Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam? Vận dụng nguyên tắc này vào trong tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.49 KB, 21 trang )

A.Mở Đầu
Bộ máy cơ quan nhà nước được cấu thành từ hệ thống các cơ quan nhà
nước, mỗi cơ quan nhà nước có vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, cơ cấu tổ chức và hoạt động khác nhau, nhưng lại có mối liên hệ mật
thiết với nhau, cùng dựa trên các nguyên tắc tổ chức và hoạt động thể hiện sự
gắn kết mỗi cơ quan nhà nước với nhau để vận hành bộ máy nhà nước theo thể
thống nhất và hiệu quả. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận một cách đầy đủ các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam
dưới dạng các quy phạm pháp luật cụ thể. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy
định các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
CHXHCN Việt Nam rất cụ thể, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ là một
nguyên tắc quan trọng bậc nhất của việc quản lí bộ máy nhà nước CHXHCN
Việt Nam. Chính vì vậy, em đã lựa chọn chủ đề “Phân tích nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam? Vận dụng
nguyên tắc này vào trong tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa
phương.” làm chủ đề cho bài tiểu luận của em trong bộ môn Hiến Pháp.


B. Nội Dung
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam
Bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương,
liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất, một hệ thống các cơ
quan nhà nước hay còn gọi là bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước đó được tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc luật định.
Căn cứ vào trật tự hình thành cũng như tính chất, vị trí, chức năng của các cơ
quan nhà nước, thì bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm bốn hệ thống:
 Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước hay còn gọi là các cơ quan đại

diện, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân trực


tiếp bầu ra thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
 Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước hay còn gọi là các cơ quan hành

chính nhà nước, bao gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, các
cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan thuộc
Ủ ban nhân dân. Chức năng chủ yếu của các cơ quan này là quản lý hành
chính nhà nước.
 Hệ thống các cơ quan xét xử bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự các cấp.
Các cơ quan này có chức năng xét xử.
 Hệ thống các cơ quan kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện
kiểm sát quân sự các cấp. Các cơ quan này có chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp và thực hiện quyền công tố.


Ngoài bốn hệ thống các cơ quan nhà nước nói trên, trong tổ chức bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có Chủ tịch nước – Nguyên thủ
quốc gia (người đứng đầu nhà nước), có chức năng thay mặt nhà nước về đối nội
và đối ngoại.
1.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ và những hiểu biết liên quan
 Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của quản lí , phản ánh

mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lí cũng như yêu cầu và mục tiêu
của quản lý.
 Cơ sở hình thành của nguyên tắc tập trung dân chủ là xuất phát từ yêu cầu

đảm bảo hiệu quả trong hoạt động quản lí. Trong thực tiễn, khi người quản lí

thực hiện mô hình phi dân chủ thì sẽ dẫn đến hệ thống chuyên quyền, độc
đoán, quan liêu dẫn đến trong hoạt động của hệ thống không có hiệu quả.
Nếu thực hiện hệ thống phi tập trung thì sẽ dẫn đến sự rối loạn trong hệ thống
sẽ đưa đến tình trạng tự phát làm cho hệ thống quản lí không có hiệu quả
Cơ sở hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ đó là khách quan; thứ nhất,
xuất phát từ vai trò và vị trí của nhà nước trong quản lí, từ sự phát triển của
trình độ lực lượng sản xuất và tương ứng với nó là trình độ phân công lao
động và hợp tác lao động.


Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo hiệu quả trong hoạt động của hệ thống quản lý,
điều này diễn ra bởi lẽ nền kinh tế nhiều thành phần, có sự phân công lao
động cao, nảy sinh ra yêu cầu phải tổ chức hợp tác trong lao động bảo đảm
cho mọi cá nhân, mỗi doanh nghiệp có tính tự chủ động trong sản xuất kinh
doanh, nhằm phát huy nhân tố tối cao : khả năng, tính năng động sáng tạo
trong thực hiện mọi công việc. Trong quá trình hợp tác lao động đó phải có
tính dân chủ, tuy nhiên mọi hoạt động trong hệ thống đều phải đảm bảo
hướng đến mục tiêu chung nhất mà Đảng ta xác định nhằm bảo đảm sự ổn


định trong quá trình đi đến mục tiêu, tránh sai lệch định hướng xã hội chủ
nghĩa, do đó đòi hỏi vừa phải có dân chủ.
 Nguyên tắc tập trung dân chủ còn xuất phát từ vai trò và địa vị của nhà nước

trong quản lý. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu, chính bản thân nó định ra yêu cầu phải quản lý tập
trung trong nền kinh tế, vì những tư liệu sản xuất chủ yếu nằm trong tay nhà
nước nên yêu cầu phải được nhà nước quản lý tập trung mới phát huy được
tác dụng, hiệu quả.
 Mặt khác, chế độ công hữu cũng nảy sinh yêu cầu dân chủ trong quản lý. Vì


nhà nước quản lý, nhưng trao quyền sử dụng những tư liệu sản xuất chủ yếu
đó cho các ngành, các địa phương, đơn vị nên đòi hỏi phải dân chủ để các
ngành, các địa phương, các đơn vị đó phát huy được tính năng động sáng tạo,
khai thác có hiệu quả các cơ sở hình thành.
 Nguyên tắc tập trung dân chủ còn do sự phát triển của lực lượng sản xuất

mang tính chất xã hội hóa, phải huy động rộng rãi các nguồn tiềm năng và
nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân, nên vừa phải có tập trung để tránh mọi
thất thoát, lãng phí, vừa phải có tính dân chủ để huy động được mức tối đa.
1.3 Nội dung và yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ
Như vậy, từ cơ sở khách quan của việc hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ,
khi thực hiện nguyên tắc này chúng ta phải đảm bảo các yêu cầu và nội dung
sau:
- Cần phải đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa tập trung và dân chủ trong quản lý,
tức là đảm bảo sự kết hợp giữa nội dung lảnh đạo thống nhất của cơ quan quản
lý với tính chủ động sáng tạo của cơ sở, của tập thể người lao động trong hệ
thống nhằm đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong hoạt động của hệ thống
tổ chức quản lý. Yếu tố dân chủ là để phát huy hiệu quả cao nhất trong quá trình


phát triển cho nên phải kết hợp nhuần nhuyễn cả hai yếu tố trên trong quản lý,
thông qua sự kết hợp đó để đảm bảo sự thống nhất ý chí trong hệ thống quản lý
dẫn đến đảm bảo hiệu quả cao. Đó là mục tiêu cao nhất trong quá trình quản lý.
Về bản chất thì tập trung và dân chủ là 2 xu hương diễn ra đồng thời cùng 1 lúc.
Tập trung dân chủ là 1 nguyên tắc thống nhất chứ không phải là sự kết hợp, sự
điều hòa giữa tập trung và dân chủ; không phải sự tập trung càng cao thì dân chủ
càng giảm và ngược lại.
Trong nguyên tắc thống nhất này, tập trung và dân chủ tác động cùng chiều, theo
tỷ lệ thuận, đòi hỏi phải đảm bảo lẫn nhau.

Xu hướng tập trung được biểu hiện ở 2 nội dung : thứ nhất, tập trung là sự thống
nhất về tư tưởng và hành động của tất cả các thành viên trong hệ thống. Thứ 2
đó là sự tập trung quyền lực để giải quyết các công việc phát sinh trong hệ
thống, tức là phải có đủ quyền lực để giải quyết mọi vấn đề có sự lảnh đạo, quản
lý, điều hành thông suốt. Do đó tập trung là 1 xu hướng cần thiết.
Về xu hướng dân chủ thì hiện nay có 2 quan điểm khác nhau về dân chủ. Quan
điểm thứ nhất là: Dân chủ là quyền và trình độ dân chủ tương ứng với quyền lực
của đối tượng quản lý. Nếu hiểu theo quan điểm này dễ dẫn tới tình trạng dân
chủ quá đà tự phát, tự do vô chính phủ. Vì quyền bao quát hết nội dung dân chủ
và quyền phải hiểu theo nghĩa là làm rõ cái gì, cái gì không làm rõ, do đó dân
chủ không đồng nghĩa với quyền. Quan điểm coi dân chủ là môi trường, là điều
kiện để phát triển của mỗi cá nhân. Như vậy, dân chủ là môi trường, là điều kiện
để phát triển của mỗi cá nhân có được những cơ hội phát triển hoàn thiện trong
sự phát triển của xã hội, của cộng đồng. Tùy thuộc khả năng và mức độ ảnh
hưởng của các cá nhân tới quyết định chung của cộng đồng, tới việc giải quyết
công việc chung mà có thể thấy một xã hội dân chủ đến mức nào.


Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để
xây dựng mô hình tổ chức quản lý còn gọi là nguyên tắc phân công, phân cấp,
đồng thời còn là cơ sở để xây dựng cơ chế quản lý kinh tế .
- Để vận dụng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ cần có 2 điều
kiện về nhận thức và thực tiễn. Về mặt nhận thức thì cần phải nhận thức đúng
vai trò của tập trung và vai trò của dân chủ trong quan hệ tập trung - dân chủ.
Trong quan hệ tập trung dân chủ thì tập trung bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
nó định hướng cho các biện pháp dân chủ nhằm để đảm bảo sự tồn tại và tạo ra
khả năng phát triển của hệ thống. Mất đi sự tập trung là mất đi sự thống nhất
trong hoạt động của hệ thống dẫn tới tình trạng tổ chức sẽ bị biến dạng. Ngoài
ra, tập trung còn là cơ sở định hướng để giải quyết các nội dung, biện pháp thực
hiện dân chủ; còn dân chủ thì có vai trò tạo cơ sở về xã hội, kinh tế, chính trị để

thực hiện tốt tập trung trong quản lý. Chính về mặt này các nhà quản lý mới tạo
ra được sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động nhằm đảm bảo tốt cho
yêu cầu tập trung trong quản lý. Ngược lại dân chủ cũng có vai trò tạo cơ sở cho
xã hội, kinh tế chính trị để thực hiện tốt tập trung trong quản lý, thông qua các
giải pháp dân chủ mà các nhà quản lý thực hiện được sự thống nhất trong quản
lý một cách tốt nhất. Như vậy, các biện pháp dân chủ nhằm bảo đảm cho sự lãnh
đạo tập trung, càng mở rộng dân chủ thì yêu cầu tập trung thống nhất càng cao,
khắc phục dân chủ đưa đến tự do vô chính phủ cũng như tập trung quá mức dẫn
đến tập trung quan liêu. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải được
thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quản
lý, nó có tính khách quan, phổ quát, song thực hiện không đơn giản, phụ thuộc
vào bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
Về mặt thực tiễn, chúng ta cần phải sử dụng kết hợp, những công cụ, những
biện pháp thực hiện tập trung dân chủ trong quản lý. Để đảm bảo yêu cầu tập
trung trong quản lý cần có những công cụ sử dụng như: Luật, chính sách, chế
độ, quy chế. Nhà nước sử dụng các hệ thống chiến lược, kế hoạch, chương trình
phát triển…và sử dụng một công cụ nữa đó là chế độ một người chỉ huy (còn gọi


là chế độ thủ trưởng). Đồng thời để đảm bảo yêu cầu dân chủ, các nhà quản lý
phả sử dụng các giải pháp như: chế độ tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, thực hiện các chế độ, các hình thức đảm bảo quyền tham gia quản lý của
chủ thể người lao động.
Thực trạng đất nước ta hiện nay đòi hỏi phải bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của
nhà nước được thể hiện chức năng quản lý bằng những công cụ như : sử dụng hệ
thống pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch, các chính sách, chế độ quản
lý và áp dụng chế độ một người chỉ huy để đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa của một nền kinh tế chứ không can thiệp sâu vào vai trò của dân chủ trong
quan hệ tập trung dân chủ. Tập trung chính là sự thống nhất, tập trung là cơ sở
để định ra giải pháp và nội dung dân chủ trong quản lý, tập trung còn là nền tản

pháp lý cho nội dung dân chủ, định ra những khuôn khổ, những giới hạn cần
thiết để đảm bảo dân chủ đúng hướng, bản chất quyền tập trung dân chủ xã hội
chủ nghĩa.

2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước
CHXHCN Việt Nam
2.1 Cơ sở pháp lí
Theo khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013:
”Điều 8
1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý


hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.”

2.2 Phân tích nội dung
Trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước tập trung
vào cơ quan nhà nước ở trung ương. Có sự kiểm tra, giám sát việc thực thi


quyền lực nhà nước tập trung vào cơ quan nhà nước ở trung ương. Có sự
kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa
phương; cơ quan quyền lực nhà nước ( Quốc hội, Hội đồng nhân dân) có
quyền giám sát hoạt động đối với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước( cơ quan hành chính, cơ quan xét xử…); cơ quan nhà nước cấp trên có
quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan cấp dưới. Trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước cấp trên quyết định và tổ chức thực
hiện chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng; kiểm tra việc chấp hành
của cơ quan cấp dưới.

Có sự thống nhất của pháp luật từ trung ương đến địa phương xuất phát từ

việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đồng thời, đòi hỏi pháp luật, mệnh
lệnh, chỉ thị, quyết sách của cấp trên phải được cấp dưới phục tùng tuyệt đối;
nguyên tắc thể hiện sự phục tùng, chấp hành của địa phương với trung ương,
của thiểu số với đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải thực hiện
chế độ báo cáo, thông tin và xác lập chế độ trách nhiệm rõ ràng giữa cấp trên
và cấp dưới, kiên quyết đấu tranh với tệ tập trung quan liêu, thói tự do vô
chính phủ nhằm đảm bảo trật tự kỷ cương, pháp luật của nhà nước và hạn chế
độc đoán, chuyên quyền , mất dân chủ…

Những vấn đề quan trọng của các cơ quan nahf nước phải được đưa ra thảo
luận tập thể và quyết định theo đa số. Đây là nội dung quan trọng của nguyên
tắc tập trung dân chủ nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động của cơ
quan nhà nước. Chẳng hạn, Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết
định theo đa số. Chính phủ làm việc có sự kết hợp chế độ lãnh đạo tập thể
với chế dộ thủ trưởng, chỉ những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền do
pháp luật quy định mới được đưa ra thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa
số các phiên họp, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo


phía có ý kiến của người đứng đầu là Thủ tướng. Tòa án khi xét xử tuân theo
nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, việc xét xử của Tòa án có
Hội thẩm tham gia, Hội thẩm và Thẩm phán độc lập ngang bằng nhau khi
đưa ra quyết định. Viện kiểm sát nhân dân có chế độ làm việc theo nguyên
tắc thủ trưởng lãnh đạo (tập trung thống nhất lãnh đạo trong nghành) kết hợp
với vai trò của ủy ban kiểm sát. Những vấn đề quan trọng của VKSND được
đưa ra thảo luận tập thể, lấy ý kiến thành viên Uỷ ban kiểm sát, nhưng việc
quyết định thuộc về người đứng đầu (Viện trưởng).


2.3 Nguyên tắc tập trung dân chủ trong nền hành chính Việt Nam

Tập trung dân chủ là nguyên tắc có nguồn gốc từ nguyên tắc tập quyền trong
nhà nước phong kiến, phát triển tích cực ở các nước tư sản và được phát triển
thành tập trung – dân chủ ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tập trung dân chủ
bao gồm hai vế: tập trung và dân chủ, trong đótập trung là sự thâu tóm quyền
lực của cấp trên, cấp Trung ương; dân chủ là việc mở rộng quyền cho cấp
dưới, cấp địa phương. Nguyên tắc này quy định trước hết là sự lãnh đạo tập
trung, nhưng không phải là tập trung tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề
cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất của quản lí hành chính nhà nước. Nếu
không có dân chủ thì bộ máy nhà nước rơi vào tình trạng quan liêu, lộng
quyền gây ảnh hưởng xấu đến đất nước.
Nguyên tắc này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ở một số khía cạnh cơ bản như sau:
- Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước do nhân dân xây dựng
nên. Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc này. Nhân dân bầu ra đại diện cho mình trong cơ
quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Cơ quan
quyền lực nhà nước lại bầu ra các thành viên của Chính phủ, ủy ban nhân dân
các cấp là những cơ quan hành chính nhà nước, xây dựng pháp luật về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước trên nguyên tắc tập trung – dân chủ. Như
vậy, nguyên tắc này được tuân thủ trong toàn bộ máy nhà nước.
- Thứ hai, quyết định của cấp trên, của trung ương buộc cấp dưới, địa phương
phải thực hiện. Đây là biểu hiện của sự tập trung quyền lực vào cơ quan cấp
trung ương, đồng thời dân chủ trong việc huy động sự chủ động, sáng tạo trong
thực hiện quyết định của các cấp địa phương.


- Thứ ba, những vấn đề quan trọng của cơ quan nhà nước phải được đưa ra thảo
luận tập thể và quyết định theo đa số. Đây là biểu hiện của sự tập trung trong
việc thống nhất ý kiến, dân chủ trong việc đóng góp ý kiến và quyết định cuối
cùng.

- Thứ tư, mọi vấn đề quan trọng của đất nước phải được Quốc hội thông qua,
trước khi Quốc hội thảo luận và thông qua phải được đưa ra trưng cầu ý kiến của
nhân dân. Biểu hiện của tập trung thông qua quyết định tối cao của Quốc hội,
đồng thời dân chủ thể hiện trong việc lấy ý kiến của nhân dân.
Vai trò của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước
Đây là nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên
với việc mở rộng dân chủ cho cấp dưới, đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong quản lí nhà nước. Dân chủ là bản chất của nhà nước XHCN, có đảm bảo
dân chủ mới có thể tập trung sức mạnh của tập thể và phát huy trí tuệ, phát huy
tính chủ động và sức sáng tạo của nhân dân. Quản lí nhà nước, quản lí xã hội đòi
hỏi phải có sự tập trung quyền lực, có tập trung quyền lực mới quản lí được xã
hội, mới thiết lập được trật tự xã hội.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với
nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng tới dân chủ sẽ dẫn đến tập
trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của nhà nước ta. Ngược lại nếu quá
thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt
động của nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy, tập trung phải luôn gắn liền với dân
chủ. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất không thể tách rời.

3. Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong địa phương


Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà
nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không
có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ.
Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:
+ Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và Trung ương đưa ra cấp dưới và
địa phương phải có nghĩa vụ thực hiện.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Điều 7: “Uỷ ban nhân dân

cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ”. Khoản 7 Điều 17 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND cấp tỉnh: “Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ
thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của
Hội đồng nhân dân cấp huyện”
+ Mặt khác, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa
phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành
chính nhà nước. Sự phục tùng mệnh lệnh không mang ý nghĩa tuyệt đối, phục
tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy
định của pháp luật. Cấp trên, trung ương phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa
phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới
khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo
tự chịu trách nhiệm của địa phương, cấp dưới.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt là tổ
chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Điều này được thể hiện ở
việc:
Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà


nước cấp trên. Biểu hiện của nó là ở việc Uỷ ban nhân dân trực thuộc Hội đồng
nhân dân cùng cấp hoặc Quốc hội (mối phụ thuộc ngang) và Uỷ ban nhân dân
cấp trên hoặc Chính phủ ( mối phụ thuộc dọc ).
Đối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Chẳng hạn như:
Sở tài nguyên và môi trường của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chịu sự
quản lí của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của
địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ. Trong đó, mối phụ thuộc
ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, thế mạnh của địa
phương để hoàn thành nhiệm vụ được giao, mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên
có thể tập trung quyền lực nhà nước nhằm chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo
nên một hoạt động chung thống nhất.

4. Liên hệ thực tiễn trong xây dựng Đảng
Nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC) chiếm một vị trí quan trọng trong học
thuyết Mác-Lênin về đảng cộng sản. Bởi, thực chất tất cả những tiêu chuẩn sinh
hoạt đảng đều xuất phát từ nguyên tắc này. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy
TTDC làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Nguyên tắc TTDC cùng với những
nguyên tắc khác cấu thành hệ thống nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất trong chỉ đạo mọi hoạt động tổ


chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng ta. Nguyên tắc TTDC
chính là điều kiện bảo đảm cho tổ chức đảng cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý
chí, hành động, đồng thời, phát huy sáng kiến và tính tích cực, sáng tạo của mọi
đảng viên, mọi tổ chức đảng. Nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC
là một yêu cầu khách quan, thường xuyên, là nội dung, biện pháp cơ bản xây
dựng các đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh. Tiến trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi nguyên tắc
TTDC trong công tác xây dựng đảng cần phải được tăng cường.
Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy, đại đa số các đảng bộ cơ sở
luôn giữ vững nguyên tắc TTDC, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
góp phần hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên thực tế “nguyên tắc
TTDC còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng” (1),

thể hiện ở chất lượng thực hiện một số nội dung của nguyên tắc; kiểm tra việc
chấp hành nguyên tắc chưa đầy đủ, chưa ngang tầm yêu cầu xây dựng đảng bộ
cơ sở trong sạch, vững mạnh... Một khảo sát về khó khăn, vướng mắc và nguyên
nhân hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện nguyên tắc TTDC ở cơ sở được chia
theo 4 nhóm vấn đề cho kết quả như sau: 1- Liên quan đến vấn đề nhận thức: Có
biểu hiện xem nhẹ ý nghĩa, tầm quan trọng của nguyên tắc hoặc chưa hiểu đúng
bản chất, đủ nội dung của nguyên tắc trong thực tiễn; thực hiện sai nguyên tắc
do kém hiểu biết. 2- Liên quan đến văn bản quy định, hướng dẫn: Chưa có văn
bản cụ thể hoá những nội dung của nguyên tắc, quy định trách nhiệm cụ thể cho
tập thể, cá nhân và các chế tài xử lý khi vi phạm nguyên tắc. 3- Liên quan đến
vấn đề tổ chức thực hiện: Có hiện tượng biến dạng trong thực hiện nguyên tắc
hoặc lợi dụng nguyên tắc để vụ lợi, thực hiện ý đồ cá nhân; tính gương mẫu và
năng lực tổ chức thực hiện của người đứng đầu cấp ủy hạn chế; chưa có chương
trình kiểm điểm việc thực hiện quy chế ở các cấp uỷ, tổ chức đảng; tổ chức kiểm
điểm, tự phê bình và phê bình chưa khoa học, thiếu trọng tâm, trọng điểm,
không thường xuyên, không thông báo kết quả tự phê bình, phê bình cho đảng
viên biết để theo dõi, giám sát việc sửa chữa; tính tự giác, thẳng thắn trong phê


bình rất hạn chế, việc phân tích, đánh giá chất lượng TCCSĐ, đảng viên, cán bộ
hằng năm chưa thực chất, hiệu quả thấp. 4- Liên quan đến các yếu tố khác thể
hiện ở việc chưa có cơ chế động viên, khuyến khích thích đáng, bảo vệ an toàn
người đấu tranh phê bình thẳng thắn, tố cáo tiêu cực, tham nhũng; thông tin
cung cấp không đầy đủ, không khách quan, thiếu chính xác, không kịp thời;
chưa có cơ chế chất vấn, phản biện trong Đảng để tránh cho cấp uỷ, tổ chức
đảng đề ra các chủ trương, chính sách không sát thực tế, kém tính khả thi hoặc
vi phạm pháp luật.
Để khắc phục những thiếu sót trên, góp phần nâng cao chất lượng thực hiện
nguyên tắc TTDC, đòi hỏi các đảng bộ cơ sở cần tiếp tục nâng cao nhận thức,
khả năng tổ chức thực hiện nguyên tắc TTDC cho cấp ủy viên và đội ngũ đảng

viên. Bởi, điều kiện tiên quyết bảo đảm cho việc thực hiện đúng nguyên tắc
TTDC là mọi cấp ủy, đảng viên và tổ chức đảng phải có nhận thức đúng, sâu sắc
về bản chất, nội dung nguyên tắc, thấy được tính tất yếu phải thực hiện nguyên
tắc, từ đó nêu cao ý thức tự giác thực hiện đúng, đầy đủ nguyên tắc. Thực tế cho
thấy, trừ những trường hợp cố tình vi phạm do động cơ cá nhân, việc vi phạm
phần lớn là do nhận thức không đúng, không đầy đủ các nội dung của nguyên
tắc. Do đó, cần kết hợp giữa việc tổ chức học tập, bồi dưỡng của cấp ủy với việc
động viên, bảo đảm mọi đảng viên (trong đó chú trọng đội ngũ cấp ủy viên, bí
thư, phó bí thư, đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng đảng) nắm vững thực
chất, nội dung cụ thể của nguyên tắc, có ý thức tôn trọng, tự giác, chủ động thực
hiện và kiên quyết đấu tranh bảo vệ. Cần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa
tập trung và dân chủ trong quá trình thực hiện; phê phán, khắc phục những
khuynh hướng lệch lạc, tách rời, nhấn mạnh một chiều tập trung hoặc dân chủ
làm biến dạng nguyên tắc; tích cực bồi dưỡng cách thức tổ chức, quy trình, thủ
tục và kinh nghiệm thực hiện từng nội dung cụ thể của nguyên tắc cho các cấp
ủy viên. Đồng thời, cần thống nhất trong TCCSĐ về quan điểm, phương pháp,
cách làm việc, xử lý các mối quan hệ theo đúng nội dung và yêu cầu của nguyên
tắc TTDC.


Đặc biệt coi trọng cụ thể hoá các nội dung của nguyên tắc TTDC, nâng cao tính
khoa học, tính cụ thể, tính pháp lý trong quy chế làm việc của các cấp ủy phù
hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của đảng bộ. Cần nhận thức rõ việc soạn thảo và
ban hành quy chế là một việc làm nghiêm túc, khoa học, không được chiếu lệ,
hình thức. Vì vậy, phải căn cứ vào tình hình, đặc điểm của đảng bộ, chi bộ để
xây dựng quy chế, quy định của cấp uỷ, vừa đúng với nguyên tắc của Đảng, vừa
phù hợp với đặc điểm của đơn vị, giúp cho các cấp uỷ, tổ chức đảng và mọi
đảng viên hiểu và thực hiện đúng các nội dung của nguyên tắc. Tất cả các điều
khoản trong quy chế phải được nghiên cứu cụ thể, cân nhắc toàn diện, được thảo
luận kỹ, đạt tới sự thống nhất cao trong cấp ủy trước khi ban hành. Phải xem quy

chế là những quy định trực tiếp cho hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, từng cấp ủy
viên, đồng thời là căn cứ, tiêu chuẩn để đánh giá vai trò, trách nhiệm, hiệu quả,
hiệu lực công tác lãnh đạo. Các cấp ủy viên phải nắm chắc nội dung quy chế, có
ý thức trách nhiệm cao, chấp hành nghiêm nội dung và yêu cầu của quy chế.
Qua thực tiễn, những điều chưa phù hợp cần được kịp thời điều chỉnh và khi có
những quy định mới của cấp trên phải nhanh chóng cụ thể hóa, bổ sung vào nội
dung quy chế.
Một biện pháp có tính khả thi cao để nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
TTDC là cần phải tăng số lượng và nâng cao chất lượng các ý kiến trong hội
nghị của các tổ chức đảng ở cơ sở. Bởi, “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã
tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân
lý”. Do đó, bên cạnh việc nâng cao trình độ trí tuệ cho đội ngũ đảng viên, năng
lực tư duy làm cơ sở cho việc vận dụng vào quá trình chuẩn bị và ra các quyết
định, phải tìm những hình thức, biện pháp phát huy mạnh mẽ dân chủ nội bộ. ý
kiến đề xuất phải chỉ rõ được những vấn đề yếu kém, nổi cộm, bức xúc để thảo
luận cách giải quyết, tránh dài dòng, sai lệch trọng tâm, không rõ chính kiến.
Cần xác định việc tham gia ý kiến, trình bày chính kiến cá nhân trong sinh hoạt
đảng là nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi đảng viên và phải được quy định rõ ràng,
trở thành một tiêu chí đánh giá, phân loại đảng viên, đánh giá kết quả hoàn thành


nhiệm vụ và trách nhiệm, vai trò đảng viên trong công tác xây dựng đảng. Đồng
thời, cần kiên quyết đấu tranh khắc phục hiện tượng dân chủ hình thức và mọi
biểu hiện của tệ quan liêu, gia trưởng, độc đoán trong tổ chức đảng. Đồng chí bí
thư (hoặc cấp ủy viên được ủy quyền) thay mặt cấp ủy chủ trì các cuộc họp phải
chủ động điều hành hội nghị đi đúng trọng tâm, phải biết lắng nghe, định hướng,
khêu gợi vấn đề, phát hiện và kết luận vấn đề một cách chính xác, khắc phục
tình trạng kết luận chung chung, dung hòa các ý kiến cốt làm vừa lòng mọi
người. Từng đồng chí cấp ủy viên phải rèn luyện ý thức dân chủ, bình đẳng
trong tranh luận, thảo luận, tránh gò ép, áp đặt ý nghĩ chủ quan đối với ý kiến

của đảng viên. Những chủ trương, biện pháp lãnh đạo phải được quyết định
bằng trí tuệ tập thể, tránh cục bộ, bè phái hoặc quan liêu, duy ý chí, dân chủ hình
thức, độc đoán để bảo đảm nghị quyết đề ra đúng đắn, có tính khả thi cao.
Tiếp tục đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng
theo hướng “thực hành dân chủ rộng rãi trong tổ chức và hoạt động của Đảng” (3).
Mọi hoạt động của đảng viên và các tổ chức đảng phải bảo đảm tính đảng, tính
nguyên tắc với sự năng động, sáng tạo trước cái mới, cái đúng nảy sinh trong
thực tiễn... Cần tích cực phát hiện những cách làm hay, kinh nghiệm tốt, điển
hình tiên tiến để nhân rộng. Đồng thời, cần tập trung giải quyết những bức xúc
nảy sinh. Bảo đảm tính khách quan, khoa học, trung thực trong thu thập, xử lý,
phân tích thông tin, không tô hồng hoặc bôi đen. Cần kết hợp chặt chẽ giữa phát
huy dân chủ của tập thể cấp ủy, chi bộ với đề cao ý thức trách nhiệm cá nhân
đảng viên, thực hiện nói đi đôi với làm, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh
trong phương pháp, hách dịch trong thái độ. Thường xuyên sơ, tổng kết, rút kinh
nghiệm nhằm xây dựng bầu không khí tích cực, lành mạnh, đoàn kết, tôn trọng,
hiểu biết lẫn nhau, chân tình, khiêm tốn trong quan hệ giữa các đảng viên.
Tăng cường tính công khai, công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử
lý những sai phạm. Đây là biện pháp cần thiết, bởi, không phải cứ có quy chế,
quy định là mọi việc được thực hiện. Thực tế đã có không ít những điều khoản
ghi trong Điều lệ Đảng mà không được đảng viên và tổ chức đảng thực hiện


nghiêm túc, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng. Muốn thực hiện được quy chế,
quy định, trước hết cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ
quan kiểm tra, giám sát phải tích cực hoạt động. Tính công khai là biện pháp có
hiệu quả bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng. Tùy từng vấn đề và ở những
mức độ, phạm vi thích hợp, phải thực hiện công khai các hoạt động của Đảng,
của các cấp ủy đảng, của những người lãnh đạo các cấp, công khai các ý kiến
khác nhau... Đồng thời, “các cấp ủy, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát... việc chấp hành nguyên

tắc TTDC, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ
gìn đoàn kết nội bộ”. Cần kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên, định kỳ và
bất thường, linh hoạt sử dụng các hình thức kiểm tra cụ thể; bảo đảm thường
xuyên nắm vững thực chất tình hình chấp hành nguyên tắc TTDC, chấp hành
nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của tổ chức đảng; kịp thời phát hiện, xem
xét, kết luận, xử lý đúng người, đúng tội đối với những đảng viên có sai phạm
trong chấp hành nghị quyết hoặc có những lời nói, việc làm trái với quan điểm
của Đảng, độc đoán, chuyên quyền và công khai việc xử lý kỷ luật những trường
hợp đã rõ là phạm pháp.

C. Kết luận
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong điều hành và quản
lí bộ máy nhà nước. Thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi những sự cố gắng của
các cơ quan, các ban ngành cùng toàn thể nhân dân, không chỉ thực hiện tốt tập
chung là đưa quyền lực về người đứng đầu nhưng không hoàn toàn mà còn phải
có dân chủ - đó là sự đóng góp ý kiến của các cơ quan cấp dưới, xây dựng ý kiến
một cách tích cực. Tập trung quá thì dẫn đến quan liêu,sách nhiễu; dân chủ quá
thì dẫn đến sự lạm quyền ý kiến không đi được đến đích. Chính vì vậy chúng ta
phải cố gắng nỗ lực hết sức hơn nữa để phát huy tính tiềm năng của nguyên tắc
này góp phần xây dựng đất nước vững mạnh hơn.



Danh sách tài liệu tham khảo
1.

Hiến Pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013;

2.


Gíao trình luật hành chính Việt Nam đại học Kiểm sát Hà Nội
;

3.

Tập bài giảng luật Hiến Pháp Việt Nam đại học Kiểm sát Hà
Nội;

4.

/>%E1%BA%AFc-t%E1%BA%ADp-trung-d%C3%A2n-ch
%E1%BB%A7-li%C3%AAn-h%E1%BB%87-th%E1%BB
%B1c-ti%E1%BB%85n;

5.

/>mid=66&mzid=572&ID=1335;

6.

Giao trình Luật Hành chính Việt Nam đại học Luật;

7.

Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.


MỤC LỤC




×