộng sản Việt Nam trước hết là một tổ chức, Đảng là một cơ thể chính trị - xã
hội sống, cho nên toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng đều được tạo thành từ mỗi một thành viên trong tổ chức, từ mỗi
tế bào cấu tạo nên Đảng, tức là từ từng người đảng viên. Nói cách khác, sức
mạnh của Đảng phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của đội ngũ đảng viên.
Đảng viên tồn tại gắn liền với tổ chức; chịu sự lãnh đạo, giáo dục, quản lý,
kiểm tra của tổ chức. Tổ chức mạnh đảm bảo từng người mạnh, từng người
mạnh khiến cả tổ chức mạnh. Chất lượng đội ngũ đảng viên ngày càng cao,
nội bộ càng ổn định, thì uy tín của Đảng đối với quần chúng càng lớn.
Hai là, đội ngũ đảng viên là những người vừa có trách nhiệm góp phần

xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách
nhiệm tổ chức thực hiện ở đảng bộ xã, phường, thị trấn; tăng cường mối liên
hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng và
trực tiếp tổ chức thực hiện. Trong quá trình thực hiện, đảng viên góp phần
kiểm nghiệm đường lối chính sách của Đảng, phát hiện những điều chưa hợp
lý của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của
tổ chức đảng để cấp có thẩm quyền bổ sung, làm cho đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng đúng đắn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Mỗi
công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do
đảng viên chấp hành. Mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố
gắng thực hiện” [43,tr.235-236].
Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào
quần chúng, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, giáo dục quần chúng thực hiện. Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu


19

đến quần chúng”; “Mỗi đảng viên là người thay mặt cho Đảng trước quần
chúng, để giải thích chính sách của Đảng và chính phủ cho quần chúng hiểu
rõ và vui lòng thi hành” [42,tr.189]. Như vậy, đảng viên không chỉ là người
đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ mà còn trực tiếp tổ chức thực
hiện. Với ý nghĩa đó đảng viên chính là người xây dựng, củng cố, tăng cường
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Ba là, người đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người phục vụ quần chúng.
Vai trò đó của người đảng viên là sự quán triệt, thực hiện tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng Đảng. Trong mỗi con người đảng viên, người lãnh đạo
và người đầy tớ luôn thống nhất với nhau trong mọi mặt hoạt động lãnh đạo
của đảng bộ địa phương.
Với vai trò là người lãnh đạo, Đảng phải thuyết phục, thu phục được
quần chúng. Muốn vậy, đường lối, chính sách của Đảng phải thực sự đúng
đắn, cách mạng và khoa học, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, thực sự là ngọn đèn dẫn lối, soi đường cho nhân dân hành động. Để thực
hiện Đảng yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu trước
nhân dân, nói đi đôi với làm, phải có cái tâm, cái trí, cái đức; thực sự trung
thành đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mọi đảng viên, tổ chức đảng
phải thực sự là người lãnh đạo xứng đáng của nhân dân chứ không phải theo
đuôi, a dua đối với quần chúng.
Với vai trò là người đầy tớ trung thành của nhân dân, đòi hỏi mục đích hoạt
động lãnh đạo của Đảng là phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân
chứ không nhằm mục đích nào khác. Mọi đảng viên phải tiêu biểu cho đạo lý
chí công vô tư, mình vì mọi người. thực sự là công bộc của dân; phải tôn
trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.


20

Hiện nay, với vai trò này, đòi hỏi người đảng viên phải có lập trường
chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với sự
nghiệp đổi mới; có năng lực trí tuệ, am hiểu thực tiễn; có nhiệt tình cách
mạng cao và năng lực hành động. Đấu tranh, loại trừ những thói ba hoa, chủ
nghĩa cá nhân, thành tích, căn bệnh tự kiêu, tự đại, công thần, quan liêu, tham
nhũng, xa rời quần chúng ở từng địa bàn, cơ sở.
Bốn là, đảng viên là tiền đề, là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Trong điều kiện đảng cầm quyền,
tuyệt đại bộ phận đảng viên giữ trong trách trong các cơ quan bộ máy chính

quyền từ Trung ương đến cơ sở. Vì vậy, muốn phát triển trở thành cán bộ thì
trước hết phải là đảng viên của Đảng. Mỗi cán bộ phải là người đại biểu cho
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có khả năng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục,
vận động, tập hợp quần chúng; phát động các phong trào quần chúng nhằm từng
bước hiện thực hoá Cương lĩnh chính trị, đường lối, nghị quyết của Đảng trong
từng giai đoạn.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh
* Quan niệm chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường,
thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh:
Để có quan niệm đúng đắn về chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ
xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cần thống nhất nhận
thức về chất lượng nói chung.
Chất lượng là thuộc tính vốn có, là cái tạo nên giá trị của sự vật, hiện
tượng, con người. Chất lượng quy định những đặc điểm và tính chất khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng và biểu hiện bằng các thuộc tính của sự
vật. Chất lượng là biểu hiện giá trị và cũng là để phân biệt sự vật, hiện tượng
này với sự vật, hiện tượng khác. Chất lượng có thể đánh giá được về định


21

lượng và định tính thông qua các phương pháp khoa học.
Mỗi một sự vật, hiện tượng có chất lượng khác nhau, giá trị tác dụng khác
nhau, do đó phương pháp nghiên cứu, đánh giá chất lượng không giống nhau. Chất
lượng của một sự vật, hiện tượng, con người được biểu hiện ở giá trị, tác dụng trong
đời sống. Đánh giá chất lượng hoạt động trong lĩnh vực chính trị - xã hội thường là
phức tạp hơn trong lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ, y học...
Đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh là một chỉnh thể bao gồm nhiều nhân tố hợp thành: số
lượng, cơ cấu và phẩm chất, năng lực của từng người và cả đội ngũ. Các yếu
tố ấy có vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ khác nhau, nhưng có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Hoạt động của yếu tố này là tiền đề, điều kiện của yếu tố kia
và ngược lại. Nếu một yếu tố nào đó hoạt động kém hiệu quả sẽ làm ảnh
hưởng đến chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, xem xét chất lượng đội ngũ
đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh phải xem xét hoạt động của từng mặt, từng bộ phận, yếu tố hợp thành
nó. Để đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị
trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, phải nghiên cứu số lượng, cơ cấu
và phẩm chất, năng lực của từng người và cả đội ngũ và ở kết quả thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của từng người và cả đội ngũ. Bởi vì kết quả thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của từng người và cả đội ngũ phản ánh kết quả vận động
và phát triển tổng hợp của các nhân tố ấy.
Từ phân tích trên, có thể quan niệm: Chất lượng đội ngũ đảng viên ở các
đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là tổng
hoà giá trị của các yếu tố hợp thành công tác đảng viên của cấp uỷ, tổ chức
đảng được thể hiện qua kết quả của quá trình thực hiện nhiệm vụ của đảng
viên, đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng, bảo đảm
sự trong sạch vững mạnh của từng tổ chức và toàn đảng bộ, thực sự là hạt
nhân chính trị, nền tảng của Đảng ở cơ sở địa phương.


22

- Những yếu tố quy định chất lượng đội ngũ đảng viên
Chất lượng của đội ngũ đảng viên là tổng hợp các yếu tố biểu hiện ở số
lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên; ở phẩm chất, năng lực, phương pháp tác
phong công tác và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ

đảng viên.
Một là, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên
Muốn có một đội ngũ, bao giò cũng phải có số lượng nhất định. Số
lượng đảng viên ở các xã, phường, thị trấn không chỉ bảo đảm cho đảng bộ
địa phương đủ sức lãnh đạo mà còn bảo đảm cho các tổ chức trong hệ thống
chính trị hoạt động, bảo đảm cho sự phát triển đội ngũ cán bộ cả trước mắt và
lâu dài. Vì vậy, trong đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên bao giờ cũng dựa
vào số lượng đảng viên thực tế.
Chất lượng đội ngũ đảng viên còn phụ thuộc vào cơ cấu đội ngũ. Để có
một đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bao giờ cũng phải có một
cơ cấu đồng bộ, hợp lý cả về độ tuổi, giới tính, năng lực, trình độ, thâm niên,
phạm vi lãnh đạo…để bảo đảm sự kế thừa, chuyển tiếp vững chắc giữa các
thế hệ đảng viên. Do sự đa dạng về địa bàn hoạt động, cần phải có một cơ cấu
đội ngũ đảng viên hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, bao quát về mọi
mặt, phạm vi lãnh đạo của các tổ chức đảng.
Hai là, tiêu chuẩn đảng viên là yếu tố quy định chất lượng đội ngũ
đảng viên. Trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng, yêu cầu đặt ra đối
với tiêu chuẩn của người đảng viên ngày càng cao và Đảng đều có sự bổ sung,
phát triển về nội dung tiêu chuẩn của đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Tiêu chuẩn đảng viên, trước hết biểu hiện yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống đối với đảng viên. Đây là “gốc, rễ, nền tảng” chi phối, định
hướng, phong cách làm việc của đảng viên. Chỉ có tuyệt đối trung thành với
mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, tận tâm, tận tuỵ với công việc thì từng


23

đảng viên mới say mê nghiên cứu tìm tòi, suy nghĩ lựa chọn cách thức, biện
pháp nhằm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Chỉ có mẫu mực về đạo

đức, lối sống có ý thức tổ chức kỷ luật cao, mới bảo đảm cho từng tổ chức đảng
thực sự là trung tâm đoàn kết, mới vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá
được quần chúng và phát động quần chúng thực hiện các chủ trương, biện pháp
lãnh đạo của đảng bộ.
Tiêu chuẩn đảng viên biểu hiện ở yêu cầu về trình độ, năng lực của mỗi
đảng viên. Đây là yếu tố trực tiếp quy định đến chất lượng của từng đảng viên
và tổ chức đảng. Nếu trình độ thấp, năng lực của từng đảng viên yếu thì khó có
thể tạo ra một chất lượng của một đội ngũ. Tiêu chuẩn đảng viên còn biểu hiện ở
yêu cầu phương pháp, tác phong công tác của mỗi đảng viên. Nếu chỉ có phẩm
chất, kiến thức, năng lực thì vẫn chưa đủ mà còn cần phải có phương pháp làm
việc khoa học. Nếu có chủ trương, biện pháp đúng, nhưng phương pháp không
phù hợp thì cũng không đem lại hiệu quả như mong muốn. Phương pháp, tác
phong công tác của đảng viên gắn liền với phương pháp lãnh đạo của Đảng. Đó
chính là lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm, là xây dựng và nhân
điển hình; phương pháp nêu gương bản thân. Đồng thời, đó còn là việc chấp
hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, giữ gìn kỷ luật đảng; xây dựng và thực hiện
các quy chế dân chủ trong Đảng…đó là nhân tố căn bản, trực tiếp tạo nên chất
lượng của từng đảng viên và cả đội ngũ.
Ba là, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ đảng viên
Phẩm chất, năng lực của đảng viên, chất lượng của đội ngũ phải được
biểu hiện ở kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, yêu cầu công tác xây
dựng đảng bộ. Nói cách khác, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người
đảng viên và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ sở địa phương là
yếu tố suy cho cùng quy định chất lượng đảng viên và cả đội ngũ. Mỗi đảng viên
ngoài thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, phải hoàn thành tốt
nhất theo từng cương vị, chức trách được giao. Chất lượng, hiệu quả thực hiện


24


chức trách, nhiệm vụ của đảng viên thấp thì không thể đánh giá người đảng viên
đó có phẩm chất, năng lực tốt được và nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương cơ
sở có sự khác nhau và mức độ, hiệu quả công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
đó chính là thước đo để đánh giá chất lượng của đội ngũ đảng viên và công tác
xây dựng đảng bộ.
Những yếu tố trên là thể thống nhất, tác động qua lại, quy định chất lượng
của đội ngũ đảng viên nói chung và đội ngũ đảng viên ở các xã, phường, thị trấn
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
* Quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở đảng bộ xã,
phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đời sống, thuật ngữ “nâng cao” được hiểu là hoạt động của chủ thể
tác động vào đối tượng nào đó làm cho chúng cao hơn, phát triển hơn trước đây
để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, cá nhân. Thuật ngữ này cũng còn biểu
đạt sự tự thân vận động, tự thân phát triển của một chủ thể nào đó để phẩm chất,
năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Khi nghiên cứu nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh phải nắm vững quan điểm hệ thống, tính chỉnh thể của
hoạt động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội. Bất cứ một hoạt động
nào đó của con người cũng đều có mục đích, đối tượng tác động, nội dung,
phương thức, phương tiện và được diễn ra trong thời gian, không gian cụ thể.
Nếu một khâu, một công việc nào đó trục trặc, hoạt động kém kết quả, lập tức sẽ
làm ảnh hưởng đến các khâu khác, mặt khác mà do đó kết quả hoạt động sẽ rất
hạn chế, thậm chí thất bại, không đạt được mục đích đề ra.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh là tổng thể các giải pháp của tổ chức đảng và của cả hệ thống chính trị
tác động vào yếu tố cấu thành chất lượng nhằm tạo sự chuyển biến, phát triển
về số lượng, cơ cấu, phẩm chất, năng lực của đội ngũ đảng viên ở các đảng



25

bộ xã, phường, thị trấn, góp phần xây dựng đảng bộ xã, phường, thị trấn
trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã,
phường, thị trấn là nhằm làm cho đội ngũ phát triển về số lượng, cơ cấu, đáp
ứng tiêu chuẩn đảng viên thời kỳ mới; xây dựng đảng bộ xã, phường, thị trấn
trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Chủ thể hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ
xã, phường, thị trấn là các cấp uỷ, tổ chức đảng, các ban chức năng của cấp
uỷ; đội ngũ đảng viên. Trong đó chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là cấp uỷ đảng các
cấp ở địa phương, mà trực tiếp là đảng uỷ các xã, phường, thị trấn, chi uỷ chi
bộ thuộc đảng bộ các xã, phường, thị trấn là chủ thể trực tiếp lãnh đạo triển
khai tổ chức thực hiện; đội ngũ đảng viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể với
tự cách tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ về mọi mặt đáp
ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Lực lượng tham gia nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ
xã, phường, thị trấn là toàn bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân
dân. Mỗi một tổ chức, lực lượng có vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ khác
nhau nhưng đều nhằm mục đích giáo dục, rèn luyện, tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình phát triển chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị
trấn. Mọi hoạt động của các cơ quan ban ngành, đoàn thể ở địa phương nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã, phường, thị trấn đều
được thực hiện dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng.
Đối tượng nâng cao chất lượng là đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã,
phường, thị trấn, bao gồm những đảng viên đang công tác trong hệ thống
chính trị xã, phường, thị trấn và những đảng viên đã nghỉ hưu, hưởng các chế
độ chính sách, những đảng viên là cấp uỷ viên, những đảng viên dự bị.



×